Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - Bộ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TÉ CÔNG CỘNG
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
KIẾN THỨC, THÁI ĐÔ VÀ sư HỖ TRƠ CỦA NGƯỜI CHA
TRONG THƯC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA ME CỦA
••
CÁC BÀ MẸ SINH CON TẠI BỆNH VIỆN
PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2015
Bộ Y TẾ - Bộ GIÁO DỤC YÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
Bộ Y TẾ - Bộ GIÁO DỤC YÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
LUẬN VĂN THẠC sĩ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MẪ SÓ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
KIẾN THỨC, THÁI
Độ VÀ sự HỖ TRỢ CỦA NGƯỜI CHA
TRONG THỰC HÀNH NUÔI CON BẰNG SỮA MẸ
CỦA CÁC BÀ ME SINH CON TAI BÊNH VIÊN
••••
PHU SẢN TRUNG ƯƠNG NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC sĩ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01
Bộ Y TẾ - Bộ GIÁO DỤC YÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
Bộ Y TẾ - Bộ GIÁO DỤC YÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
PGS. TS. Trần Hữu Bích
HÀ NỘI, 2015
Bộ Y TẾ - Bộ GIÁO DỤC YÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
Bộ Y TẾ - Bộ GIÁO DỤC YÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
5
5
LỜI CẢM ƠN
Sau 2 năm học tập, giờ đây khỉ cuốn luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Quản lỷ bệnh viện được hoàn thành, tận đáy lòng
mình, tôi xỉn bày tỏ lòng cảm ơn sâu sẳc tới các thầy, cô giảo trường Đại học Y tế Công cộng đã tận tình giảng dạy, hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành chương trình học tập và hố trợ tôi trong quả trình thực hiện đề tài nghiên cứu.
Với tất cả tình cảm chân thành nhất, tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng cảm ơn tới PGS-TS. Trần Hữu Bích - người đã giúp
đỡ tôi từ khi xác định vẩn đề nghiên cứu, viết đề cương, chia sẻ thông tin và hoàn thành luận văn này. Kiến thức, học thuật, sự
tận tình trong giảng dạy của thầy đã giúp tôi có được những kiến thức, kinh nghiệm quỷ báu trong nghiên cứu khoa học.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám đốc bệnh viện Phụ sản Trung ương, khoa Sản Thường - nơi tôi tiến
hành nghiên cứu, đã tạo điều kiện giúp đõ, cung cấp số liệu, góp ỷ, hướng dẫn và tham gia vào nghiên cứu này.
Xin cảm ơn các bậc sinh thành, người chồng, hai con trai và những người thăn trong gia đình tôi đã chịu nhiều hy
sinh, vất vả, luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập và phấn đẩu.
Xin cảm ơn tất cả các bạn đồng môn trong lớp cao học Quản lỷ bệnh viện khỏa 6 đã cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm và
giúp đỡ tôi trong hai năm học qua.
Cuối cùng, với những kết quả trong nghiên cứu này, tôi xin chia sẻ với tất cả các bạn đồng nghiệp, đặc biệt là những ai
quan tâm đến lĩnh vực này.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Nguyễn Thị Thanh Tâ
6
6
mMỤC LỤC
7
7
Mối liên quan giữa sự tiếp cận thông tin y tế với kiến thức của người cha về nuôi
3.1.
xxxvii
xxxvii
8
8
3.2.
Phụ lục 5Phụ lục 6
xl
9
9
3.3.
Phụ lục 7
xliiDANH MỤC CÁC BẢNG
3.4.
3.5.
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
3.6.
Vll
3.7.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
3.8.
BSSS
3.9.
CSCKSS
3.10.
ĐTV
3.11.
GĐ
3.12.
GSV
3.13.
NVYT
3.14.
NCBSM
3.15.
NCBSMHT
3.16.
PSTƯ
3.17.
SIDS
3.18.
THCS
3.19.
THPT
3.20.
TT
3.21.
UNICEF
3.22.
3.23.
WHO
XH
3.24.
Bú sớm sau sinh
3.25.
Chăm sóc sức khỏe sinh sản
3.26.
Điều tra viên
3.27.
Gia đình
3.28.
Giám sát viên
3.29.
Nhân viên y tế
3.30.
Nuôi con bằng sữa mẹ
3.31.
Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
3.32.
Phụ sản Trung ương
3.33.
Sudden Infant Death Syndrome
Vll
3.38.
3.34.
Hội chứng đột tử trẻ sơ sinh
3.35.
Trung học cơ sở
3.36.
Trung học phổ thông
3.37.
Thông tin
United Nations International Children's Emergency Fund Quỹ nhi đồng
Liên họp quốc World Health Organization Tổ chức Y tế thế giới Xã hội
Vll
3.39.
3.40. TÓM TẮT NGHIÊN cứu
3.41.
Thực hành bú sớm sau sinh (BSSS) và nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
(NCBSMHT) tại bệnh viện là tiền đề đảm bảo cho việc NCBSMHT giai đoạn 6 tháng
đầu đời trẻ. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vai trò của người cha trong sự
thành công của thực hành NCBSM tại cộng đồng. Đe tìm hiểu vấn đề này tại mô hình
bệnh viện, chúng tôi thực hiện đề tài: “Kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha
trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ sinh con tại bệnh viện Phụ
sản Trung ương năm 2015”.
3.42.
Mục tiêu của nghiên cứu là mô tả thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ, mô
tả kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ, hành động hỗ trợ của người cha và mối
liên quan với thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại bệnh viện Phụ sản Trung ưomg năm
2015, đồng thời xác định mối liên quan giữa sự tiếp cận thông tin y tế với kiến thức của
người cha về nuôi con bằng sữa mẹ.
3.43.
Với phưomg pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, nghiên cứu sử dụng bộ
câu hỏi phỏng vấn, phát vấn dành cho 369 người cha về kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ
của họ đối với vấn đề NCBSM và bộ câu hỏi phỏng vấn dành cho 369 người mẹ về
thực hành NCBSM tính đến thời điểm ra viện.
13
13
3.44.
Kết quả cho thấy tỉ lệ cho con BSSS (trong vòng 1 giờ đầu) của bà mẹ ở
cả 2 nhỏm là 30,4%. Trong đó toàn bộ nhóm bà mẹ mổ đẻ không cho con
BSSS. Tỉ lệ thực hành NCBSM hoàn toàn tại thời điểm ra viện là 24,7%. Điểm
trung bình kiến thức của người cha về NCBSM là 13,8; có 46,3% người cha có
kiến thức về NCBSM đạt và 53,7% chưa đạt. 62,9% người cha biết rằng cần
cho con bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, 73,7% người cha biết tên gọi sữa
non/sữa đầu. Tỉ lệ người cha biết đứng khái niệm NCBSM hoàn toàn là 75,3%.
Điểm trung bình thái độ của người cha về NCBSM là 42,7; có 54,5% người cha
có thái độ tốt về NCBSM và 45,5% thái độ chưa tốt. Điểm trung bình hỗ trợ của
người cha về NCBSM là 43,5; có 50,1% người cha có sự hỗ trợ tốt trong thực
hành NCBSM của các bà mẹ và 49,9% hỗ trợ chưa tốt. Có mối liên quan giữa
điểm kiến thức của người cha với thái độ của họ về vấn đề NCBSM (P < 0,05).
Ở nhóm đẻ thường: có mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, sự hỗ trợ của
người cha với thực hành NCBSMHT tính đến thời điểm ra viện (P < 0,05); có
mối liên quan giữa kiến thức, sự hỗ trợ của người cha với thực hành cho con
BSSS. Có mối liên quan giữa hình thức cung cấp thông tin, người cung cấp
thông tin về NCBSM với kiến thức về NCBSM của người cha (P < 0,05). Có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về trung bình điểm kiến thức của 2 nhóm muốn
và không muốn nhận thêm thông tin về NCBSM (P < 0,05).
14
14
3.45.
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi đưa ra khuyến nghị cho bệnh viện về
các can thiệp nhằm nâng cao kiến thức của người cha về vấn đề NCBSM. Đó là
tổ chức các lớp tiền sản, nhấn mạnh sự tham gia và vai trò của người cha.
Những lớp này cần tổ chức không những trong giờ hành chính mà còn ngoài giờ
hành chính hoặc vào cuối tuần với lịch giảng được công bố cụ thể, dễ tiếp cận.
Đối với người cha, chúng tôi khuyến cáo họ cần tìm hiểu thêm và tham gia vào
vấn đề NCBSM vì đây là vấn đề quan trọng và là chăm sóc thiết yếu trong
những tháng đầu đời, rất có giá trị trong cả cuộc đời về sau của trẻ. Đồng thời
những người cha nên tham gia các lớp tiền sản được tổ chức tại bệnh viện
PSTƯ.ĐẶT VẤN ĐỀ
3.46.
Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) đã được khẳng định là phương cách
tốt nhất đối với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nhiều bằng chứng hiện nay đã khẳng định thực tế
rằng cho con bú là một can thiệp chính cho trẻ sơ sinh và sức khỏe bà mẹ về sự sống
còn cả trong ngắn hạn và dài hạn. Phương thức này góp phần đáng kể làm giảm tỷ lệ tử
vong sơ sinh. Trong khi đó, một thách thức lớn là tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn rất thấp. Theo
báo cáo của Viện dinh dưỡng quốc gia năm 2005, chỉ có 32% trẻ sơ sinh và 12% trẻ từ
4 - 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn [23]. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò
của nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu trong việc ngăn ngừa các bệnh
tật và giảm tỉ lệ tử vong ở trẻ nhỏ. Đặc biệt, cho con bú sớm ngay trong giờ đầu tiên sau
sinh là một can thiệp đơn giản, dễ thực hiện mà lại rất hiệu quả trong giảm tỷ lệ tử vong
sơ sinh. Tuy nhiên tỉ lệ này ở Việt Nam hiện nay là rất thấp. Một nghiên cứu tại bệnh
viện Phụ sản Hà Nội thì tỷ lệ bú sớm sau sinh (BSSS) là 33,8% [7],
3.47.
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã khẳng định việc cho con bú sớm và
bú mẹ hoàn toàn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như: các rào cản về văn hóa, tôn giáo
[44]; áp lực của gia đình, quan điểm sai lầm của bà mẹ về thực hành dinh dưỡng cho trẻ
nhỏ [32]. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng người chồng có vai trò quan trọng trong hỗ
trợ NCBSM nói riêng, chăm sóc trẻ nhỏ nói chung. Hơn một nửa các ông bố cho biết
họ giúp vợ làm việc nhà, chăm sóc, cho con ăn uống, trông con và tắm cho con, đôi khi
nấu ăn và giặt giũ. Thực hành NCBSM thành công phụ thuộc đáng kể vào sự hỗ trợ về
tâm lý của người chồng và tình cảm của anh ta đối với vợ [47]. Đồng thời NCBSM
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi người chồng không đồng tình với việc cho con bú [38].
Cũng đã có một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ của người cha ở vùng nông thôn.
Theo nghiên cứu tại CHILILAB giai đoạn 2010- 2012 cho thấy tỷ lệ người cha biết
15
15
đúng tên gọi của sữa non, sữa đầu là 37,8%, biết đúng định nghĩa NCBSM hoàn toàn là
49,8%, biết tầm quan trọng của NCBSM đối với trẻ là 50%, biết đúng thời gian
NCBSM hoàn toàn là 6 tháng 47,6% [3].
16
16
3.48.
Mặc dù bệnh viện Phụ sản Trung ương (PSTƯ) luôn quan tâm, chú trọng
triển khai, phát triển các hoạt động của Bệnh viện Bạn hữu Trẻ em, tuy nhiên tỉ
lệ cho con bú sớm trong vòng 1 giờ sau sinh tại đây vẫn thấp với 31%, tỉ lệ
không cho con ăn hoặc uống thứ khác trước khi bú mẹ lần đầu là 76,9% [19]. số
liệu này chưa đáp ứng được mục tiêu của lãnh đạo bệnh viện và Bộ Y tế đề ra,
đó là tăng tỷ lệ cho con bú sớm trong 1 giờ đầu sau sinh lên 90% và tỉ lệ cho
con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu lên 50% [5]. Vậy lý do nào dẫn
đến thực trạng trên? Ngoài các can thiệp y tế ra, liệu vai trò của người cha,
người sát cánh bên các bà mẹ, có liên quan hay không tới thực hành cho con
BSSS và NCBSM hoàn toàn tại bệnh viện? Chưa có một nghiên cứu nào nghiên
cứu về vai trò của người cha đối với thực hành NCBSM tại một bệnh viện lớn,
tuyến trung ương cũng như kiến thức, thái độ của họ về vấn đề này. Xuất phát từ
thực tế fren, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài; “Kiến thức, thái độ và sự hỗ
trợ của người cha trong thực hành nuôi con bằng sữa của các bà mẹ sinh
con tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2015” để có cơ sở khoa học trả lời
cho các câu hỏi sau: Thực trạng thực hành NCBSM tại bệnh viện là như thế
nào? Thực trạng kiến thức của người cha tại bệnh viện PSTƯ về vấn đề
NCBSM như thế nào? Kiến thức, thái độ và sự hỗ trợ của người cha có liên
quan như thế nào với thực hành NCBSM của vợ? Một câu hỏi khác là thái độ,
sự hỗ trợ của người cha có chịu ảnh hưởng của kiến thức hay không? Từ đó
giúp bệnh viện có bằng chứng để đề xuất thêm những giải pháp, phương cách
nhằm nâng cao kiến thức, cải thiện thái độ, sự hỗ trợ của họ với thực hành
NCBSM của vợ, góp phần làm tăng tỷ lệ BSSS và NCBSM hoàn toàn tại bệnh
viện.MỤC TIÊU NGHIÊN cứu
3.49.
Mục tiêu cụ thể:
1. Mô tả thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong thời gian nằm viện của các bà
mẹ sinh con tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2015.
2. Mô tả kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ, thái độ và sự hỗ trợ của người cha
trong thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại bệnh viện Phụ sản Trung ưoug năm 2015.
3. Xác định mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, sự hỗ trợ của người cha với
thực hành nuôi con bằng sữa mẹ tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2015.
4. Xác định mối liên quan giữa sự tiếp cận thông tin y tế với kiến thức của
người cha về nuôi con bằng sữa mẹ.
3.50.
Chương 1. TỔNG QUAN
17
17
1.1.
Sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ
1.1.1.
Khái niệm về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ
3.51.
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất, hoàn hảo nhất cho sức khỏe, sự
tăng trưởng, phát triển của trẻ. Sữa mẹ có đày đủ tất cả các thành phàn dinh dưỡng mà
trẻ cần, bao gồm chất béo, đạm, đường, vitamin, muối khoáng và nước. Các thảnh phần
dinh dưỡng trong sữa mẹ dễ tiêu hóa, hấp thu, có sẵn trong bầu vú mẹ, không mất công
chuẩn bị. Trong 6 tháng đầu đời, trẻ chỉ cần bú sữa mẹ là đáp ứng đủ nhu cầu dinh
dưỡng cho trẻ, không cần thêm bất cứ thức ăn, nước uống nào khác [48], [68].
3.52.
Sữa non là sữa mẹ tiết ra trong vài ngày đầu sau đẻ. Sữa non màu vàng
nhạt hoặc đặc sánh. Sữa non có nhiều kháng thể, tế bào bạch cầu, bảo vệ cơ thể trẻ
chống nhiễm khuẩn và dị ứng; có tác dụng xổ nhẹ giúp cho việc tống phân su, hẻ đỡ
vàng da; có nhiều vitamin A giúp trẻ chống nhiễm khuẩn và bệnh khô mắt. Các yếu tố
phát triển trong sữa non giúp cho bộ máy tiêu hóa trưởng thành chống dị ứng và không
dung nạp thức ăn khác. Vì vậy cần cho trẻ bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau đẻ, không
cho trẻ ăn bất cứ thức ăn nào khác ngoài sữa mẹ [4],
3.53.
Sữa trưởng thành: gồm sữa đầu và sữa cuối. Sữa đầu có mầu hơi xanh.
Cho hẻ bú sữa đầu sẽ nhận được một lượng lớn các chất dinh dưỡng và nước. Vì vậy
không cần cho ứẻ uống thêm nước hoặc bất kỳ đồ uống nào khác trước khi trẻ được 6
tháng tuổi và ngay cả khi trời nóng. Sữa cuối được sản xuất ở cuối bữa có màu hắng
hơn vì có nhiều chất béo. cần cho hẻ bú kiệt một bên vú rồi mới chuyển sang vú khác
để trẻ nhận được sữa cuối nhiều năng lượng [4].
3.54.
Theo Tổ chức Y tế thế giới và Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF,
nuôi con bằng sữa mẹ là cách nuôi dưỡng trẻ trong đó trẻ bú trực tiếp sữa mẹ hoặc được
nuôi bằng sữa mẹ vắt ra. Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn là chỉ cho con bú mẹ mà
không thêm bất kỳ loại thức ăn nước uống nào, ngoại trừ các loại thuốc, vitamin,
khoáng chất. Tỷ lệ trẻ được bú sớm sau sinh được tính bằng tỷ số giữa tổng số trẻ dưới
24 tháng tuổi được bú mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh trên tổng số hẻ dưới 24 tháng tuổi.
Tỷ lệ trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn được tính bằng tỷ số giữa số ứẻ dưới
6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn ứong 24 giờ trên tổng số trẻ dưới 6 tháng [72],
Đồng thời, WHO và Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
18
18
sản đã khẳng định cho hẻ bú sớm sau sinh là việc trẻ được bú mẹ trong vòng 1 giờ đầu
sau sinh [4],
1.1.2.
3.55.
Cách ngậm bắt vú và tư thế bú đúng
Việc cho con bú mẹ có đảm bảo hiệu quả hay không phụ thuộc phần lớn
vào việc thực hành đúng tư thế cho trẻ bú và cách cho trẻ ngậm bắt vú đúng. Tư thế cho
con bú đúng là đầu và thân trẻ ở trên một đường thẳng, mặt trẻ đối diện với vú và môi
trẻ đối diện với nứm vú, thân trẻ sát với mẹ, đồng thời mẹ phải đỡ phía dưới mông hẻ.
3.56.
Bên cạnh đó, hẻ ngậm bắt vú đủng phải đảm bảo cằm trẻ chạm vào vú
mẹ miệng trẻ mở rộng, quầng vú ở phía trên miệng trẻ rộng hon ở phía dưới, ưể đưa
lưỡi tới phía dưới xoang sữa (quầng thâm của vú) để ép sữa ra, má của trẻ căng phồng
[4].
1.1.3.
3.57.
Lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ
NCBSM là phương pháp nuôi dưỡng tự nhiên gắn liền với sự ra đời và
phát triển của con người. Lợi ích của NCBSM không những quan trọng đối với con mà
còn rất tốt cho sức khỏe của mẹ.
3.58.
Đối với con, sữa mẹ vô khuẩn, trẻ bú trực tiếp sữa mẹ, giúp trẻ chống lại
các bệnh nhiễm khuẩn nhờ các yếu tố kháng khuẩn. Một số kháng thể truyền từ người
mẹ qua rau đến bào thai đã giúp cho trẻ mới đẻ có sức đề kháng và miễn dịch một số
bệnh đặc biệt trong 4-6 tháng đầu nhu sởi, cứm, ho gà, vi khuẩn không có điều kiện
phát triển nên trẻ ít bị tiêu chảy. Trong sữa mẹ chứa nhiều thành phần kháng khuẩn như
Globulin miễn dịch IgA, lactoferin, lysozym, lympho bào và một số thành phần khác.
IgA có nhiều trong sữa non và giảm dần trong những tuần sau. IgA không được hấp thu
mà hoạt động ngay tại ruột để chống lại một số vi khuẩn như E.coli và virus. Lactoferin
là một protein có gắn sắt có tác dụng kìm khuẩn không cho vi khuẩn cần sắt phát triển.
Bên cạnh đó Lysozym là một enzym có tác dụng diệt khuẩn. Lympho bào sản xuất IgA
tiết và interferon, có tác dụng ức chế hoạt động của một so virus. Đại thực bào có tính
chất thực bào và bài tiết lysozym và lactoferin. Đại thực bào có thể thực bào Candida
và vi khuẩn đặc biệt là những vi khuẩn Gram âm, nguyên nhân gây viêm một hoại tử ở
trẻ sơ sinh. Yếu tố kích thích sự phát triển của vi khuẩn Lactobacillus bifidus. Một so
lactose vào một chuyển thành acid lactic, tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn phát
19
19
triển, lấn át vi khuẩn gây bệnh như E.coli. Yeu tố Bifïdus là một carbonhydrat có chứa
nitrogen cần cho vi khuẩn Lactose bifïdus, ngăn cản vi khuẩn gây bệnh phát triển. Cho
trẻ bú sữa mẹ cũng đồng thời giúp trẻ phát triển thông minh hom [4],
3.59.
Đối với mẹ, hành động cho trẻ bú mẹ gắn bó tình cảm mẹ con, giúp cho
bà mẹ và ừẻ hình thành mối quan hệ gần gũi yêu thưomg, trẻ ít quấy khóc.
3.60.
Cho con bú giúp bà mẹ tránh thai vì động tác bú mẹ của trẻ làm kích
thích tuyến yên tiết ra prolactin, chất này có tác dụng ức chế rụng trứng, làm giảm khả
năng mang thai. Đối với phụ nữ ngay sau sinh, động tác bú mẹ là co hồi tử cung và cầm
máu cho người mẹ. Hom nữa cho con bú thường xuyên giúp người mẹ nhanh chóng lấy
lại vóc dáng và làm giảm tỉ lệ ung thư vú. Đặc biệt, nuôi con bằng sữa mẹ kinh tế và
thuận tiện hom nuôi sữa công thức nên là giải pháp hàng đầu trong các phưomg cách
nuôi con đã được công nhận trên toàn thế giới [4],
3.61.
Cho con bú sữa mẹ không những kinh tế mà còn thuận lợi. Thuận lợi bởi
cho con ăn không kể giờ giấc, không cần đun nấu hay dụng cụ pha chế. Trẻ bú mẹ hơn
nữa còn kinh tế bởi không mất tiền mua. Chỉ cần người mẹ ăn uống đầy đủ, tinh thần
thoải mái thì sẽ đủ sữa cho con bú [4].
1.1.4. Lọi ích của bú sớm sau sinh
3.62.
Việc bú sớm sau sinh không những mang lại lợi ích cho con mà còn
mang lại lợi ích không nhỏ cho những bà mẹ. Đối với trẻ, cho con bú mẹ sớm ngay sau
sinh có thể giảm nguy cơ đột tử sơ sinh. Một nghiên cứu lớn của Đức năm 2009 đã cho
thấy việc cho con bú hoàn toàn dẫn đến nguy cơ thấp hơn của hội chứng đột tử trẻ sơ
sinh (SIDS). Các nhà nghiên cứu kết luận trẻ 1 tháng tuổi bú mẹ hoàn toàn có nguy cơ
SIDS giảm đi một nửa. Không những vậy, sữa non là liều vác xin đầu tiên giúp trẻ
phòng bệnh [70]. Lượng sữa non dù không nhiều nhưng đủ về số lượng và chất lượng,
phù họp với bộ máy tiêu hóa của ưẻ ngay khi mới sinh. Sữa non có tác dụng sổ nhẹ,
giúp tống phân su nhanh, giúp đào thải bilirubin nhanh. Vì vậy thời gian vàng da ở trẻ
cũng ngắn hơn và trẻ cũng ít khi bị vàng da hom. Sữa non còn có nhiều yếu tố phát
triển giúp bộ máy tiêu hóa non nớt của trẻ nhanh chóng trưởng thành. Lượng vitamin A
trong sữa non rất nhiều giúp làm giảm nhẹ bệnh khi trẻ mắc bệnh.
3.63.
Đối với người mẹ, BSSS cũng mang lại những lợi ích không nhỏ như
20
20
tăng cường tình cảm mẹ con, tăng tiết oxytocin làm co hồi tử cung, tránh được băng
huyết sau sinh, cho con bú giúp bà mẹ giảm nguy cơ mắc một số bệnh ung thư như ung
thư vú, ung thư buồng trứng [4],
1.2.
Thực trạng về nuôi con bằng sữa mẹ
1.2.1.
Trên thế giói
3.64.
Số liệu từ 64 nước đang phát triển chiếm 69% số trẻ sinh ra trên thế giới
đã cho thấy một sự thay đổi về tình trạng dinh dưỡng. Từ năm 1996 đến năm 2006, tỷ
lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đã tăng lên từ 33% đến 37%. Tăng đáng
kể nhất phải kể đến vùng cận sa mạc Saharan - châu Phi, với tỷ lệ tăng từ 22% lên 30%
và châu Âu với tỷ lệ tăng từ 10% lên 19%. Ở châu Mỹ Latinh và Caribean ngoại trừ
Mexico và Brazil, tỷ lệ trẻ sơ sinh được bú mẹ hoàn toàn tăng từ 30% đến 45% [67],
[70], [73],
3.65.
Còn theo báo cáo tình hình trẻ em thế giới năm 2009 của UNICEF cho
thấy, chỉ có 38% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn; 55% trẻ từ 6 - 9 tháng
tuổi và 50% trẻ từ 20 - 23 tháng tuổi được tiếp tục cho bú sữa mẹ. Trong đó, tỷ lệ trẻ
dưới 6 tháng tuổi được bú sữa mẹ hoàn toàn ở các nước đang phát triển là 39% và tỷ lệ
này ở nhóm các nước kém phát triển là 37%. Tương tự, tỷ lệ trẻ được tiếp tục bú sữa
mẹ cho đến 24 tháng tuổi ở các nước đang phát triển là 51% và tỷ lệ này trong nhóm
các nước kém phát triển là 64% [65].
3.66.
Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã thừa nhận vai trò quan trọng của việc
nuôi con bằng sữa mẹ và cho con bú sớm sau sinh. Tuy nhiên tỉ lệ cho con bú sớm sau
sinh ở một số nơi trên thế giới còn rất thấp: ở các nước Đông Âu và Trung Á là 17%, ở
các nước Châu Á Thái Bình Dương là 33% và cao nhất là ở khu vực Mỹ La tinh,
Caribe, Bắc và Đông Phi với 50% [35].
3.67.
Theo cuộc khảo sát sức khỏe gia đình quốc gia của Ân Độ, tỷ lệ trẻ em
bú sữa mẹ trong vòng 1 giờ sau sinh ở nông thôn Ấn Độ là 21,5% và ở nông thôn Tây
3.68.
Bengal là 24,5% ; trong khi đó trong nghiên cứu tại Singur, Hooghly
(Tây Bengal) năm 2009 là 34,2%. Tương tự như vậy, một tỷ lệ trẻ em trong độ
tuổi từ 0 - 5 tháng tuổi được bú sữa mẹ là hơn 48,3% tại nông thôn Ấn Độ và
57,1% tại nông thôn Tây Bengal [37].
21
21
1.2.2.
3.69.
Tại Việt Nam
Số liệu từ các điều tra tại Việt Nam trong giai đoạn gần đây cho thấy tỷ
lệ cho con bú sớm khá cao nhưng tỷ lệ NCBSM hoàn toàn trong 6 tháng đầu là khá
thấp và không tăng lên [21]. Một nghiên cứu về thực hành của các bà mẹ người dân tộc
Mường huyện Lương Sơn cho thấy 21,6 % cho con bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu;
66,2% bà mẹ cho con bú trong nửa giờ đầu sau đẻ, một trong những yếu tố liên quan
đến tình trạng không được bú mẹ hoàn toàn của trẻ trong 4 tháng đầu là tác động của
gia đình (P < 0,05) [8].
3.70.
Kết quả điều fra của Dự án A&T tại 4 tỉnh năm 2010 cho thấy, tỷ lệ trẻ
được BSSS là 58,5%; tỷ lệ trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 18,4%; tỷ
lệ trẻ được bú sữa mẹ là chủ yếu trong 6 tháng đầu là 44,7% [62], Kết quả điều tra tại
11 tinh dự án năm 2011 cũng cho kết quả tương tự, tỷ lệ NCBSM hoàn toàn trong 6
tháng đầu thấp (20,2%), tỷ lệ trẻ bú sữa mẹ là chủ yếu trong 6 tháng đầu là 54,6%; tỷ lệ
trẻ được bú sữa mẹ trong 1 vòng giờ đầu sau sinh là 50,5% [20].
3.71.
Một nghiên cứu khác tiến hành tại khu vực nông thôn Việt Nam - Huyện
Quỳnh Bảng, tỉnh Nghệ An cho thấy nuôi con bằng sữa mẹ chiếm tỉ lệ cao, 70% các bà
mẹ cho con bú trong vòng 1 giờ đàu sau khi sinh. Tuy nhiên, không có nhiều bà mẹ
nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ từ 4 đến 6 tháng đầu: 36% các bà mẹ cho con ăn dặm
trước khi con 4 tháng tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc cho con ăn dặm sớm là do
bà mẹ phải quay lại với công việc đồng áng sớm, thậm chí chỉ sau vài ngày sinh, họ hầu
như không nhận được sự trợ giúp, chia sẻ của người chồng. Nam giới cho rằng nhiệm
vụ chủ yếu của họ là công việc khai thác đá hoặc nuôi tôm, chính vì vậy công việc đồng
ruộng dường như được xem là công việc chính của phụ nữ, bất kể họ mới sinh hay đang
nuôi con nhỏ, trong thời kỳ cho con bú [13].
3.72.
Nghiên cứu về thực hành của các bà mẹ về NCBSM, một số kết quả cho
thấy tỉ lệ này vẫn còn hạn chế. Tác giả Đinh Thị Phuơng Hòa nghiên cứu 540 bà mẹ tại
4 bệnh viện ở Hà Nội năm 2006 kết luận chỉ có 44,1% bà mẹ thực hành cho con bú sữa
non trong ngày đầu sau đẻ[18].
3.73.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Hải Dung tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội
năm 2013 thì tỉ lệ bà mẹ thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh chỉ đạt 33,8%. Nguyên
22
22
nhân chính không cho bú sớm là mẹ đau, mệt sau để (81,3%). Toàn bộ sản phụ mổ để
(75 trong tổng số 290 bà mẹ nghiên cứu, chiếm 25,9%) không cho trẻ bú sớm [7]. Một
nghiên cứu của Viện Dinh duỡng quốc gia cho thấy tỉ lệ cho con bú sớm sau sinh khá
cao, cụ thể tỉ lệ cho trẻ bú ngay 30 phút đầu ngay sau sinh là 75,2% và tỉ lệ các bà mẹ
cho con bú hoàn toàn là 82%. Tuy nhiên chỉ có 16,9% trẻ đuợc bú mẹ hoàn toàn trong
vòng 6 tháng đầu, 38,7% các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn khác ngay trong tuần đầu, 7% trẻ
đuợc cai sữa sớm trong vòng 12 tháng và có tới 21,9% trẻ đuợc nuôi sữa bình [23].
3.74.
Một nghiên cứu của Nông Thị Thu Trang đuợc tiến hành tại bệnh viện
PSTƯ năm 2009 cho thấy kiến thức của bà mẹ trong việc cho trẻ bú sớm là chua cao.
Kiến thức của bà mẹ về sữa non và tác dụng của sữa non đối với trẻ sơ sinh tuơng đối
tốt nhung chỉ gần một nửa bà mẹ có kiến thức đúng về thời gian cho con BSSS. Nghiên
cứu này cũng cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh thấp, chỉ đạt
31%. Tỷ lệ bà mẹ có tu thế cho con bú đứng, con ngậm bắt núm bú đúng rất thấp, tuơng
ứng là 25,4% và 24,4%. Tuy nhiên tỉ lệ bà mẹ không cho con ăn hoặc uống thứ khác
truớc khi bú mẹ lần đầu theo đúng khuyến nghị về NCBSM khá cao, chiếm 76,9% [19].
1.3.
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành bú sớm và bú mẹ hoàn toàn
3.75.
Một số tác giả đã phân tích các yếu tố ảnh huởng đến tỷ lệ bà mẹ cho
con bú sớm và bú mẹ hoàn toàn. Những nghiên cứu này đã đua ra một số kết luận giải
thích vì sao kiến thức về lĩnh vực này khá tốt trong khi tỷ lệ thực hành lại thấp. Việc
cho con bú sớm phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của mẹ và trẻ mới sinh, chất luợng
tu vấn của nhân viên y tế hay các bà đỡ, tuổi của mẹ, thời gian chuyển dạ và việc tiếp
xúc sớm của mẹ và con [33]. Lý do trì hoãn việc cho con bú sớm sau sinh thường là mẹ
tiết ít sữa [25], cảm giác đau và khó chịu của người mẹ [52] hoặc thiếu sự hỗ trợ từ gia
đình trong và sau đẻ [44].
3.76.
Ngoài ra còn có những lý do từ phía bệnh viện, việc thực hiện chương
trình sữa mẹ và hướng dẫn chuẩn quốc gia trong thực tế chưa thực sự hiệu quả. Một số
nghiên cứu cho thấy 90% số bà mẹ đi khám thai không được tư vấn về sữa mẹ [63].
Thêm vào đó, một nghiên cứu tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã khẳng định bà mẹ
không được tư vấn trong thời gian mang thai có mối liên quan với việc không cho trẻ
bú sớm sau sinh với p < 0,01 [7]. Hơn nữa, cán bộ thiếu kiến thức và kỹ năng tư vấn
23
23
cho bà mẹ, thiếu quyết tâm để xây dựng và duy trì Bệnh viện Bạn hữu trẻ em cũng là
một trong những lý do dẫn đến tỷ lệ này còn chưa cao. Có thể nói tác động của môi
trường bệnh viện có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự thành công của việc cho con bú
sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn. Đã có các tác giả chỉ nghiên cứu về các nội dung liên
quan đến cơ sở và nhân viên y tế và có can thiệp đặc thù vào nội dung này. Và các
nghiên cứu này cũng chỉ tập trung vào chủ đề này cũng không nghiên cứu về các yếu tố
khác có thể tác động lên thực hành cho con bú của bà mẹ.
3.77.
Trong nghiên cứu về vai trò người cha, chúng tôi cũng không nghiên
cứu về tác động của cơ sở y tế, nhân viên y tế và không thu thập các thông tin này. Đây
có thể được coi là một trong những hạn chế của nghiên cứu.
1.4.
Vai trò của ngưòi cha vói thực hành nuôi con bằng sữa mẹ
3.78.
Trong những năm qua, vai trò của người cha đối với việc NCBSM là đề
tài được nhiều tác giả tập trung nghiên cứu. Ngay từ những năm đầu thập kỷ 90, Freed,
G. L cùng với J. K. Fraley và cộng sự tại Hoa Kỳ đã nghiên cứu về thái độ của những
người nam giới sắp có con (những ông bố tương lai) đối với việc NCBSM. Kết quả cho
thấy người cha thường tham gia vào việc lựa chọn phương pháp nuôi dưỡng trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên họ thường không được đưa vào trong các chương trình giáo dục truyền thông
về NCBSM. Qua khảo sát 268 người đàn ông trước khi được tuyển chọn vào khỏa học
giáo dục về sinh con, 58% (n=156) cho biết vợ chồng họ đã lên kế hoạch để NCBSM
hoàn toàn; một số khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người đàn ông này và những
người có kế hoạch cho con bú ngoài hoàn toàn. Nhóm dự định cho con bú mẹ có xu
hướng tin rằng bú sữa mẹ là tốt hơn cho trẻ (96% và 62%, p < 0,0001), giúp tăng cường
gắn bó mẹ con (92% và 53%, p < 0,0001), và bảo vệ trẻ sơ sinh (79% và 47%, p <
0,001). Nhóm cho con bú mẹ cũng có nhiều khả năng muốn vợ/bạn gái của họ NCBSM
(90% và 13%, p < 0,0001) và có sự tôn trọng người phụ nữ cho con bú (57% và 16%, p
< 0,001). Ngược lại, những người trong nhóm muốn cho con ăn sữa ngoài có nhiều khả
năng suy nghĩ cho con bú không tốt cho ngực (52% và 22%, p < 0,01), làm cho ngực
xấu đi (445 và 23%, p < 0,0001). Đa số của cả hai nhóm không chấp nhận việc cho con
bú ở nơi công cộng (nhóm cho con bú mẹ 1%, cho bú sữa ngoài 78%, p < 0,05) [41].
3.79.
Đen năm 1994, Giugliani và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu để trả lời
24
24
câu hỏi liệu các ông bố đã sẵn sàng để hỗ trợ các bà vợ trong việc NCBSM hay chưa
thông qua đánh giá kiến thức của họ trong lĩnh vực này. Nghiên cứu cũng tìm hiểu mối
liên quan giữa kiến thức của người cha về NCBSM và các yếu tố bản thân của người
cha, cha của 92 trẻ sơ sinh được bú sữa mẹ và 89 không được bú mẹ được so sánh với
nhau. Các yếu tố được so sánh bao gồm các đứa trẻ sinh ra trước đây và cách thức
chúng được cho ăn/bú, sự tham gia vào chăm sóc trước sinh, việc tham gia lớp học
chăm sóc thai nghén, được cung cấp thông tin NCBSM bởi các chuyên gia y tế, sử
dụng tài liệu truyền thông và sự quan tâm để biết thêm chủ đề này. Ket quả chỉ ra rằng
người cha có kiến thức khá nghèo nàn về NCBSM, đặc biệt là những người cha cho con
bú bình. Sau khi điều chỉnh theo các yếu tố nhiễu, người cha có con trước đây đã được
bú mẹ, đã tham dự các lớp học trước sinh và những người nhận được thông tin về
NCBSM từ nhân viên y tế có kiến thức tốt hơn về NCBSM. Có vẻ như người cha cần
phải được chuẩn bị tốt hơn để nhận thức được vai trò mới của họ trong việc hỗ trợ
NCBSM. Chăm sóc trước sinh chứng tỏ là một cơ hội tốt để nâng cao kiến thức của
người cha về NCBSM [43].
3.80.
Năm 2003, một nghiên cứu tại Thụy Điển đã tiến hành một nghiên cứu
về sự tham gia của người cha với sự thực hành NCBSM của bà mẹ đã chỉ ra rằng,
những đứa trẻ có cha với trình độ học vấn thấp, đã được nhận trợ cấp thất nghiệp hay
có thu nhập thấp ít được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ cho đến 12 tháng tuổi. Ngoài ra,
những người cha không được nghỉ phép khi đứa bé ra đời thì những đứa trẻ đó cũng ít
được nuôi bằng sữa mẹ hơn khi được 2, 4, 6 tháng tuổi [51]. Một nghiên cứu tại Tây Úc
năm 2013 cũng khẳng định giáo dục và hỗ trợ về cho con bú cho cha cải thiện tỉ lệ cho
con bú [54].
3.81.
Cho đến năm 2005, Calen I. và cộng sự đã chỉ ra rằng có mối liên quan
giữa thực hành nuôi con bằng sữa mẹ với đặc điểm cá nhân của người cha cũng như
nghề nghiệp, trình độ học vấn, thu nhập hay sự tham gia hỗ trợ của người cha với vấn
đề này. Việc bà mẹ không cho trẻ bú sữa sớm là do bà mẹ tiết ít sữa hoặc có cảm giác
đau và khó chịu hay thiếu sự hỗ trợ của các thành viên trong gia đình sau sinh [26].
3.82.
Tại Việt Nam, mặc dù các đề tài nghiên cứu về vai trò của người cha với
vấn đề NCBSM bắt đầu tiến hành muộn hơn so với thế giới nhưng đã có không ít đề tài
25
25
quan tâm chuyên sâu vào vấn đề này. Một nghiên cứu năm 2006 tại Chí Linh cũng chỉ
ra mối liên quan giữa người cha, người chồng ữong gia đình với thực trạng chăm sóc và
nuôi dưỡng trẻ nhỏ. Cụ thể là sự tham gia trong chăm sóc sức khỏe của con giúp làm
giảm tỷ lệ thấp còi, suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ [2], Mặt khác, mối liên quan giữa vai trò
của người cha trong gia đình với việc thực hành NCBSM của người mẹ cũng đã được
các nghiên cứu trước đây đề cập đến, trong đó sự tham gia của người cha trong việc hỗ
trợ bà mẹ NCBSM có vai trò quan trọng trong việc gia tăng tỷ lệ bà mẹ NCBSM hoàn
toàn trong 6 tháng đầu [1], [6]. Bên cạnh đó, việc thực hành NCBSM cũng có mối liên
quan với các yếu tố cá nhân và vai trò của người cha trong gia đình như trình độ học
vấn, thu nhập [56] hay kiến thức, thái độ chưa tốt đối với việc NCBSM [28].
3.83.
Một số nghiên cứu khác lại chỉ ra rằng, sự tham gia hỗ trợ trong quá
trình NCBSM của người cha còn hạn chế [30], [31], [53]. Việc hỗ trợ vợ cho con bú
sớm và NCBSM hoàn toàn còn khá hạn chế khi vẫn có trên 90% người chồng không
nhắc vợ cho con bú sớm ngay sau sinh tại cơ sở y tế; 53,7% họ có nhờ người nhả mua
thêm sữa non hộp và 68,5% tự tay mua sữa non hộp để cho con bú bình khi trẻ vừa
sinh. Truyền thông đại chủng (ti vi, đài, báo) và cán bộ y tế là hai kênh mà đối tượng
nghiên cứu hay tiếp xúc khi tìm hiểu thông tin về NCBSM và các sản phẩm sữa thay
thế. Nghiên cứu này cũng chỉ ra những người chồng không được tiếp cận với nguồn
thông tin về NCBSM có khả năng không nhắc vợ cho con bú thường xuyên và bàn bạc
với vợ về cách nuôi dưỡng con cao hơn nhóm đã tiếp cận. Những người chồng có kiến
thức chưa đạt về bú sớm thì có khả năng không nhắc vợ cho con BSSS cao gấp 2,2 lần
nhóm có kiến thức đạt. Tương tự như vậy những người chồng có thái độ chưa tích cực
thì có khả năng không nhắc vợ cho con bú ngay sau sinh và không động viên người nhà
giúp vợ cho con bú cao hơn nhóm có thái độ tích cực [15].
3.84.
Hơn nữa kiến thức đúng của người cha về NCBSM ở nhóm người cha
có vợ cho con bú và nhóm người cha có vợ không cho con bú với tỷ lệ tương ứng là
70% và 40% [34]. Điều này chứng tỏ kiến thức của người cha có vai trò quan trọng
trong thực hành NCBSM của bà mẹ.
3.85.
Nghiên cứu của Vũ Thị Hà năm 2014 kết luận tỷ lệ người cha biết về
thời gian cho trẻ BSSS là 44,1%, có 40% người cha chưa biết về thời gian nên NCBSM