Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG DẠY HỌC PHẦN ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG CÔNG NGHỆ 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 73 trang )

A.

1.

MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiến vào hội

nhập quốc tế. Yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội đòi hỏi nguồn nhân lực phải
được phát triển cả về số lượng và chất lượng. Bản thân đối tượng học tập cũng được
tiếp nhận với nhiều nguồn thông tin đa dạng phong phú; học sinh ngày nay linh hoạt,
chủ động hơn, nên các em cũng có đòi hỏi cao hơn từ phía nhà trường. Giáo dục cần
tập trung vào đào tạo học sinh trở thành những con người năng động, sáng tạo, có khả
năng thích nghi với sự phát triển không ngừng của xã hội. Chính vì vậy nước ta đang
thực hiện cải cách toàn diện giáo dục phổ thông. Một trong những trọng tâm của đổi
mới giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học. Tiến trình dạy
học cần được thực hiện dựa trên hoạt động tích cực, chủ động của học sinh với sự tổ
chức và định hướng đúng đắn của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo,
góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, bồi dưỡng hứng thú học tập,
tạo niềm tin và niềm vui trong học tập cho học sinh. Định hướng đổi mới này cũng
gắn liền với việc đa dạng hoá các hình thức học tập: dạy học trong nhà trường và
ngoài môi trường thực tế, học tập trong giờ học chính khoá và học qua các hoạt động
ngoại khoá. Như thế, các phương pháp dạy học tích cực, hướng vào học sinh rất cần
được áp dụng thường xuyên song song với việc gia tăng tiến hành các hoạt động ngoại
khoá.
Có thể nói, hoạt động ngoại khóa giúp giáo viên và học sinh phát huy tính chủ
động sáng tạo, khơi gợi niềm say mê hứng thú học tập, thực hành, rèn luyện các kỹ
năng…Theo quan niệm đổi mới phương pháp dạy học, hoạt động ngoại khóa là một
hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả; nối liền bục giảng với thực tiễn đời
sống; vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn; phát huy tính tích cực, chủ động sáng




tạo của người học, kiểm tra lại chất lượng dạy học trong giờ chính khóa. Qua đó, học
sinh được phát triển cân đối về trí tuệ, đạo đức, thể dục và mỹ thuật.
Trong những buổi ngoại khóa, học sinh được giao lưu với nhau, có thể phát
huy tính năng động, sáng tạo của mình mà không bị hạn chế bởi những căng thẳng
như trong giờ học. Đây là một hoạt động vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa khoa
học, giúp người dạy khắc phục được những bất cập trong chương trình giữa thời gian
cho phép và khối lượng kiến thức cần phải truyền đạt, mở rộng và đào sâu những nội
dung quan trọng, bổ sung những vấn đề chưa được đặt ra trong chương trình chính
khóa. Bên cạnh đó, hoạt động ngoại khoá là một hoạt động giáo dục cần thiết trong
trường phổ thông và rất cần được nghiên cứu tìm hiểu thêm về lý luận để có thể vận
dụng tốt nhất vào thực tế. Vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài khóa luận tốt
nghiệp là: “TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHÓA TRONG DẠY HỌC
PHẦN ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG CÔNG NGHỆ 11” nhằm cung cấp tư liệu và đề
xuất một số giải pháp trong việc tổ chức hoạt động ngoại khóa môn Công Nghệ 11 tại
trường phổ thông.
2.

Mục tiêu của đề tài
Thiết kế được tiến trình và tổ chức thành công hoạt động ngoại khóa phần

động cơ đốt trong Công nghệ 11.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa phần động cơ đốt
trong Công Nghệ lớp 11
4. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động dạy học phần động cơ đốt trong Công Nghệ lớp 11 ở trường THPT.
5. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lý luận các tài liệu, công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.



- Tìm hiểu thực trạng và giải pháp việc tổ chức hoạt động ngoại khóa môn Công
Nghệ 11.
- Tìm hiểu các phương pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa môn Công Nghệ 11.
- Thực nghiệm sư phạm để phân tích, đánh giá hiệu quả tổ chức hoạt động
ngoại khóa.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: sách, tài liệu, giáo trình... có liên quan đến
đề tài nghiên cứu.
- Nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm: phân tích và tổng hợp, trừu tượng
hóa, khái quát hóa . . . để định hướng về mục đích và cơ sở lí luận cho đề tài.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm.
7. Lịch sử nghiên cứu
Đổi mới phương pháp dạy và học là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ
đổi mới giáo dục nhằm nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả dạy và học. Luật giáo
dục (điều 28) yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu giáo dục đã rất quan tâm đến việc đổi mới
phương pháp dạy học, nhất là hình thức tổ chức dạy học ngoại khóa trong trường phổ
thông:
- Trong tài liệu “Phương pháp dạy học kỹ thuật công nghiệp 11”, 1999 của
Nguyễn Văn Bính đã trình bày ý nghĩa và các hình thức tổ chức hoạt động ngoại
khóa, đồng thời đề xuất một số phương pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa.


- Bài viết về “Hoạt động ngoại khóa trong nhà trường phổ thông”, 2007 của

Nguyễn Thị Ngọc đã nêu lên vai trò, đối tượng của hoạt động ngoại khóa đồng thời
nêu lên một số khó khăn và đề ra biện pháp giải quyết trong phạm vi nhà trường phổ
thông.
- Trong tài liệu “Phương pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa Vật lí”, 2009,
của Nguyễn Quang Đông đã bàn về thực trạng và giải pháp cho việc tổ chức các hoạt
động ngoại khóa ở trường phổ thông.
Hiện nay, chưa có tài liệu và công trình nghiên cứu nào cung cấp đầy đủ thông
tin về việc tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần Động cơ đốt trong Công
nghệ 11. Vì vậy, là một sinh viên ngành kỹ thuật công nghiệp và tương lai trở thành
giáo viên ở trường phổ thông, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần giúp tôi mang
lại hiệu quả cao trong dạy học bộ môn.
8. Cấu trúc khóa luận
A.
B.

Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc tổ chức hoạt động ngoại khóa Công Nghệ

11 ở trường THPT.
Chương 2. Tổ chức hoạt động ngoại khóa trong dạy học phần Động cơ đốt
trong Công nghệ 11.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.
Kết luận và kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.

B.NỘI DUNG



CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG NGOẠI
KHÓA CÔNG NGHỆ 11 Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1.

Các hình thức tổ chức dạy học
1.1.1. Khái quát về quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình tương tác (hợp tác) giữa thầy và trò, trong

đó thầy chủ đạo nhờ các hoạt động tổ chức, lãnh đạo, điều chỉnh hoạt động nhận thức
của HS, còn trò tự giác, tích cực, chủ động thông qua việc tự tổ chức, tự điều chỉnh
hoạt động nhận thức của bản thân nhằm đạt tới mục đích dạy học.
Quá trình dạy học là một quá trình xã hội, một quá trình sư phạm đặc thù, nó
tồn tại như một hệ thống bao gồm nhiều thành tố cấu trúc:
+ Mục đích vụ nhiệm vụ dạy học: Phản ánh một cách tập trung nhất những
yêu cầu của xã hội đối với quá trình dạy học. Cụ thể là quá trình dạy học phải hướng
tới mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và
phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ. Mục tiêu đó được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ
dạy học nhằm nâng cấp tri thức, kĩ năng, bồi dưỡng thái độ, hình thành, phát triển
những năng lực, phẩm chất tốt đẹp cho người học.
+ Nội dung dạy học: Là hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà người học phải
nắm vững trong quá trình dạy học.
+ Phương pháp dạy học: Là các con đường, các cách thức vận động của nội
dung dạy học phù hợp với quy luật phát triển tâm sinh lí và trình độ nhận thức của
người học, là các biện pháp tổ chức hợp tác giữa thầy và trò nhằm giúp cho trò chiếm
lĩnh được nội dung dạy học một cách vững chắc.
+ Hình thức tổ chức dạy học: Là các hình thức tổ chức hoạt động dạy và
hoạt động học của thầy và trò nhằm thực hiện phương pháp giáo dục và chiếm lĩnh
nội dung dạy học.



+ Phương tiện dạy học: Là những vật thể mang nội dung và phương pháp
dạy học, là phương tiện tác động tới hoạt động dạy và hoạt động học.
+ Điều kiện dạy học: Bao gồm những điều kiện bên trong như trường (về cơ
sở hạ tầng, vật chất kĩ thuật, vệ sinh học đường....) và những điều kiện bên ngoài nhà
trường (môi trường kinh tế - xã hội, địa phương, đất nước...).
+ Chủ thể dạy học: Là thầy giáo và tập thể thầy giáo trong hoạt động dạy; là
HS và tập thể HS trong hoạt động học.
+ Đối tượng dạy học: Là HS và tập thể HS với tư cách vừa là những cá
nhân, vừa là những nhân cách với những đặc điểm và trình độ phát triển tâm sinh lí,
trình độ nhận thức rất đa dạng và phức tạp.
+ Kết quả dạy học: Là kết quả của hoạt động dạy và hoạt động học thông
qua việc kiểm tra, đánh giá, trở thành yếu tố kích thích, điều chỉnh hoạt động dạy và
hoạt động học.
Tất cả những thành tố trong cấu trúc quá trình dạy học tồn tại trong mối quan
hệ thống nhất biện chứng với nhau và toàn bộ hệ thống được đặt trong môi trường
kinh tế xã hội và trong môi trường khoa học công nghệ.
1.1.2.

Các hình thức tổ chức dạy học

Hình thức tổ chức dạy học là một thành tố trong cấu trúc của quá trình dạy học.
Hình thức tổ chức dạy học được hiểu là cách tổ chức sắp xếp và tiến hành quá trình
dạy học. Nó còn được coi là cách sắp xếp tổ chức các biện pháp sư phạm thích hợp,
nó thay đổi tuỳ thuộc vào mục đích, nhiệm vụ dạy học, mối quan hệ giữa GV và HS,
quan hệ giữa HS với nhau, theo số lượng người học, theo không gian diễn ra quá trình
dạy học, theo cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thuật phục vụ cho quá trình dạy học.
Trong hình thức tổ chức dạy học, yếu tố tổ chức là cực kỳ quan trọng, bởi nó
phản ánh trình tự sắp xếp tương hỗ với sự liên hệ qua lại giữa các yếu tố tồn tại trong
một bài học hay quá trình dạy học nói chung. Tổ chức dạy học cũng đựợc hiểu như là



một trật tự xác định cả về mặt ý nghĩa, chức năng của qui trình dạy học cũng như ý
nghĩa cấu trúc tạo ra sự khác nhau giữa các loại bài học.
Trong thực tiễn dạy học ở các loại hình trường khác nhau, tồn tại nhiều hình
thức tổ chức dạy học khác nhau, tuỳ theo mối quan hệ giữa các hoạt động dạy và học
có tính chất cá nhân hay theo lớp, tuỳ theo phương thức tổ chức, điều khiển của người
dạy và mức độ hoạt động tích cực, sáng tạo của người học... mà các hình thức tổ chức
dạy học đựợc diễn ra như thế nào cho phù hợp với các điều kiện về thời gian, không
gian và phương tiện dạy học cho phép.
Hệ thống hình thức tổ chức dạy học gồm có các hình thức chủ yếu sau:
+Hình thức lớp - bài (lên lớp).
+ Hình thức dạy học theo nhóm.
+ Hình thức tự học.
+ Hình thức thực hành.
+ Hình thức thảo luận và xêmina.
+ Hình thức giúp đỡ riêng (phụ đạo).
+ Hình thức hoạt động ngoại khoá.
+ Hình thức tham quan học tập.
+ Hình thức trò chơi.
+ Hình thức kể chuyện.
+ Hình thức nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, người ta còn phân thành dạy học cá nhân, dạy học theo lớp, dạy học
theo nhóm.
Theo quan điểm hiện đại về dạy học (dạy học bằng hoạt động, thông qua hoạt
động) thì việc tổ chức dạy học thực chất là tổ chức cho người học hoạt động tự lực


thông qua đó mà chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực và hình thành thái
độ. Trong mỗi hình thức tổ chức dạy học lại có nhiều cách thức tổ chức hoạt động của
người học. Lựa chọn hình thức tổ chức hoạt động nào là tuỳ thuộc vào mục đích, nội

dung, phương tiện dạy học và trình độ nguời học. Mỗi hình thức tổ chức dạy học có
ưu điểm riêng, đáp ứng được việc thực hiện một số mặt trong mục tiêu chung của dạy
học môn Công Nghệ. Việc phối hợp khéo léo, hài hòa các hình thức tổ chức dạy học
sẽ mang lại hiệu quả cao, tạo ra một chất lượng toàn diện ở người học.
1.2.

Hoạt động ngoại khóa
1.2.1. Khái niệm
Do sự hạn chế của thời gian lên lớp trong chương trình chính khoá, đồng thời

với sự gia tăng không ngừng của tri thức đã làm xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu
nhận thức của HS với tính kế hoạch của chương trình. Để giải quyết mâu thuẫn này,
người ta tổ chức các hoạt động ngoại khoá nhằm tạo điều kiện cho mỗi HS có thể mở
rộng, đào sâu kiến thức, phát triển hứng thú, năng lực cá nhân và kích thích thiên
hướng của các em về một mặt hoạt động nào đó.
Hoạt động dạy học ngoại khóa là một trong những hoạt động giáo dục quan
trọng ở nhà trường phổ thông. Hoạt động này có ý nghĩa hỗ trợ cho giáo dục chính
khóa (nội khóa), được tổ chức có kế hoạch và phương hướng xác định, được tiến hành
trên tinh thần tự nguyện của HS dưới sự hướng dẫn của GV nhằm bổ sung và mở rộng
kiến thức, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và sáng
tạo của HS.
Hoạt động ngoại khoá là một hình thức tổ chức dạy học có đặc điểm:
+ Hoạt động ngoại khoá được thực hiện ngoài giờ học, nó không mang tính
bắt buộc mà tuỳ thuộc vào hứng thú, sở thích, nguyện vọng của mỗi HS trong khuôn
khổ khả năng và điều kiện tổ chức có được của nhà trường.


+ Hoạt động ngoại khoá có thể được tổ chức dưới nhiều dạng: dạng tập thể
cả lớp, dạng nhóm theo năng khiếu, dạng học tập, dạng vui chơi, dạng thường kì, dạng
đột xuất nhân những dịp kỉ niệm hay lễ hội.

+ Hoạt động ngoại khoá có thể được tổ chức theo những hình thức như: tổ
ngoại khoá; câu lạc bộ khoa học; dạ hội khoa học; dạ hội nghệ thuật .v.v...
+ Nội dung ngoại khoá rất đa dạng, bao gồm cả mặt văn hoá, khoa học công
nghệ, thể dục thể thao, kĩ thuật... nhằm giúp HS mở rộng, đào sâu, làm phong phú
thêm những điều đã được học trong các giờ nội khoá của môn học tương ứng.
+ Ngoại khoá do GV bộ môn, GV chủ nhiệm, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh... và HS của một lớp hay một số lớp thực hiện.
Để tiến hành các hoạt động ngoại khoá đạt hiệu quả tốt đẹp đòi hỏi phải có sự
tổ chức chặt chẽ, tỉ mỉ của GV, sự giúp đỡ của nhà trường, của hội cha mẹ HS và
những tổ chức đỡ đầu, kết nghĩa... Bên cạnh đó, GV cần động viên được sự tham gia
nhiệt tình của tập thể của HS, của mỗi cá nhân, cần tạo dựng được những hạt nhân
nòng cốt trong mỗi dạng hoạt động ngoại khoá.
1.2.2.

Tác dụng của hoạt động ngoại khóa

1.2.2.1.Về giáo dục
- Hoạt động ngoại khoá góp phần giáo dục tính tổ chức, tính kế hoạch, tinh
thần làm chủ và hợp tác trên cơ sở những hoạt động thực tế. Ngoại khoá được thực
hiện cơ bản dựa trên sự tự nguyện, tự giác của HS cộng với sự giúp đỡ thích hợp của
GV sẽ động viên HS nỗ lực hết mình giải quyết vấn đề đặt ra.
- Hoạt động ngoại khoá làm cho quá trình dạy bộ môn thêm phong phú đa
dạng, việc học tập của HS thêm hứng thú sinh động, tạo cho HS lòng hăng say yêu
công việc, đó là điều kiện để phát triển năng lực sẵn có của HS. Qua ngoại khoá, học
sinh có điều kiện tự làm, tập dượt phát huy óc sáng tạo, tự tin ở mình, có thể dám nghĩ
dám làm.


1.2.2.2. Về giáo dưỡng
- Hoạt động ngoại khoá góp phần củng cố, bổ sung kiến thức cho HS. Thông

qua hoạt động ngoại khoá, kiến thức HS thu nhận được sẽ sâu sắc hơn. Trong khi tiến
hành hoạt động ngoại khoá, HS được tự mình nghiên cứu, tự mình tìm hiểu vấn đề và
tranh luận với bạn bè trong sự cân nhắc kĩ càng. Chính vì thế hoạt động ngoại khoá
góp phần đắc lực trong việc phát triển trí lực và khả năng sáng tạo của HS.
- Vì điều kiện thời gian, trong chương trình nội khoá có những phần GV
không thể giới thiệu hết được. Những phần này nếu được bổ sung bởi hoạt động ngoại
khoá thì kiến thức của HS sẽ được mở rộng thêm. HS có thể thu nhận được kiến thức
dưới nhiều hình thức như: Nhóm ngoại khoá, câu lạc bộ khoa học, hội vui, hội thi...
1.2.2.3. Tác dụng giáo dục kĩ thuật tổng hợp, định hướng nghề nghiệp
Qua hoạt động ngoại khoá, HS được rèn luyện một số kĩ năng như: Tập nghiên
cứu một vấn đề, thuyết minh trình bày trước đám đông, tập sử dụng những dụng cụ,
thiết bị thường gặp trong đời sống, những máy móc từ đơn giản tới hiện đại. Qua đó
giúp HS phát triển tình cảm nghề nghiệp và bước đầu có ý thức về nghề nghiệp mà
HS sẽ chọn trong tương lai.
1.2.2.4. Hoạt động ngoại khoá là điều kiện thuận lợi để giáo viên có thể thử
nghiệm các phương pháp dạy học
Qua hoạt động ngoại khoá GV có điều kiện tốt để thực hiện và kiểm tra các kết
quả nghiên cứu của mình, do GV nắm vững khả năng, tâm lí của HS nên hiệu quả của
việc thử nghiệm sẽ cao hơn.
1.2.3. Sử dụng phương tiện kỹ thuật dạy học trong việc tổ chức hoạt động ngoại
khóa môn Công nghệ
Phương tiện kỹ thuật dạy học là tổ hợp cơ sở vật chất kỹ thuật trường học, nó
bao gồm các phương tiện kỹ thuật nghe nhìn, các phương tiện kỹ thuật chương trình
hóa: máy thông tin, máy kiểm tra, máy dạy học…Trong số những phương tiện đó,


phương tiện nghe nhìn chiếm vị trí quan trọng nhất. Các phương tiện nghe nhìn bao
gồm:
- Các giá mang thông tin như: Bảng trong, phim, băng từ âm, đĩa ghi âm, đĩa
ghi hình…

- Các máy móc truyền tải thông tin như: đèn chiếu, radio, máy chiếu, video,
máy thu hình, máy quay phim,…
Hiện nay, cùng với việc ứng dụng khoa học công nghệ vào dạy học, các
phương tiện nghe nhìn, đặc biệt là máy vi tính, máy chiếu (projector), … ngày càng
được sử dụng rộng rãi. Trong việc tổ chức hoạt động ngoại khóa Công nghệ, các
phương tiện dạy học có thể sử dụng như: máy vi tính, các phần mềm dạy học, đĩa CD,
VCD, DVD, mạng Internet, máy chiếu hình, bản trong, máy quay phim.
Để sử dụng có hiệu quả các phương tiện kỹ thuật dạy học trong tổ chức hoạt
động ngoại khóa Công nghệ, GV cần soạn thảo kế hoạch tổ chức ngoại khóa có sử
dụng phương tiện kỹ thuật dạy học, phân chia và xác định loại phương tiện và thiết bị
cần sử dụng, xác định thời điểm sử dụng sao cho đúng lúc, đúng chỗ với thời lượng
thích hợp, để bằng chính hoạt động của mình, HS có thể tiếp cận, khai thác nội dung
thông tin của phương tiện, tìm ra các mối quan hệ có tính quy luật về bản chất của đối
tượng nghiên cứu, kích thích tính tích cực nhận thức của HS. Một điều phải chú ý là:
Bất kỳ phương tiện kỹ thuật dạy học nào cũng chỉ mang những thông tin khoa học
nhất định và có chức năng sư phạm riêng biệt. Cần lựa chọn và sử dụng các phương
tiện kỹ thuật dạy học một cách linh hoạt và kết hợp với các phương tiện dạy học
truyền thống để đạt được hiệu quả cao trong tổ chức hoạt động ngoại khóa môn Công
nghệ.
1.2.4. Các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa
1.2.4.1. Nhóm kỹ thuật


Nhóm là sự tập hợp tự nguyện của một số HS được tổ chức trong một thời kỳ
nhất định. Để hoạt động nhóm có hiệu quả, trước hết người GV phải biết chọn đề tài
và hướng làm việc. Chọn đề tài và hướng làm việc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Nội dung chương trình chính khóa, điều kiện của trường, khả năng của GV, hứng thú
và nguyện vọng của HS. Nội dung và phương pháp hoạt động của nhóm phải hướng
vào mục đích hình thành và phát triển kiến thức, kỹ năng kỹ xảo mang đặc tính kỹ
thuật tổng hợp của HS, hình thành hứng thú nghề nghiệp. Khâu tổ chức nhóm là công

việc đầu tiên của GV sau khi xác định mục đích, đề tài và kế hoạch làm việc của
nhóm, GV thông báo cho toàn trường về việc thành lập nhóm và đề nghị HS có
nguyện vọng tham gia thì đăng ký. Nếu HS đăng ký quá đông thì tổ chức một vài
nhóm, nếu không có điều kiện thì tổ chức thí điểm một nhóm. Thành phần của nhóm
có thể là HS của một lớp hoặc một vài lớp khác nhau. Số lượng HS trong một nhóm
chỉ nên từ 10-12 em, đông quá sẽ gây khó khăn cho việc tổ chức làm việc.Trong điều
kiện có khó khăn về cơ sở vật chất thì nên đề nghị tổ chức toàn đội, các cơ quan
quanh trường, cha mẹ HS và bản thân HS trong trường giúp đỡ.
Để điều khiển hoạt động của nhóm cần phải có kế hoạch. Trong kế hoạch cần
chỉ rõ những nhiệm vụ sẽ hoàn thành, thời hạn, kết quả, những dụng cụ, mô hình, trò
chơi kỹ thuật ...Phương pháp tiến hành các bài tập trong nhóm cần đảm bảo sự thống
nhất giữa lý thuyết và thực hành. Các giờ học này nên tiến hành dưới hình thức
xêmina, đàm thoại. Phần lý thuyết chỉ nên ngắn gọn để không làm cho HS chán nản.
Để đảm bảo nhóm ngoại khóa có thể tồn tại và hoạt động tốt thì cần phải xây dựng
được hạt nhân của nhóm – chính là nhóm trưởng. Nhóm trưởng trước hết phải có
hứng thú, có nhiệt tình đối với công việc của nhóm, có khả năng tổ chức hoạt động
của nhóm theo sự chỉ đạo của GV. Nhóm trưởng còn là người giúp việc tích cực cho
GV trong việc xây dựng cơ sở vật chất, giữ gìn trật tự, vệ sinh nơi làm việc, tiến hành
thảo luận công việc.


Công việc đầu tiên của nhóm nên bắt đầu từ việc xây dựng lại phòng thí
nghiệm; sửa chữa các dụng cụ hỏng, mắc lại hệ thống điện cho an toàn, xây dựng chỗ
làm việc của nhóm. Công việc tiếp theo rất phong phú: Chế tạo các đồ dùng dạy học
đơn giản, thiết kế các mô hình, trò chơi kỹ thuật phục vụ dạ hội, thử nghiệm các vấn
đề lý thuyết đã học trên lớp.
Nhóm ngoại khóa có thể hoạt động theo nhiều hướng khác nhau, có những tên
gọi phong phú và hấp dẫn như “nhóm nhà kỹ thuật điện trẻ tuổi”, “nhóm điện tử ứng
dụng”, “nhóm thiết bị tự động”, “nhóm kỹ thuật cơ khí” ...
1.2.4.2. Tham quan ngoại khóa

a. Ý nghĩa của hoạt động tham quan ngoại khóa
Tham quan được coi như một hình thức tổ chức dạy học có giá trị tốt trong
công tác giáo dục, giáo dưỡng và giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Hình thức này có thể sử
dụng để truyền thụ kiến thức mới, ôn tập hoặc nghiên cứu áp dụng kiến thức vào sản
xuất và đời sống.
Tham quan giúp HS có cơ hội rèn luyện những thói quen rất cần thiết cho cuộc
sống sau này như: thói quen quan sát, phân tích hiện tượng, giải thích các hiện tượng
thực tế trên cơ sở lý thuyết đã học, nghĩa là thói quen áp dụng kiến thức vào thực tế.
GV có điều kiện dạy cho HS có thói quen rút ra kết luận từ những điều mình ghi chép
được.
Tham quan tạo điều kiện cho HS làm quen với máy móc của cơ sở sản xuất,
nắm được công dụng, hoạt động và phạm vi sử dụng các công cụ máy móc, thiết bị và
vật liệu trong sản xuất, hiểu được các quy trình công nghệ trong sản xuất công nghiệp.
Những mặt này có tác dụng to lớn trong công tác hướng nghiệp của trường phổ thông.
Trong quá trình tham quan HS được tiếp xúc trực tiếp với người lao động, tận
mắt thấy được quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Trên cơ sở đó, các em


thấy được giá trị của lao động, biết kính trọng người lao động và quý trọng sản phẩm
do lao động làm ra. Điều này có ý nghĩa to lớn về mặt giáo dục đạo đức HS.
Khi tham quan HS còn hiểu được quá trình tổ chức lao động của người lớn,
thấy được giá trị của những sáng kiến trong quá trình sản xuất, nghĩa là hiểu rõ giá trị
của kiến thức trong lao động: Người sản xuất không chỉ cần đôi tay khỏe mà phải có
cái đầu sáng tạo.
Tóm lại, tham quan đối với môn Công Nghệ là rất cần thiết và có giá trị về
nhiều mặt. Vì vậy, người GV phải biết sử dụng hợp lý hình thức này để nâng cao hiệu
quả công tác của mình.
b. Nội dung tham quan
Nguyên tắc cơ bản để lựa chọn nội dung và đối tượng tham quan là đảm bảo
mối liên hệ chặt chẽ giữa nội dung tham quan và nội dung chương trình học tập. Tùy

theo mục đích và nội dung, có thể lựa chọn các hình thức tham quan sau:
- Tham quan để tìm hiểu máy móc, thiết bị dùng trong sản xuất, công, nông
nghiệp, giao thông vận tải ( ví dụ tham quan tìm hiểu hoạt động của cơ cấu ô tô, máy
kéo...).
- Tham quan cơ sở sản xuất.
- Tham quan cơ quan khoa học kỹ thuật, viện nghiên cứu.
- Tham quan triển lãm, viện bảo tàng.
Hình thức tham quan thứ nhất thường dùng với mục đích tìm hiểu những chi
tiết, bộ phận máy phục vụ một bài hay một chương cụ thể. Loại tham quan này thường
diễn ra trong thời gian ngắn, tại các cơ sở quanh trường.
Tham quan cơ sở sản xuất thường là loại tham quan tổng hợp với nhiều mục
đích khác nhau. Hình thức này đòi hỏi nhiều thời gian và việc tổ chức cũng phức tạp,
địa bàn tham quan cũng khó khăn, nhất là những trường xa trung tâm công nghiệp.


Tham quan các cơ quan kỹ thuật, viện nghiên cứu cho phép HS tiếp xúc với kỹ
thuật tiên tiến đang trong quá trình thử nghiệm. Loại này chỉ thích hợp cho một số
trường thành phố gần các viện nghiên cứu.
Tham quan triển lãm viện bảo tàng: có tác dụng mở rộng tầm nhìn cho HS về
một nội dung nào đó và mang tính thời sự tốt, nhưng hình thức này phụ thuộc vào
nhiều điều kiện khách quan. HS nắm được lịch sử các phát minh, sáng chế, lịch sử ra
đời và phát triển của các loại máy móc, thiết bị kỹ thuật…. Đây là hình thức giáo dục
lịch sử kỹ thuật - công nghệ rất tốt đối với HS .
c. Phương pháp tổ chức tham quan
Việc chuẩn bị tham quan bắt đầu từ khi lập kế hoạch về thời gian, trong đó cần
chỉ rõ thời gian thực hiện và đề tài tham quan. Căn cứ vào tình hình thực tế của địa
phương trường đóng, vào chương trình môn học, GV lập kế hoạch tham quan một số
đối tượng cụ thể ngay từ đầu năm học. Khi gần đến ngày tham quan, GV cần xác định
chính xác đối tượng tham quan và lên kế hoạch về thời gian. Khi chuẩn bị đố tượng
tham quan, GV cần thảo luận với người hướng dẫn về mục đích, nội dung tham quan.

Trong đó có các vấn đề:
- Làm rõ mục đích, nội dung tham quan.
- Số lượng và trình độ người tham quan.
- Nhấn mạnh các vấn đề chính sẽ giải quyết trong thời gian tham quan.
- Thõa thuận về thời gian và vị trí tham quan.
- Chú ý mặt an toàn kỹ thuật trong khi tham quan.
Sau khi làm quen với đối tượng tham quan, GV lập kế hoạch chi tiết cho cuộc
tham quan. Kế hoạch này gồm các vấn đề như:
- Đề tài tham quan.
- Mục đích tham quan.


- Trình tự các vấn đề cần quan sát trong thời gian tham quan.
- Nội dung các vấn đề cần đàm thoại với HS trước khi tham quan.
- Nhiệm vụ đề ra với HS: Quan sát cái gì? Ghi chép những vấn đề gì?...
- Kế hoạch sử dụng những tài liệu thu được sau khi tham quan (hình thức báo
cáo, trả lời câu hỏi...)
- Hình thức tổng kết tham quan.
Trong quá trình tham quan cần chú ý ba vấn đề sau đây: Bám sát mục đích
tham quan, duy trì kỷ luật trật tự, duy trì sự hứng thú của HS.
Sau đợt tham quan phải tổ chức tổng kết. Thời gian tổng kết dài nhất chỉ nên là một
tiết học. Cấu trúc của phần tổng kết có thể như sau:
- Đàm thoại những vấn đề chung đối với cả lớp.
- GV trả lời các câu hỏi của HS.
- HS trình bày báo cáo theo các bài tập đã được giao.
- Tổng kết chung của GV.
1.2.4.3. Dạ hội kỹ thuật
Dạ hội là một hình thức ngoại khóa phổ biến, để tổ chức và lôi kéo được đông
đảo HS tham gia, tạo ra không khí sôi nổi trong toàn trường về học tập, nghiên cứu.
Dạ hội có thể tổ chức theo từng chuyên đề, khối lớp hoặc dạ hội tổng hợp toàn trường.

Dạ hội có thể tổ chức gồm hai phần: Phần nghi lễ và phần vui chơi, ngoài ra còn trình
bày báo tường, các vật phẩm do nhóm kỹ thuật chế tạo. Phần nghi lễ cần hết sức ngắn
gọn để HS đỡ chán nản. Toàn dạ hội cũng chỉ nên kéo dài hai giờ để không làm ảnh
hưởng tới học tập.
Các trò chơi trong dạ hội rất phong phú: Tuy vậy, nội dung các trò chơi phải
nhằm mục đích vừa chơi vừa học: ôn tập, vận dụng kiến thức. Ví dụ như trò chơi


“HÁI HOA DÂN CHỦ”: các câu hỏi, bài tập, câu đố vui được treo trên cây hoa đã
chuẩn bị sẵn. Người phụ trách trò chơi nên là GV để có thể đánh giá đúng câu trả lời
và giải thích thêm hoặc sửa chữa câu trả lời sai. Trò chơi nên có thưởng để khuyến
khích người chơi.
Các trò chơi khéo tay, khéo ước lượng cũng rất lý thú đối với HS. Ví dụ như
trò chơi “Người khéo tay nhất”: Trò chơi gồm một hộp gỗ 30 x 40 x 10mm, trên mặt
là tấm kim loại mỏng (nhôm, sắt tây, tôn). Cắt các hình khác nhau trên tấm kim loại
đó. Trong hộp đặt loa và biến thế loa, đầu ra ở hộp mắc với máy phát âm tần số đơn
giản. Nếu người chơi dùng que kim loại vẽ được đủ các hình trên mặt hộp mà loa
không kêu thì được danh hiệu người khéo tay nhất và được thưởng. Bí quyết của trò
chơi này là tay không được run để khi vẽ hình thì que kim loại không chạm vào tấm
kim loại.
Ngoài các trò chơi, trong dạ hội nên tổ chức các cuộc thi nhỏ: thi dũa mặt
phẳng, thi vẽ...Càng nhiều dạng trò chơi thì dạ hội càng phong phú, hấp dẫn và càng
thu hút HS.
Để đảm bảo dạ hội thành công, cần chú ý các đặc điểm sau đây:
- Chuẩn bị chu đáo, nội dung vầ kế hoạch cần được duyệt cụ thể, chi tiết, các
thí nghiệm, trò chơi cần bố trí sẵn và thử trước, phân công người phụ trách chung, phụ
trách từng bộ phận phải cụ thể.
- Nội dung phong phú, hình thức đẹp và hấp dẫn, các phòng chơi, phòng thi
phải trang hoàng sạch sẽ, đẹp, có kiểu cách sẽ hấp dẫn HS.
- Nội dung dạ hội phải liên hệ với chương trình chính khóa nhưng chủ yếu vẫn

là vui chơi, phương châm là vừa chơi vừa học, thông qua vui chơi mà học hỏi thêm.
- Có động viên khích lệ, có phần thưởng khi chơi, khi thi.
- Sử dụng nhóm kỹ thuật như là hạt nhân trong dạ hội.


Tóm lại, dạ hội là hình thức dễ tổ chức, tạo được không khí vui vẻ cho HS
trong học tập, nghiên cứu. GV cần nắm một số điểm về phương pháp tổ chức dạ hội
để có thể triển khai một cách sáng tạo và phù hợp với điều kiện nhà trường. Có thể kết
hợp với một số môn như vật lý, hóa học, văn học...để tổ chức các dạ hội tổng hợp.
1.2.4.4. Hội thi kỹ thuật
Hội thi là một trong những cách thức hoạt động hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, đạt
hiệu quả tốt trong vấn đề giáo dục, rèn luyện và định hướng giá trị cho người tham
gia. Hội thi là dịp để mỗi cá nhân hoặc tập thể thể hiện khả năng của mình, khẳng
định thành tích, kết quả của quá trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trong học tập và
trong các hoạt động tập thể. Qui mô của hội thi, đối tượng tham gia, cách thức tổ chức
hội thi như thế nào phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu, ý nghĩa, tính chất và nội dung
của hội thi. Quy mô của hội thi có thể tổ chức trong phạm vi một lớp, một khối hoặc
toàn trường. Có thể tổ chức vào các thời gian khác nhau của năm học. Đối tượng tham
gia hội thi là các cá nhân hoặc nhóm HS.
a. Quá trình tiến hành một hội thi
Bao gồm các bước
Bước 1: Nêu chủ trương tổ chức hội thi, gồm:
+ Quyết định chủ trương tổ chức hội thi.
+ Quyết định chủ đề của hội thi.
+ Lập bộ phận dự thảo kế hoạch tổ chức hội thi.
Bước 2: Dự thảo kế hoạch tổ chức hội thi, gồm:
+ Những căn cứ để tổ chức hội thi.
+ Mục tiêu.
+ Nội dung thi.



+ Đối tượng tham gia.
+ Ban chỉ đạo hội thi.
+ Ban tổ chức hội thi.
+ Ban giám khảo
+ Qui chế và thang điểm thi.
+ Chỉ tiêu khen thưởng.
+ Thời gian, địa điểm tổ chức và tổng kết hội thi.
+ Kinh phí cho hội thi (Nguồn thu và phân bổ chi phí chi cho các hoạt động
của hội thi).
Bước 3: Thông qua kế hoạch hội thi và triển khai thực hiện nội dung của kế
hoạch hội thi. Ban tổ chức và ban giám khảo họp triển khai và thực hiện các nhiệm vụ
của mình.
Bước 4: Tổ chức thi và công bố kết quả (Do ban tổ chức và ban giám khảo
thực hiện).
Bước 5: Tổng kết hội thi (Đánh giá toàn bộ các hoạt động của hội thi, rút kinh
nghiệm, đề ra phương hướng mới và công khai tài chính hội thi).
Đây là các bước để tổ chức một hội thi. Tuy nhiên, nếu hội thi có quy mô nhỏ,
các bước tiến hành có thể đơn giản hơn. Kết quả của hội thi phụ thuộc vào chất lượng
của việc thực hiện các bước tiến hành hội thi, để đạt hiệu quả trong tổ chức cần chú ý:
+ Xin ý kiến của ban giám hiệu nhà trường, các tổ chức trong trường để có
thể phối hợp thực hiện, họp tổ chuyên môn bàn về kế hoạch tổ chức hội thi.
+ Lập kế hoạch chi tiết cho hội thi, bao gồm nội dung các công việc, phân
công phụ trách, người thực hiện, thời gian, địa điểm cụ thể, nguồn kinh phí...


+ Công bố chủ đề, nội dung thi, hình thức thi, thời gian... cho đối tượng
tham gia.
b.Tổ chức hội thi
- Khai mạc (Không nhất thiết phải đọc diễn văn, có thể chỉ bằng hình thức ra

mắt của các đội dự thi, giới thiệu đại biểu...)
- Thi từng tiết mục theo sự điều khiển của người dẫn chương trình. Sau mỗi
phần thi ban giám khảo cho điểm công khai, ban thư kí cộng điểm cho từng đội.
- Giữa các phần thi có thể chuẩn bị một số tiết mục văn nghệ xen kẽ.
- Công bố kết quả, trao giải hoặc quà lưu niệm: Giá trị giải thưởng không cần
lớn mà chủ yếu là để động viên về mặt tinh thần. Nên có quà lưu niệm cho tất cả các
đội tham gia để động viên, khuyến khích họ.
c. Một số yêu cầu
* Trong việc thành lập ban tổ chức, ban giám khảo và thư kí hội thi:
- Đối với ban tổ chức nên chọn những người có năng lực, nên là những người
trong ban giám hiệu nhà trường vì có nhiều vấn đề liên quan đến khâu tổ chức và tìm
nguồn kinh phí cho hội thi. Nếu có thể nên mời những người đã có kinh nghiệm tổ
chức, mọi việc sẽ dễ dàng hơn.
- Đối với ban giám khảo nên mời những giáo viên giỏi chuyên môn, vô tư,
không thiên vị. Cần có sự thống nhất về đáp án và thang điểm những người trong ban
giám khảo.
- Ban thư kí cần chọn những người có khả năng tính toán đảm bảo nhanh,
chính xác.
* Trong việc tổ chức thi, người dẫn chương trình có một vai trò quan trọng,
cần đạt một số tiêu chuẩn sau:
- Kiến thức vững vàng.


- Thông minh, nhanh nhẹn trong ứng xử, đối đáp.
- Có khả năng diễn đạt vấn đề trước công chúng. Nếu có giọng trầm, ấm
truyền cảm thì càng tốt.
- Có thái độ vô tư, khách quan khi bình luận, đánh giá.
* Yêu cầu đối với người dẫn chương trình:
- Cần nghiên cứu kĩ đối tượng dự thi, nội dung thi, chuẩn bị sẵn kịch bản và
nhuần nhuyễn truớc khi thi.

- Cần tuân thủ chương trình đã định, chọn lời dẫn đa dạng, không lặp lại quá
nhiều, tăng giảm âm lượng giọng nói khi cần thiết.
- Khi đọc câu hỏi cho thí sinh cần rõ ràng, mạch lạc. Biết động viên, khích lệ
HS, tạo cho họ niềm tin, sự bình tĩnh khi trả lời.
- Thuyết minh ngắn gọn, không dài quá và đi lại quá nhiều trên sân khấu.
- Trước tình huống bất ngờ, cần bình tĩnh, chủ động xử lí. Trong trường hợp
ngoài giới hạn cho phép cần xin ý kiến của ban tổ chức hội thi hay ban giám khảo, cố
vấn.
* Trong việc chuẩn bị hội trường, âm thanh, ánh sáng, các phương tiện kĩ
thuật cần sử dụng... việc chuẩn bị phải chu đáo, bố trí hợp lí, dùng các phương tiện
vào các thời điểm thích hợp và kiểm tra kĩ sự hoạt động trước khi hội thi bắt đầu. Bài
trí không cần quá cầu kỳ nhưng phải sáng tạo, bám sát và làm rõ chủ đề.
* Trong việc tổ chức: cần chú ý giữ trật tự trong hội trường tránh xảy ra lộn
xộn ảnh hưởng đến chất lượng hội thi.
* Về nội dung các câu hỏi trong hội thi:
- Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu, tránh gây hiểu lầm ở HS.


- Câu hỏi hay vấn đề nêu ra phải phù hợp với năng lực và trình độ nhận thức
của HS, đảm bảo kích thích tư duy của HS. Câu hỏi phải có ý sáng tạo và dung lượng
kiến thức vừa phải.
- Thời gian để trả lời câu hỏi phải hợp lí, tránh quá ngắn hoặc quá dài.
- Có thể dùng câu hỏi tự luận hoặc câu hỏi trắc nghiệm.
- Câu hỏi phải có đáp án rõ ràng, chính xác, thang điểm cụ thể, khi công bố
đáp án đảm bảo HS có thể hiểu và chấp nhận.
d. Một số hình thức của hội thi
- Thi trả lời nhanh: Sau khi nêu câu hỏi, đội nào có tín hiệu trước sẽ được trả
lời. Thời gian để suy nghĩ cho một câu hỏi là cố định, ví dụ: 15 giây. Sau 15 giây từ
khi nêu câu hỏi mà không có đội nào có tín hiệu trả lời hoặc trả lời sai thì có thể mời
khán giả trả lời hoặc đọc đáp án. Nếu đội có tín hiệu trả lời sai thì sau 5 giây đội khác

có quyền trả lời. Vì là thi trả lời nhanh nên câu hỏi nên gắn gọn không quá khó, quá
dài. Thi trả lời nhanh có thể dùng các câu hỏi tự luận hoặc các câu hỏi trắc nghiệm lựa
chọn, các đội chọn ý đúng nhất và giải thích.
- Thi giải ô chữ: Tạo một ô chữ gồm nhiều hàng ngang và một cột dọc. Cột
dọc được sắp xếp sao cho nó do các chữ ở các hàng ngang nối lại tạo thành. Từ việc
trả lời các câu hỏi tìm ra các từ hàng ngang, từ đó dự đoán từ ở cột dọc. Nên chọn từ ở
cột dọc mang một ý nghĩa nào đó.
- Ra câu hỏi: Các đội ra câu hỏi vòng tròn hoặc đặt ra câu hỏi cho khán giả.
Các câu hỏi này phải được ban giám khảo thẩm định trước và đảm bảo tính bí mật. Để
thu hút sự nhiệt tình của khán giả nên có phần thi dành cho lực lượng này và có phần
thưởng cho người trả lời đúng.
1.2.4.5. Làm báo tường


Đối với các trường THPT, có thể tổ chức viết báo tường do các lớp thực hiện
hoặc ra một tờ báo nội bộ theo tháng hoặc định kỳ nào đó. Nội dung báo nội bộ cũng
như việc biên tập, in ấn, phát hành do hội đồng bộ môn đảm nhiệm.
Nội dung của báo nội bộ hoặc báo tường:
- Các bài viết về các chuyên đề về môn Công nghệ.
- Hướng dẫn cách học Công Nghệ.
- Giải đáp các câu hỏi của HS.
- Giới thiệu tiểu sử các nhà khoa học, các nhà phát minh.
- Giới thiệu các thành tựu, các phát minh được ứng dụng trong khoa học kĩ
thuật, sản xuất và đời sống.
- Giới thiệu các loại máy móc, nguyên tắc hoạt động.
- Hướng dẫn cách làm các mô hình, mẫu vật, xây dựng các trò chơi.
Trong quá trình biên soạn cần phân công công việc cho từng người cụ thể về
nội dung, đánh máy, in ấn và phát hành. Có thể giao cho mỗi lớp thực hiện một bài
viết cụ thể và khuyến khích HS viết bài cho báo. Nếu làm được điều này sẽ có tác
dụng HS đọc nhiều sách báo về công nghệ, kỹ thuật, phát huy óc sáng tạo thúc đẩy

phong trào học tập. Về vấn đề kinh phí, một phần có thể là kinh phí trong hoạt động
chuyên môn của nhà trường để in ấn, phát hành, phần còn lại do HS đóng góp mua
báo. Cần làm cho tiền báo thấp nhất có thể thu hút nhiều HS tham gia. Trong điều
kiện của các trường phổ thông hiện nay, việc ra một tờ báo hàng tháng chung cho các
môn và dành ra phần riêng biệt cho từng môn có thể phù hợp hơn nếu điều kiện kinh
phí hạn chế.
Trên đây là các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khoá Công nghệ phổ biến
ở trườg PT. Mỗi hình thức tổ chức có ưu điểm riêng: Nếu như hội thi là điều kiện phát
huy tính độc lập tư duy giải quyết vấn đề của HS thì dạ hội kỹ thuật, tham quan ngoại


khoá là điều kiện thuận lợi để bổ sung, mở rộng kiến thức. Việc thành lập các nhóm
kỹ thuật giúp HS có năng lực phát triển hứng thú, tư duy. Báo tường có thể tạo ra một
phong trào học tập. Và nếu chỉ giữ nguyên một hình thức tổ chức sẽ gây nhàm chán,
do đó trong điều kiện có thể, cần kết hợp các hình thức tổ chức ngoại khoá. Mặt khác,
trong nhà trường phổ thông, HS được học nhiều môn khác nhau, vì vậy tuỳ điều kiện
có thể tổ chức ngoại khoá môn Công Nghệ cùng với các bộ môn khác, tuy vậy cần
chú ý tỉ lệ cân đối giữa các môn. Việc tổ chức ngoại khoá cho nhiều môn đòi hỏi phải
có sự chuẩn bị kĩ lưỡng ở tất cả các khâu và sự phối hợp thống nhất của các tổ bộ môn
trong trường.
1.3. Thực trạng và giải pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa môn Công nghệ
1.3.1. Thực trạng tổ chức hoạt động ngoại khóa Công Nghệ 11 ở trường THPT
Trong nhà trường THPT, cùng với các hoạt động dạy học và giáo dục, ngoại
khoá là một hoạt động nằm trong kế hoạch năm học của nhà trường. Thực tế việc tổ
chức ngoại khoá nói chung và ngoại khoá môn Công Nghệ nói riêng rất hãn hữu.Tại
nhiều trường THPT, hoạt động ngoại khoá Công Nghệ đã nhiều năm không được tổ
chức, số trường tổ chức được hoạt động ngoại khoá còn ít và việc tổ chức phần nhiều
là chung cho tất cả các môn học.
1.3.1.1. Về giáo viên
Đội ngũ GV Công nghệ THPT còn thiếu và phần lớn GV kiêm nghiệm không

được đào tạo về chuyên môn nên tâm lí người dạy không ổn định, chất lượng không
đồng đều, hiệu quả bài dạy còn hạn chế. GV hiện nay có thói quen sử dụng các
phương pháp dạy học cổ truyền thầy giảng, trò nghe, ghi, tái hiện là chính nên các bài
dạy công nghệ thường nặng lý thuyết mà ít thực hành. Mặt khác phần lớn GV chưa
được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nên rất khó nâng cao chất lượng dạy
học.


GV thường là những người luôn chú trọng công tác chuyên môn. Vì thế, kinh
nghiệm tổ chức hoạt động ngoại khóa còn hạn chế. Nội dung và hình thức các buổi
hoạt động ngoại khóa cứ lặp đi lặp lại, nên HS nhàm chán, ít tham gia, hiệu quả các
buổi hoạt động ngoại khóa chưa cao.
1.3.1.2. Về học sinh
Trên thực tế, chất lượng dạy học môn Công nghệ lớp 11 PT nói riêng và môn
Công nghệ nói chung chưa đạt được hiệu quả cao, chưa đáp ứng được mục tiêu của
môn học đề ra cũng như yêu cầu của xă hội. Sở dĩ như vậy là vì sau khi học xong
chương trình Công nghệ 11 hầu như HS chưa nhận biết được các loại động cơ trong
thực tế, chưa hiểu rõ về nguyên lý hoạt động của chúng. HS chưa định hướng được
mục đích mình học môn học này để làm gì, áp dụng vào thực tế ra sao. Chính vì vậy
mà các em còn xem nhẹ môn học này, chưa quan tâm học hỏi nhiều về nó. Mặt khác
môn học này ở phổ thông chưa được đánh giá đúng đắn, xem đây là một môn học
phụ, HS học tập theo kiểu đối phó. Hơn thế nữa nhiều trường còn tuỳ tiện cắt giảm số
tiết; nội dung môn học đa dạng phức tạp nhưng HS hầu như chỉ được học với phương
pháp thụ động, nên các em chưa tích cực chủ động trong việc tìm hiểu bài, phát biểu
xây dựng bài. Do vậy, khi học bài HS rất khó nhớ và mau quên.
1.3.1.3.Về trang thiết bị
Công nghệ là một môn học gắn với thực tiễn sản xuất và đời sống, tỷ lệ thực
hành khá cao nên đòi hỏi phải có đầy đủ trang thiết bị cần thiết: mô hình, vật thật, nhà
xưởng, . . .. Nhưng trên thực tế hiện nay, do chưa được trang bị đầy đủ phương tiện
dạy học nên phần lớn GV phải dạy chay hoặc cắt bỏ những nội dung cần tới phương

tiện dạy học kỹ thuật. Ngoài ra, do không có ý thức hoặc không có thói quen sử dụng
các phương tiện dạy học kỹ thuật hỗ trợ nên nhiều trường tuy có thiết bị kỹ thuật
nhưng không phát huy hết tác dụng trong quá trình dạy học.


×