Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN công tác quản lý chỉ đạo lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào chương trình giáo dục mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.3 KB, 25 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
“ Công tác quản lý chỉ đạo lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào
chương trình giáo dục mầm non”
Người thực hiện đề tài: Trần Thị Thanh Thủy
Đạt SKKN cấp tỉnh năm học 2012- 2013

MỞ ĐẦU
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Đặt vấn đề
Chúng ta thật đáng tự hào về nền văn hóa của dân tộc Việt nam. Trong đó phải
kể đến đồng dao, ca dao, tục ngữ Việt nam. Nó là một loại hình nghệ thuật đặc sắc,
mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là thể loại văn học dân gian được truyền
miệng từ đời này qua đời khác và chuyển tiếp qua nhiều thế hệ. Cội nguồn của ca
dao, đồng dao, tục ngữ xuất phát từ cuộc sống lao động. Nó xuất hiện rất sớm trong
lịch sử loài người. Bởi vậy nên nó gắn bó với con người và trở thành nhu cầu không
thể thiếu trong cuộc sống thường ngày của nhân dân.
Đồng dao, ca dao, tục ngữ phản ánh cuộc sống lao động của con người bằng
những hình tượng văn học nghệ thuật chứa dựng bao tâm tư, nguyện vọng, bao niềm
vui, nổi buồn và khát vọng, ước mơ trong cuộc sống.
Tuổi ấu thơ của mỗi chúng ta đi qua đều được nuôi dưỡng bằng đôi dòng sữa
mẹ, được ru ngủ bằng những bài đồng dao, ca dao đã được phổ nhạc thành những
làn diệu dân ca qua lời ru của bà, của mẹ. Điệu ru ca dao ấy với âm hưởng tiếng mẹ
là cánh tay yêu thương âu yếm ôm ấp, vỗ về, là tấm chăn ấm áp ấp ủ, là làn gió mát
dịu dàng thoảng qua. Nó mang ước vọng trang bị tâm thức cho trẻ thơ từ khi vừa
mới bắt đầu chào đời, thấm nhuần dần dần cách ăn, lối ở, hiểu biết cách cư xử, trau
dồi ý chí và nghị lực, để khi trưởng thành có thể sống trong thanh thản, an bình và
hạnh phúc. Khi còn nằm trong tao nôi là thế, còn khi đứa trẻ lên hai, ba tuổi, các trò

1



Sáng kiến kinh nghiệm
chơi có gắn với lời, nội dung của bài đồng dao đã cuốn hút các em một cách thích
thú. Đồng dao, ca dao, tục ngữ ngấm vào cảm xúc tuổi thơ của mỗi người như một
lẽ tự nhiên. Bởi vậy, khi lớn lên, mỗi khi chứng kiến trẻ nhỏ diễn xướng đồng dao,
chúng ta đều cảm thấy mình như trẻ lại, những ký ức thời thơ ấu lại tái hiện mang lại
cho ta cảm giác yêu đời và gợi lại những kỷ niệm đẹp đẽ khó quên về một thời thơ
ấu hồn nhiên, vô tư, thánh thiện, chẳng bao giờ trở lại. Ấn tượng về những bài đồng
dao thật sâu sắc đối với mỗi con người. Nội dung của các bài đồng dao không chỉ là
đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc mà còn phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ về nhận
thức cũng như các hoạt động vui chơi khác. Ngôn từ của đồng dao gần gũi với cách
nói vần vè, giàu nhịp điệu của ngôn ngữ nhi đồng. Nhiều bài đồng dao có lối kết cấu
vòng tròn, trẻ có thể đọc đi, đọc lại nhiều lần mà không chán, không kết thúc. Ví dụ
như bài: “Lúa ngô là cô đậu nành”; “ Tu hú là chú bồ các”…
Đồng dao, ca dao, tục ngữ có chức năng thoả mãn nhu cầu vui chơi của các
em nhỏ, do lời đồng dao gắn với trò chơi, ca dao gắn với lời bài hát và tục ngữ là
những lời thơ đa màu sắc của cuộc sống xung quanh trẻ.
Với những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật như vậy, đồng dao, ca
dao, tục ngữ thực sự là một món ăn tinh thần thực sự không thể thiếu được đối với
trẻ thơ. Song hiện nay, số lượng của các bài đồng dao, ca dao, tục ngữ được tuyển
chọn trong chương trình giảng dạy cho trẻ mầm non còn quá hạn chế. Đặc biệt, nội
dung chưa đủ phục vụ cho các chủ điểm giáo dục trẻ mầm non. Do vậy, khi chỉ đạo
thực hiện chương trình mầm non hiện hành giáo viên gặp rất nhiều khó khăn về tài
liệu, lúng túng về phương pháp.
Từ những lý do trên, nên bản tôi chọn đề tài nghiên cứu“ Công tác quản lý
chỉ đạo lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào chương trình giáo dục mầm
non”

2. Mục đích nhiên cứu


2


Sỏng kin kinh nghim
Kho sỏt vic lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào trong các hoạt động của
tr hng ngy trng Mm Non để biết đợc các hạn chế khi thc hiện. T ú tìm
ra giải pháp tối u góp phần đa đồng dao, ca dao, tục ngữ vào chơng trình giáo dục
mầm non một cách phong phú v a dng hn.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng n v.
- Từ chỗ nghiên cứu lý luận và thực trạng tìm ra các giải pháp hữu ích nhất.
- Rút ra kết luận.
4. Phm vi nghiờn cu:
ồng dao, ca dao, tục ngữ Vit nam dnh cho la tui mm non trong cỏc nh
trng.
5. Phơng pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu các tài liệu về lý thuyết.
Điều tra lập bảng thống kê
Lập kế hoạch chỉ đạo
Kiểm tra đánh giá kết quả thực nghiệm.
B. NI DUNG TI CN NGHIấN CU
1. Cơ sở lý luận:
1.1. Cơ sở khoa học:
Giỏo dc mm non l c s ban u cho s hỡnh thnh v phỏt trin ton din
v th cht, trớ tu, o c, thm m v cỏc k nng giao tip c bn hng ngy ca
tr. Nú gúp phn hỡnh thnh nhõn cỏch con ngi mi - Con ngi Vit nam xó hi
ch ngha. Bc u lm nn tng, chun b cho tr vo hc lp 1 vng vng.
lm tt iu ú ũi hi ngi qun lý cn phi xõy dng k hoch c th,
ch o chng trỡnh dy hc mt cỏch cht ch, khoa hc. Khõu qun lý ch o

khụng ch dng li gúc thc hin chng trỡnh khung do b giỏo dc o to
ban hnh m ũi hi ngi qun lý phi sỏng sut, la chn vch ra k hoch cỏc
3


Sáng kiến kinh nghiệm
chuyên đề lồng ghép có liên quan ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển nhân cách
của trẻ sau này.
Chuyên đề lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào chương trình giáo dục
mầm non được coi là một trong những chuyên đề mà các nhà giáo dục mầm non cần
phải chú trọng và quan tâm bởi do các đặc thù riêng biệt của nó. Đồng dao, ca dao
không những giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách một cách toàn diện, mà nó
còn giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp của cuộc sống, cái nét đặc sắc của dân
tộc. Nuôi dưỡng tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn trẻ ngay từ những buổi
ban đầu. Như Bác Hồ kính yêu đã nói: “ Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một
nền giáo dục tốt”. Vì vậy, trường mầm non có nhiệm vụ giáo dục trẻ có được những
thói quen học tập, sinh hoạt hàng ngày. Muốn thực hiện được điều đó, trước hết
người quản lý chỉ đạo phải toàn diện, về chuyên môn phải nhận thức đúng về mục
đích, yêu cầu, nhiệm vụ của ngành đề ra, đồng thời nắm vững các chỉ tiêu, kế hoạch
mà Ngành học giao cho.
Năm học 2012 - 2013 là năm học toàn ngành vẫn tiếp tục thực hiện tốt cuộc
vận động “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Vì vậy việc đưa ca
dao, đồng dao, tục ngữ lồng ghép vào chương trình giáo dục mầm non một cách
phong phú, đa dạng là một việc làm vô cùng quan trọng. Đây là một trong những nội
dung của cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” do bộ
giáo dục phát động.Với trách nhiệm lớn lao của một người cán bộ quản lý, tôi luôn
suy nghĩ làm thế nào để đưa đồng dao, ca dao, tục ngữ lồng ghép vào chương trình
giáo dục mầm non một cách có chất lượng và hiệu quả? Đây là một câu hỏi khó nó
không thể giải quyết trong một sáng một chiều mà đòi hỏi người nghiên cứu đề tài
phải nhiệt tình, kiên trì tìm tòi, sáng tạo trong một thời gian khá dài mới có hiệu quả.

Để giải quyết được vấn đề trên chúng ta cần phải chú trọng trong công tác chuyên
môn, làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, công tác nâng cao chất lượng giáo dục trẻ
nhằm duy trì và phát triển chất lượng giáo dục trong nhà trường ngày càng đi lên đáp

4


Sáng kiến kinh nghiệm
ứng với yêu cầu sự nghiệp giáo dục mầm non trong thời đại hiện nay. Chất lượng
lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào chương giáo dục đạt kết quả cao hay thấp là
phụ thuộc vào công tác chỉ đạo của người quản lý chuyên môn. Công tác chỉ đạo đó
không ngoài việc chỉ đạo lồng ghép mềm dẻo, sáng tạo có khoa học và logich vào
các chương trình hoạt động hàng ngày của giáo viên, việc xây dựng kế hoạch, việc
thực hiện kiểm tra, đánh giá sự phát triển về giáo dục và phương pháp tích hợp lồng
ghép ca dao, đồng dao, tục ngữ vào chương trình …
Công tác đánh giá, khảo sát chất lượng giáo dục sau khi lồng ghép cũng là
một vấn đề cần được quan tâm chú trọng. Có thể nói rằng đồng dao, ca dao tục ngữ
có xích lại gần trẻ hơn hay không điều đó phụ thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo của
người quản lý trường mầm non.
1.2. C¬ së thực tiễn:
Đồng dao, ca dao, tục ngữ đóng vai trò quan trọng trong đời sống trẻ thơ.
Những bài đồng dao, ca dao có nội dung gần gũi, trẻ thường đọc khi vui chơi như
các bài: “ Dung dăng dung dẻ”; “ Kéo cưa lừa xẻ”; Thả đĩa ba ba…
Trẻ nhỏ có tâm hồn trong sáng, bay bổng, giàu tưởng tượng, giàu cảm xúc, ham hoạt
động, thích vui chơi, thích có bầu bạn. Do đó, các em dễ hoà nhập vào tâm trạng của
các nhân vật một cách hồn nhiên vô tư. Tác phẩm đồng dao đã thoả mãn nhu cầu: “
Chơi mà hoc, học mà chơi” của trẻ khi trẻ được thả hồn vào các trò chơi dân gian có
gắn lời đồng dao, hoặc ngồi nghe những làn diệu dân ca êm đềm, sâu lắng được phổ
nhạc lời của ca dao Việt nam.
Ví dụ: Khi trẻ chơi trò chơi “ Rồng rắn lên mây ” hay trò chơi “ Thả đĩa ba ba” thì

bản thân trẻ lúc đó không những hóa thân vào các nhân vật trong trò chơi mà trẻ còn
được thõa mãm nhu cầu tâm sinh lý của lứa tuổi mầm non, được vui chơi nô đùa
thõa thích, được khám phá, được làm quen với lời bài đồng dao…

5


Sáng kiến kinh nghiệm
Như vậy chúng ta đễ nhận thấy rằng ca dao, đồng dao, tục ngữ luôn đồng hành
sát cánh bên trẻ nếu như các nhà giáo dục thường xuyên tạo cơ hội cho trẻ làm quen,
tiếp xúc…
Trò chơi là phương tiện giáo dục và nó giữ vai trò quan trọng trong việc giáo
dục trí tuệ cho trẻ. Đặc biệt là trò chơi dân gian, được gắn lời đồng dao lại càng thu
hút sự hấp dẫn, cuốn hút trẻ một cách mê hồn. Trẻ chơi mà không biết chắn, lời đồng
dao giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, trí nhớ, trí tưởng tượng… Rồi các làn điệu dân ca
gắn lời ca dao cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển nhân cách của trẻ.
Nó ăn sâu vào trong tiềm thức và mang theo trong cuộc đời đứa trẻ những nét đẹp
tiềm ẩn của cuộc sống. Lúc lớn lên, đôi khi lục lại ký ức nhớ về tuổi thơ thì các bài
đồng dao, ca dao, những câu tục ngữ lại hiện về.
Thế nhưng trong thực tế ở trường mầm non thì việc trẻ được tiếp cận với các bài
đồng dao, ca dao, tục ngữ còn có nhiều hạn chế. Số lượng bài còn ít, nội dung chưa
phong phú, chưa dàn trải được ở tất cả các chủ điểm. Việc tổ chức cho trẻ chơi các
trò chơi dân gian, hoặc nghe các làn điệu dân còn mang tính ước lệ, chưa đáp ứng
với nhu cầu phát triển của trẻ. Hơn nữa vì số lượng bài trong chương trình quá ít nên
việc giáo viên lựa chọn nội dung để đưa vào tích hợp cho các tiết hoạt động khó
khăn. Vì thế các hoạt động của giáo viên đang rơi vào tình trạng cứng nhắc, khô
khăn và rập khuôn. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học ở trên
lớp.
2. Thực tr¹ng vÊn ®Ò:
2.1.T×nh h×nh thùc tr¹ng:

Đơn vị trường mầm non chúng tôi đóng trên địa bàn một xã thuần nông. Đời
sống nhân dân còn thấp. Chủ yếu các hộ gia đình làm nghề nông. Nhận thức về quan
điểm giáo dục trẻ đang còn hạn chế. Việc trẻ tiếp cận với đồng dao, ca dao, tục ngữ
không được nhiều.

6


Sáng kiến kinh nghiệm
Đời sống của môt bộ phận giáo viên còn khó khăn. Nhưng tất cả đều nhiệt tình
trong công việc chăm sóc giáo dục trẻ.
Trường đã được công nhận là trường mầm non công lâp, có hai điểm trường
tương đối khang trang, sạch đẹp. Có môi trường thoáng mát rộng rãi, đồ dùng đồ
chơi tương đối đầy đủ, đảm bảo điều kiện cho các cháu vui chơi sinh hoạt hàng
ngày. Vì vậy nên khi thực hiện đề tài nay tôi đã gặp rất nhiều thuận lợi nhưng cũng
không ít phần khó khăn.
2.2. Kh¶o s¸t thùc tr¹ng:
Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã làm khảo sát một số nội dung đối với trẻ trên
tất cả các khối lớp.
*. Bảng khảo sát tỉ lệ đầu năm đối với khối nhà trẻ và mẫu giáo bé:

TT

NT
Nội dung khảo sát

MGB
Tỉ lệ %

Nội dung khảo sát


Tỉ lệ %

1
2
3
4

Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu

35%
40%
40%
40%
Không

Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu

45%
60%
65%
60%


5

quê hương đất nước,

khảo sát

quê hương đất nước,

40%

con người
con người
*. Bảng khảo sát tỉ lệ đầu năm đối với khói lớp nhỡ và khối lớp lớn:
TT

MGN
Nội dung khảo sát

1
2
3
4

Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu quê


MGL
Tỉ lệ %
60%
70%
55%
62%

7

Nội dung khảo sát
Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu quê

Tỉ lệ %
65%
75%
65%
67%


Sáng kiến kinh nghiệm
5 hương đất nước, con người
55% hương đất nước, con người
3. C¸c biÖn ph¸p thùc hiÖn:

60%


*. Biện pháp1: Sưu tầm tuyển chọn các các bài đồng dao, ca dao, tục ngữ phù
hợp đưa vào chương trình giáo dục trường mầm non
Hiện nay chương trình mầm non của bộ giáo dục và đào tạo ban hành được
phân theo từng chủ điểm rất rõ ràng. Điều đó đã gợi mở cho tôi ý tưởng sưu tầm và
tuyển chọn thêm các tác phẩm đồng dao phù hợp theo từng chủ điểm. Vì số lượng
các bài đồng dao, ca dao, tục ngữ mà bộ giáo dục đưa vào chương trình giáo dục
mầm non còn ít cho nên công việc sưu tầm, tìm kiếm của tôi là những bài đồng dao,
ca dao, tục ngữ ngắn ngọn, đễ đọc, đễ hiểu phù hợp với các đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ. Với đa dạng và phong phú của thể loại này, tôi đã đọc rất nhiều tài liệu nghiên
cứu về đồng dao, ca dao nhi đồng Việt nam cũng như tra cứu qua mạng Itenet nên đã
nhặt lượm được rất nhiều thể loại bài. Sau khi đã tuyển chọn bài xong là công đoạn
đánh máy vi tính và in ấn thành một tuyển tập đồng dao, ca dao, tục ngữ dành cho
lứa tuổi mầm non được lưu hành nội bộ trong đơn vị nhà trường. Ví dụ chủ điểm
“Thế giới động vật” tôi chọn các bài đồng dao, ca dao như sau:
CON GÀ CỤC TÁC LÁ CHANH

CÁI BỐNG ĐI CHỢ CẦU

CON CHIM SÁO SẬU

Con gà cục tác lá chanh

CANH

Con chim sáosậu

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.

Cái Bống đi chợ Cầu


Ăn cơm nhà cậu

Con chó khóc đứng khóc ngồi,

Canh,

Uống nước nhà cô

Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng

Con tôm đi trước củ hành

Đánh vỡ bát ngô

theo sau.

Bà cô phải đền.

Con cua lạch đạch theo
hầu,

8


Sáng kiến kinh nghiệm
CÁI KIẾN MÀY ĐẬU CÀNH ĐÀO

CON CÔNG HAY MÚA

CON CHIM MANH MANH


Cái kiến mày đậu cành đào

Con công hay múa,

Con chim manh manh,

Leo phải cành cộc leo vào leo ra.

Nó múa làm sao?

Nó đậu cành chanh,

Con kiến mày đậu cành đa

Nó rụt cổ vào.

Leo phải cành cộc, leo ra leo vào…

Nó xòe cánh ra.
Nó đậu cành đa,

Tôi ném hòn sành,
Nó quay lông-lốc.
Tôi làm một chốc,
Được ba mâm đầy,

BA BÀ ĐI BÁN LỢN CON

Nó kêu ríu-rít.


Ba bà đi bán lợn con,

Nó đậu cành mít,

Bà cốt ăn hai.

Bán đi chẳng được lon-xon chạy về.

Nó kêu vịt chè.

Còn cái thủ, cái tai,

Ba bà đi bán lợn sề,

Nó đậu cành tre,

Tôi đem biếu chúa.

Bán đi chẳng được chạy về lon-

Nó kêu bè muống.

Chúa hỏi chim gì?

Nó đáp xuống ruộng,

Con chim chích chòe.

MÈO MÀ TRÈO CÂY CAU


Nó kêu tầm vông.

…………………………

Con mèo mày trèo cây cau,

Con công hay múa

,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
Tục ngữ

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng
nhà.

Con vỎI con voi

Chú chuột đi chợ đường xa.
Mua mắm mua muối giỗ cha chú
mèo

Ông thầy ăn một,

Con vỏi con voi

“Quạ tắm thì ráo
Sáo tắm thì mưa”
……………….

Cái vòi đi trước

Hai chân trước đi trước


Ngoài ra tôi dã tìm kiếm những bài hát dược phổ nhạc từ các bài đồng dao, ca
dao, phù hợp lứa tuổi vùng miềm đem thu thập thành một am bum nhạc dân ca có
gắn các hình ảnh minh họa để khi thưởng thức nghe làn điệu trẻ sẽ được tận mất xem
cách trang phục, cách biểu diễn của các nghệ nhân hay ca sẽ mà trẻ đang xem qua
băng đĩa.Ví dụ như bài: Cái bống là cái bống bang; Ba bà đi bán lợn con; Tập tầm
vông; Gánh gánh gồng gồng; Rềnh rềnh ràng ràng; Bầu và Bí…
Các trò chơi dân gian có gắn lời đồng dao cũng được sưu tầm. Chẳng hạn như
trò chơi: Rồng rắn lên mây; Thả đĩa ba ba; Kéo cưa lừa xẻ; Dung dăng dung dẻ,…

9


Sáng kiến kinh nghiệm
Ngoài ra các hình ảnh đẹp minh họa cho các trò chơi dân gian có gắn lời đồng
dao cũng được sưu tầm và trang trí ở những nơi thuận tiện nhất cho trẻ rtieeps xúc
làm quen như trang trí ở các góc nghệ thuật, trang trí ở phòng truyền thống, trang trí
ở phòng âm nhạc, các sảnh hành lang nhà trường…Chẳng han. Như bức tranh mang
tính chất dân gian sát với cuộc sống xung quanh trẻ:

10


Sáng kiến kinh nghiệm

11



Sáng kiến kinh nghiệm

12


Sáng kiến kinh nghiệm

Khi nói tới đồng dao là nói đến những gì quen thuộc nhất trong cuộc sống hàng ngày
của trẻ. Đồng dao mang tính chất truyền khẩu, bản thân trẻ đã thuộc sẵn những bài
đồng dao qua làm quen thì khi chơi những trò chơi dân gian trẻ chơi rất đễ dàng. Do
đó với những bài đồng dao phổ nhạc trẻ cũng sẽ thuộc nhanh chóng.
*.Biện pháp 2: Xây dựng kế hoạch lồng ghép
Khi nhà trường đã có một tuyển tập về chuyên đề ca dao, đồng dao, câu đố rồi
thì kế hoạch chỉ đạo thực hiện như thế nào để có hiệu quả cao? Đó là câu hỏi đặt ra
đòi hỏi chúng ta phải giải quyết.
Trên cơ sở kế hoạch nhiệm vụ năm học các cấp đã chỉ đạo và kế hoạch thực
hiện năm học của nhà trường. Từ đó xây dựng kế hoạch lồng ghép cho cả năm học
theo tám chủ điểm; Kế hoạch cho từng chủ điểm; Kế hoạch tuần.
Xây dựng thời gian lồng ghép. Cụ thể: Xây dựng chương trình chỉ đạo các
khối lớp thực hiện vào mọi thời điểm trong ngày, ở mọi nơi mọi lúc. Đặc biệt vào là
buổi sinh hoạt chiều giáo viên có thể cho trẻ làm quen, đọc thuộc lời và cũng có thể
13


Sáng kiến kinh nghiệm
cho trẻ nghe những bài hát dân ca lời ca dao, đồng dao hoặc là tổ chức cho trẻ chơi
các trò chơi dân gian..
Ngoài ra tôi còn chỉ đạo giáo viên lồng ghép linh hoạt chuyên đề này vào các
giờ hoạt động chung, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời…Thứ nhất để cho tiết học
thêm sinh động, trẻ thêm hứng thú. Thứ hai làm tăng khả năng cảm nhận về các bài

đồng dao, ca dao, tục ngữ nói riêng và cảm nhận về văn học nói chung.
Chỉ đạo giáo viên các nhóm lớp xây dựng kế hoạch hoạt động và được nhà
trường phê duyệt mới thực hiện. Hàng tháng giáo viên báo cáo kết quả thực hiện
chuyên đề này. Qua đó Ban giám hiệu có cơ sở để theo dõi, kiểm tra và có biện pháp
chỉ đạo kịp thời tốt hơn.
Giao chỉ tiêu cho từng khối lớp với số lượng, chất lượng bài lồng ghép các bài
đồng dao ca dao, tục ngữ thực hiện ở mỗi chủ điểm như sau:

Số lượng bài
Đọc thuộc

Nghe hát dân ca

Chơi trò chơi dân gian

1

NT

1- 2

1- 3

1

75% trở lên

2

MGB


1- 3

1- 3

1- 2

80 % trở lên

3

MGN

2- 4

2- 4

2- 3

85 trở lên

4

MGL
3- 5
3- 5
3- 5
90 trở lên
- Dựa vào bảng giao chỉ tiêu này ban chỉ đạo có thể đi kiểm tra và đánh giá


được tình hình hoạt động của các khối lớp bất cứ lúc nào trong tháng. Từ đó có thể
điều chỉnh bổ sung kịp thời.
- Chất lượng được giao gắn với chỉ tiêu thi đua của lớp, của cá nhân vào cuối
năm học. Với hình thức đó giúp cho giáo viên luôn luôn cố gắng phấn đấu tìm tòi
nhiều biện pháp trong thực hiện kế hoạch lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ vào
các hoạt động ở các thời điểm trong ngày.
*.Biện pháp 3: Thành lập ban chỉ đạo

14


Sáng kiến kinh nghiệm
Để thuận lợi trong việc kiểm tra đôn đốc công việc chuyên môn nói chung và
công việc lồng ghép chuyên đề ca dao, đồng dao, tục ngữ vào chương trình nói riêng
có hiệu quả thì tôi đã mạnh dạn thành lập ban chỉ đạo ngay từ đầu năm học. Ban chỉ
đạo gồm có 6 đồng chí . Trong đó hiệu trưởng là trưởng ban. Phó hiệu trưởng phụ
trách chuyên môn là phó ban. Còn lại 4 người là các thành viên đại diện cho các
khối (Khối Lớn; Nhỡ; Bé; Nhà trẻ và tổ Dinh dưỡng). Đây là lực lượng nòng cốt để
phân công, điều hành, tổ chức và tham gia kiểm tra đánh giá các khối lớp. Lhi chọn
các thành tôi đã chọn những giáo viên có năng lực về chuyên môn, có trình độ đạt
chuẩn trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín đối với đồng nghiệp, năng nổ nhiệt
tình trong công tác. Các thành viên này đóng vai trò chủ đạo giống như là một tổ
trưởng chuyên môn, nhằm để xây dựng kế hoạch hoạt động lồng ghép cho từng giai
đoạn, từng quí, từng tháng, từng chủ điểm và cả từng tuần. Hàng tháng ban chỉ đạo
sinh hoạt 01 lần, có đánh giá kết quả và bổ sung kế kế hoạch đề ra tiếp theo.
*.Biện pháp 4: Công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng
Thực hiện phân loại giáo viên để có kế hoạch bồi dưỡng thích hợp. Đối với
giáo viên có tay nghề còn non kém, cứng nhắc, ít vận dụng linh hoạt các bài đồng
dao, ca dao, tục ngữ để tích hợp lồng ghép vào chương trình một cách phù hợp thì
tôi đã có biện pháp phân công giáo viên dạy tốt về chuyên đề này để kèm cặp giúp

họ tiến bộ hơn. Tôi thường xuyên chú trọng bồi dưỡng thêm phương pháp giảng dạy,
cách tổ chức hoạt động giáo dục có liên quan đến chuyên đề đồng dao, ca dao, tục
ngữ cho một số giáo viên để họ có trình độ tay nghề tốt hơn. Hàng tháng họp định kỳ
chuyên môn một lần, tôi đã đề xuất dành riêng cho chuyên đề này một khoảng thời
gian nhất định. Trước khi họp tôi đã chuẩn bị sẵn nội dung chuyên đề. Các nội dung
đó là đa dạng. Khi thì tôi bồi dưỡng về cách tổ chức một trò chơi dân gian mới, có
gắn lời đồng dao. Khi thì tôi cung cấp thêm phương pháp lồng ghép tích hợp chuyên
đề vào trong tiết hoạt chung, hoạt động góc như thế nào cho phù hợp nội dung,
chương trình và đảm bảo thời của tiết dạy.. Cũng có khi tôi lại hướng dẫn giáo viên

15


Sáng kiến kinh nghiệm
sắp xếp chuyên đề ca dao, đồng dao, tục ngữ vào hoạt động chiều một cách thích
hợp, đạt hiệu quả cao…Tất cả những nội dung tôi phụ đạo thêm cho giáo viên đều
dựa trên cơ sở thăm lớp dự giờ, đánh giá công tác hoạt động lồng ghép ca dao đồng
dao, tục ngữ vào chương trình. Chỗ nào còn yếu kém, khiếm khuyết thì tôi có kế
hoạch phụ đạo ở chỗ đó.Việc tổ chức thao giảng, dự giờ những tiết dạy tốt để cho
các giáo viên có điều kiện học tập, đúc rút kinh nghiệm lẫn nhau. Đây cũng là một
giải pháp có hiệu quả.
Đối với giáo viên khá - giỏi tôi luôn luôn có ý thức bồi dưỡng trau dồi cho họ về
kiến thức, năng lực chuyên môn và các kỹ năng lồng ghép chuyên đề vào các động,
và coi đây là hạt giống quý nhân rộng ra đối với các giáo viên khác.
Trong công tác chỉ đạo tôi thường xuyên làm tốt việc tổ chức các ngày hội
ngày lễ, các cuộc thi trong năm học đối với trẻ. Đó là các ngày lễ lớn có ý nghĩa vô
cùng quan trọng như: Ngày hội đến trường của bé, Ngày nhà giáo Việt nam 20/11;
Ngày thành lập quân đội nhân dân Việt nam, hay tổ chức cuộc thi tiếng hát dân ca
dành cho trẻ mẫu giáó, hoặc thi vẽ tranh… Khi tổ chức ngày lễ tôi thường chú trọng
chỉ đạo thực hiện phần hội thật tốt. Vì đây là cơ hội cho trẻ giao lưu múa, hát các bài

đồng dao, ca dao, cùng nhau kể các câu chuyện cổ tích… đồng thời trong ngày lễ hội
trẻ được tham gia vào các trò chơi đân gian một cách hướng thú. Lúc này trẻ không
những thõa mãn nhu cầu chơi vui chơi mà còn giúp trẻ thể hiện diễn suất, đọc lời
đồng dao rành mạch trôi chảy. Có thể nói thông qua các ngày lễ, các hội thi là một
cơ hội để giáo viên rèn dũa về khả năng cảm nhận về dồng dao, ca dao, tục ngữ cho
các cháu nhiều hơn, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt là hình thành
cho trẻ các kỹ năng giao tiếp, kỷ năng ứng xử ban đầu.
Chỉ đạo lớp điểm trong việc thực hiện chuyên đề lồng ghép là đòn bẩy phong
trào, là cơ sở để nâng cao năng lực chuyện môn và chất lượng giáo dục toàn diện
cho trẻ nói chung và chất lượng cảm thụ về ca dao, đồng dao, tục ngữ nói riêng. Từ
đó nhân ra diện rộng về chất lượng giáo dục trong toàn trường.

16


Sáng kiến kinh nghiệm
Trong năm học 2012- 2013 tôi đã chỉ đạo 3 lớp điểm về chuyên đề này ở các
khối lớp mẫu giáo. Điểm về lĩnh vực tổ chức chơi trò chơi dân gian như lớp mẫu
giáo 4A. Điểm về hát dân ca như lớp mẫu giáo 5A. Điểm về đọc thuộc nhiều bài
đồng dao, ca dao như lớp mẫu giáo 5B.
Nội dung yêu cầu đối với những lớp này cao hơn so với những lớp khác. Khi
cho trẻ làm quen với bài đồng dao, dao cao, tục ngữ… giáo viên cũng phải chuẩn bị
chu đáo hơn. Phải có hình ảnh minh họa nội dung. Có thể minh họa qua tranh ảnh,
cũng có thể minh họa các hình ảnh qua máy chiếu, hoặc qua ti vi đầu đĩa…
Ví dụ: Dạy trẻ làm quen bài hát ru( Lời ca dao):
RU CON
Gió mùa Thu, mẹ ru con ngủ
Năm canh chầy, là năm canh chầy, thức đủ vừa năm
Nín, nín đi con ! Con nín, nín đi con !
Con hỡi, con là hời !

Con hỡi con hời !
Hỡi chàng là chàng à ơi !
Hỡi người là người à ơi !
Em nhớ tới chàng ! Em nhớ tới người !
Hãy nín, nín đi con ! Hãy ngủ, ngủ đi con !
Con hỡi con hời … Con hỡi con hời … hỡi con !

Tranh minh họa có thể một bức tranh vẽ theo kiểu dân gian sử dụng các màu sắc
hợp lý, hài hài, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi. Ví dụ:

17


Sáng kiến kinh nghiệm

Với các lớp chỉ đạo điểm, nhà trường đã có kế hoạch chỉ đạo ngay từ đầu năm
học. Đầu tư về cơ sở vật chất tốt hơn, đồ dùng trang thiết bị dạy học, đồ chơi đầy đủ
hơn so với các lớp khác. Công tác chỉ đạo trang trí lớp cũng đa dạng phong phú hơn.
Đặc biệt những lớp này chỉ đạo trang trí đưa các hình ảnh về dân gian nhiều hơn. Ví
dụ như các hình ảnh con vật được vẽ cách điệu trên quạt nan, trên rá tre, hình ảnh bé
cưỡi trâu, chú cuội ngồi chơi trăng… tất cả trang trí vừa tầm mắt trẻ nhìn, tạo môi
trường giáo dục thân thiện với trẻ. Chỉ đạo việc thực hiện tổ chức các hoạt động, có
lồng ghép đồng dao, ca dao tục ngữ vào hoạt động dạy học làm cho tiết học thêm
sinh động. Chọn những bộ hồ sơ, bài soạn được lồng ghép ca dao, đồng dao, tục ngữ

18


Sáng kiến kinh nghiệm
vào chương trình một cách có khoa học, tích hợp nhẹ nhàng, nội dung phù hợp để

làm điểm cho các giáo viên khác noi theo.
Qua chỉ đạo điểm, giáo viên đã học tập thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn,
cũng như việc lồng ghép chuyên đề ca dao, đồng dao, tục ngữ vào chương trình.Từ
đó chất lượng giảng dạy nâng lên rõ rệt.
*. Biện pháp 5: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá:
- Đối với giáo viên: Kiểm tra là một việc làm thường xuyên, kiểm tra bằng
nhiều hình thức, kiểm tra toàn diện, chuyên đề, kiểm tra theo định kỳ, kiểm tra đột
xuất…Nhưng kiểm tra về chuyên đề lồng ghép đồng dao ca dao, tục ngữ được ưu
tiên nhiều hơn.; Kiểm tra chuyên đề này mỗi giáo viên kiểm tra 2 lần/năm. Kiểm tra
đột xuất một số nội dung có liên quan đến ca dao, đồng dao, tục ngữ thì được thực
hiện thường xuyên; Kiểm tra việc thực hiện chương trình, kiểm tra hồ sơ, giáo án,
kiểm tra thực hiện chế độ lồng ghép, kiểm tra việc đánh giá chất lượng chuyên đề...
- Đối với trẻ: Kiểm tra kỹ năng của trẻ: Kỷ năng đọc, kỷ năng hát dân ca, kỷ
năng chơi các trò chơi dân gian…
Qua kiểm tra, đã uốn nắn một số sai lệch của giáo viên trong công tác lồng
ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ. Từ đó có biện pháp chỉ đạo cụ thể cho từng giáo
viên giúp cho họ ôn luyện kiến thức, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng giúp cho trẻ có
chất lượng giáo dục tốt hơn trong việc cảm thụ về ca dao, đồng dao, tục ngữ.
Đánh giá việc giáo lồng ghép chuyên đề qua khảo sát chất lượng. Vì thế khi đánh
giá phải đánh giá đúng thực chất kết quả có được trong quá trình thực hiện. Khâu
đánh giá diễn ra thường xuyên, liên tục qua việc kiểm tra, qua thăm lớp dự giờ và
chủ yếu là qua việc khảo sát, đánh giá 2 lần trong năm học. Lần 1 khảo sát thực
trạng vào tháng 10/2012.
Lần 2 khảo vào tháng 4/2013, kết quả đạt được như sau:
*. Đối với khối nhà trẻ và mẫu giáo bé:

19


Sáng kiến kinh nghiệm

TT

NT
Nội dung khảo sát

MGBÉ
Tỉ lệ %

Nội dung khảo sát

1
2
3
4

Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu quê

60%
70%
77%
70%
Không

Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc

Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu quê

5

hương đất nước, con người

khảo sát hương đất nước, con người

Tỉ lệ %
70%
75%
80%
75%
65%

*. Đối với khối lớp nhỡ và khối lớp lớn:

TT

MGNHỠ
Nội dung khảo sát

MGLỚN
Tỉ lệ %
78%
83%
85%
78%


Nội dung khảo sát
Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu quê

Tỉ lệ %

1
2
3
4

Số lượng bài
Khả năng cảm thụ
Khả năng đọc thuộc
Trí nhớ
Tình cảm, tình yêu quê

87%
92%
95%
87%

5

hương đất nước, con người 72% hương đất nước, con người 78%
Qua đánh giá kết quả của giáo viên, cán bộ quản lý phải có sự kiểm tra xác


suất, thực chất kết quả. Từ đó có biện pháp chỉ đạo tích cực, bổ sung những thiếu
sót, kịp thời chấn chỉnh, bồi dưỡng cho giáo viên cách đánh giá, phát hiện những
cháu có kiến thức còn hạn chế để bồi dưỡng, ôn luyện thêm.
*.Biện pháp 6: Phối kết hợp với gia đình trong việc cho trẻ làm quen với đồng
dao, ca dao, tục ngữ.
Quay lại vấn đề ban đầu, đồng dao, ca dao, tục ngữ là thể loại văn học dân
gian được truyền miệng từ đời này qua đời khác và được lưu giữ trong nhân dân.
Cho nên việc các bậc phụ huynh thuộc và nhớ lời các bài đồng dao, ca dao, tục ngữ
là rất nhiều. Vì thế mà việc phối hợp với phụ huynh để cho trẻ được làm quen với
20


Sáng kiến kinh nghiệm
các thể loại đồng dao, ca dao nhi đồng là rất thuận lợi. Nhưng làm thế nào để phối
hợp với các bậc cha mẹ một cách có hiệu quả, điều đó đòi hỏi nhà trường và giáo
viên phải có kế hoạch phối hợp cụ thể. Thời gian phối hợp phải triển khai ngay từ
đầu năm. Cách tổ chức phối kết hợp với phụ huynh chủ yếu qua các cuộc họp phụ
huynh; Qua góc các góc tuyên truyền, qua trao đổi hằng ngày giữa cô với các bậc
cha mẹ… đã giúp cho phụ huynh nắm được tầm quan trọng của ca dao, đồng dao
trong việc phát triển nhân cách của trẻ. Đồng thời nắm được một số kiến thức trong
việc cho trẻ làm quen với đồng dao, ca dao, tục ngữ… Từ đó phụ huynh có thể
hướng dẫn thêm cho trẻ trong thời gian ở nhà. Ngoài ra phụ huynh có thể cùng giáo
viên sưu tầm các tranh ảnh dân gian, băng đĩa các bài dân ca.. để làm tăng độ phong
phú của chuyên đề tạo môi trường cho trẻ khám phá và hoạt động một cách tích cực.
Ngoài ra phụ huynh tham gia cổ vũ, động viên trẻ vui chơi, hát dân ca… trong các
ngày hội ngày lễ hội mà nhà trường tổ chức.
4. Kết quả đạt được:
Trong năm học 2012 - 2013 nhờ có các biện pháp chỉ đạo lồng ghép đồng dao,
ca dao, tục ngữ một cách tích cực cho nên chuyên đề này đã đạt được một số kết quả
đáng kể như sau:

- 100% cán bộ giáo viên nhận thức được tầm quan trọng của ca dao, đồng dao,
tục ngữ đối với trẻ mầm non.
- 100% trẻ hứng thú khi tham gia đọc đồng dao, ca dao, tục ngữ cũng như tham
gia chơi các trò chơi dân gian, nghe hát dân ca…
- 90% trẻ cảm thụ tốt về dòng nghệ thuật này
- 100% trẻ đạt yêu cầu theo kế hoạch đề ra.
- Chất lượng giáo dục của chuyên đề này tăng lên rõ rệt.(Dựa vào bảng khảo sát
đầu năm và cuối năm như đã nêu trên)

21


Sáng kiến kinh nghiệm
- Môi trường giáo dục trẻ thân thiện, cởi mở hơn. Trẻ hiểu biết về cuội nguồn
cũng như truyền thống của dân tộc Việt nam nhiều hơn.
- Tình yêu quê hương đất nước trong trẻ được hình thành và nuôi nấng ngay từ
thửu ban đâu…
- Ngoài ra khi lồng ghép chuyên đề này vào chương trình dạy hoc thì chất
lượng giáo dục trong nhà trường cũng tăng lên rõ nét.
5. Bài học kinh nghiệm:
Giáo dục mầm non là một bậc có đặc thù riêng, khác với tất cả các bậc học
khác. Đòi hỏi các nhà giáo dục cần phải có nghệ thuật cao, nhưng phải có khoa học.
Vì vậy, khi chỉ đạo thực hiện, người cán bộ quản lý phải thật sự năng động, sáng tạo,
có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm vững vàng, có sự đam mê tìm tòi, học
hỏi. Chủ động trong công tác chỉ đạo lồng ghép chuyên đề theo kế hoạch đề ra.
Muốn làm được điều đó người quản lý cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
- Sưu tầm tuyển chọn các các bài đồng dao, ca dao, tục ngữ phù hợp đưa vào
chương trình giáo dục trường mầm non một cách phù hợp, không ôm đồm, nhưng
cũng không quá ít.
- Xây dựng kế hoạch một cách cụ thể, khoa học và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc kế

hoạch đề ra.
- Tham mưu tích cực với các cấp lãnh đạo để mua sắm, bổ sung đầy đủ các trang
thiết bị, đồ dùng dạy học nhằm phục vụ tốt cho chuyên đề.
- Chỉ đạo thực hiện lồng ghép phù hợp theo từng độ tuổi, phù hợp với chủ đề, chủ
điểm.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, khảo sát chất lượng trẻ đúng
quy trình.

22


Sáng kiến kinh nghiệm
- Chỉ đạo tốt công tác bồi dưỡng chuyên đề. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá.
Muốn làm tốt điều này cần phải thành lập ban chỉ đạo để theo dõi kiểm tra đôn đốc
giáo viên thực hiện.
- Thường xuyên phối kết hợp với gia đình trong việc cho trẻ làm quen với đồng dao,
ca dao, tục ngữ.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Ngành học mầm non là nền tảng đầu tiên của ngành giáo dục và đào tạo. Chất
lượng giáo dục trẻ tốt sẽ góp phần vào việc xây dựng và phát triển đất nước sau này.
Vì vậy, việc chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm chung của mọi người và toàn xã
hội.Tuy nhiên trách nhiệm lớn lao “đứng mũi chịu sào” vẫn là trách nhiệm của các
nhà quản lý giáo dục mầm non. Bởi vậy các nhà quản lý chỉ đạo trường học phải
luôn tâm huyết với nghề, luôn luôn trăn trở để tìm ra những hạn chế mà giáo viên
chưa làm được, từ đó chỉ ra các biện pháp khắc phục đem lại kết quả giáo dục cao
hơn. Nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người mới XHCN, tạo tiền đề
vững chắc cho trẻ bước vào trường tiểu học được tốt nhất. Ý tưởng đó đạt được thì
đòi hỏi người cán bộ quản lý phải luôn biết cách chỉ đạo lồng ghép mọi hoạt động có
ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ nói chung vào chương trình giáo dục. Đặc biệt là
lồng ghép đồng dao, ca dao, tục ngữ một cách có hiệu quả nói riêng, sẽ góp phần

không nhỏ trong việc chăm lo cho việc phát triển trồng người của đất nước.
Trên đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi thực hiện trong suốt
năm học vừa qua về việc: “Công tác quản lý chỉ đạo lồng ghép đồng dao, ca dao,
tục ngữ vào chương trình giáo dục mầm non” ở đơn vị trường mầm non. Kính
mong sự góp ý chân thành của hội đồng khoa học để bản thân có thêm nhiều kinh
nghiệm chỉ đạo tốt hơn.
Hoàn thành th¸ng 4 n¨m 2012

23


Sỏng kin kinh nghim

Mục lục

Các nội dung
A. Lí do chọn đề tài
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phơng pháp nghiên cứu
B. Nội dung đề tài nghiên cứu
1. Cơ sở lý luận
1.1. Cơ sở khoa học
1.2. Cơ sở thực tiễn
2. Thực trạng vấn đề
2.1. Tình hình thực trạng
2.2. Khảo sát thực trạng
3. Các biện pháp thực hiện

4.Kết quả đạt đợc
5. Bài học kinh nghiệm
C. Kết luận và kiến nghị

Tài liệu tham khảo

1. Tuyển tập thơ, chuyện 3 4 tuổi Bộ GD&ĐT
2. Tuyển tập thơ, chuyện 4 5 tuổi Bộ GD&ĐT
3. Tuyển tập thơ, chuyện 5 6 tuổi Bộ GD&ĐT

24

Trang
1
1
2
2
2
2
2
2
2


Sỏng kin kinh nghim
4. Tuyển tập trò chơi, câu đố dành cho lứa tuổi mầm non- Bộ
GD&ĐT
5. Tuyển tập Văn Chơng Nhi đồng của Hồ Sỹ Doãn 1969
6.Tục ngữ và dân ca Việt Nam của nhà xuất bản Văn, sử, địa Hà Nội1956
7. Kho tàng văn thơ ngời Việt của nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà

Nội- 1995
8. Trẻ em hát, trẻ em chơi của nhà xuất bản Hà nội- 1943
9. Su tầm qua mạng Itenet về các bài đông dao, ca dao, tục ngữ nhi
đồng Việt nam.

25


×