Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

DAM PHAN VOI NGUOI DO THAI VE NHUONG QUYEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.74 KB, 18 trang )

I/ Tổng quan về người Do Thái
I.1 Lịch sử của người Do Thái và nhà nước Isreal
Có thể nói trong tất cả các dân tộc trên thế giới, người Do Thái là một trong những
thứ dân có lịch sử đáng kinh ngạc và thán phục nhất.
Người Do Thái được Abraham lãnh đạo rời bỏ thành Ur ở Mesopotamia để sống
phiêu bạc ở miền Canaan (Palestine, Jordan, Israel ngày nay). Được khoảng trăm
năm thì Joseph dẫn họ vào Ai Cập định cư. Người Do Thái định cư ở Ai Cập
không được lâu thì bị bắt làm nô lệ cho Ai Cập. Vài trăm năm sau, Moses lại dẫn
dân tộc mình chạy khỏi Ai Cập trở lại miền Canaan và bắt đầu chinh phục miền
này để xây lên một vương quốc. Vương quốc Do Thái cực thịnh dưới hai triều
David và Solomon thì bị chi cắt làm hai quốc gia Israel ở phía Bắc và Judah ở phía
Nam. Israel bị Assyria xâm chiếm và dân Do Thái ở phía Bắc bị bắt làm nô lệ cho
người Assyria. Assyria tồn tại không được lâu thì bị Babylon tiêu diệt. Babylon
chiếm luôn Judah, lại bắt người Do Thái ở phía Nam làm nô lệ và đày 1 phần dân
số qua thành Babylon. Khi Babylon rơi vào tay Cyrus đại đế của Ba Tư thì hoàng
đế này mới trả người Do Thái trở lại miền Canaan. Người Do Thái dành được độc
lập một thời gian sau cuộc khởi nghĩa Maccabe lập ra vương quốc Hasmonean thì
bị La Mã xâm lăng và biến thành 1 tỉnh của La Mã. Khoảng cuối thế kỉ thứ nhất
sau Công Nguyên thì người Do Thái lại nổi dậy chống La Mã. Cuộc khởi nghĩa
thất bại và một phần lớn người Do Thái bị phân tán đi khắp các miền của Đế quốc.
Từ đó dân tộc Do Thái bị phân tán, lang thang khắp châu Âu, Địa Trung Hải và
Trung Đông. Miền Canaan lần lượt rơi vào tay Byzantine, Ả Rập, Mameluke, rồi
lại Ả Rập, rồi Thổ Nhĩ Kỳ, cuối cùng là Anh. Trong khoảng thời gian đó, hầu như
người Do Thái ở đâu cũng bị khinh bỉ và đàn áp, từ Tây Âu Công giáo và Đông Âu
Chính Thống giáo cho đến Trung Đông Hồi giáo và ngay chính quê nhà ở Canaan.
Mỗi khi Jerusalem đổi chủ là mỗi lần người Do Thái ở thành này chịu cảnh đổ
máu.
Cho đến cuối thế kỉ 19, người Do Thái ở châu Âu và châu Mỹ mới bắt đầu 1 phong
trào gọi là Zion- họ kéo nhau về miền Palestine (tức Canaan) để định cư.
Thảm họa lớn nhất của dân tộc Do Thái đến vào cuối thập niên 30 đầu thập niên 40
của thế kỷ 20, khi 6 triệu người Do Thái trên khắp châu Âu bị đưa vào các trại tập


trung của Phát xít Đức để bị giết hại. Sự kiện này đã khiến hàng ngàn người Do
Thái bỏ chạy khỏi châu Âu và di tản đến định cư ở Palestine.
Dĩ nhiên sự xuất hiện của họ ở Palestine chẳng được người Ả Rập đang định cư ở
đó chào đón. Hàng loạt xung đột nổ ra giữa hai sắc dân trên miền Palestine.


Với sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc lúc này mới được thành lập trên sự đồng ý
của ba cường quốc Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô, quốc gia Israel, sau gần 2000 năm kể
từ khi vương quốc Hasmonia bị La Mã tiêu diệt, lại được tái lập.
Sau 50 năm, bất chấp việc bị các láng giềng hùng mạnh hơn và thù địch liên tục uy
hiếp, Israel vẫn vươn lên là 1 cường quốc kinh tế và quân sự số một trong vùng.
Nếu xét ra, ta thấy người Do Thái có thể nói là dân tộc chịu nhiều cay đắng nhất
trong số các dân tộc còn tồn tại đến giờ này. Năm lần bảy lượt bị nô lệ hóa, quốc
gia bị tiêu diệt, dân cư bị đuổi khỏi nhà và lang thang khắp thế giới, vậy mà vẫn
giữ được tinh thần dân tộc, vẫn giữ được tôn giáo của mình cho đến tận ngày nay.
Thật sự là một dân tộc đáng được nể trọng bởi trên thế giới không có dân tộc thứ
hai như vậy.
Mặc dù người Do Thái có mặt ở nhiều nơi trên thế giới với sự phân bố như sau:
12-14 triệu người trên toàn thế giới
+ Isreal: 5.4 triệu ( 40.9 %)
+ Hoa Kì: 5.3 triệu (40,2%)
+ Nơi khác: còn lại.
Nhưng xuất phát từ lịch sử anh hùng của người Do thái gắn liền với đất nước
ISreal . Vì vậy, nhóm chọn Isreal là quốc gia nền tảng để phân tích về người Do
Thái và kinh doanh đàm phán với người Do Thái.

I.2 Nhà nước Isreal
Tên nước

Nhà nước Isreal (State of Isreal)


Thủ đô

Vẫn tranh cãi, Israel tuyên bố Jerusalem là thủ đô từ năm
1950 (nhưng không được thế giới công nhận); các nước
vẫn đặt Đại sứ quán tại Tel-Aviv.

Quốc khánh

14/5 (1948). Hàng năm ngày này thay đổi theo dương
lịch vì Israel sử dụng lịch riêng của mình.

Diện tích

20.770km2, kể cả Đông Jerusalem.

Dân số

7.645.600 (con số ước lượng đến 2010)

Dân tộc

77,2% là người Do Thái, 18,5% người Arập và 4,3%
"những nhóm người khác"


Vị trí địa lí

Israel nằm ở phía Đông Địa Trung hải, phía Bắc giáp
Lebanon, Đông Bắc giáp Syria, Đông giáp Jordan, Nam

và Tây-Nam giáp biển Đỏ và Ai Cập, Tây giáp Địa Trung
Hải.

Ngôn ngữ

Tiếng Do thái (Hebrew), tiếng Arập và tiếng Anh được
sử dụng rộng rãi.

Tôn giáo

Do thái giáo chiếm 80%, Hồi giáo: 14,6%, Cơ đốc giáo:
2,1%.

Đơn vị tiền tệ

Shekel

Múi giờ

GMT +1

Thể chế

Cộng hòa. Quyền hành pháp nằm trong tay thủ tướng

Thủ tướng

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu

I.3 Văn hóa của người Do thái

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc Do thái ta cần tìm hiểu các nguyên
tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới
ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn
được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống
phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm
qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt
hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành
công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên
hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta hãy điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew
Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần
đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các
nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do
Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc
cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.


Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất
của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ
thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải,
tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong
đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng
việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ
chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề.
Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ,
thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu
cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm
độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở
hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là

nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và
chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển
Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính
Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên
một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có
thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã
hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú
trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết
tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên
thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô
thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản,
tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12).
Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do
Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000
năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham,


khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah
yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự
giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi
Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có
hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất
tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành
lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất
của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt
nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao

tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và
dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều
biện pháp làm giàu rất khôn ngoan.
Ví dụ: cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ
đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi
trong tay không có tài sản cố định nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng:
thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là
cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn
(còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).
Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai.
Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc
đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được
phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản
người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải
dùng nó để giúp kẻ khác... Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của
mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là
phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân
ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do
Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.


Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì
người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người
nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do
Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng
4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do
Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng
đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.
Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm
giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu

nghèo khổ
Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản. Kinh
Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and
yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh
là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là
ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil).
Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm
phạm tài sản của người khác.
Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do
Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của
cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ
quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Đây là một quan niệm có giá trị thực tế.
Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn:
- Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;
- Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;
- Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;
- Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;
- Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;


- Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;
- Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…
So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của
người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn
bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do
Thái
Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể
thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân
loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do
Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ

quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết
các hoạt động của loài người.
I.4 Con người Do Thái
Tính cách người Do Thái
Người Do Thái là "tuyển dân" (peuple élu) của Đức Chúa Trời và tôn sùng đạo
Do Thái vì vậy mà họ có những tánh chất đặc biệt không giống như các dân tộc
khác.Họ có những tánh tín ngưỡng, tự phụ, đoàn kết, và nhẫn nại.
Thật không có dân tộc nào trong thế gian nầy có cái đức tin cho mạnh bằng
người Do Thái. Hiện bây giờ người họ ở khắp các nước, mà ở nước nào thì nhập
tịch nước ấy song chẳng hề chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ấy chút nào. Bao
nhiêu những sự thuộc về tôn giáo, chánh trị, pháp luật, vệ sanh, cả đến những của
gì đáng ăn, của gì không đáng ăn nữa, họ cũng đều tuân theo lời trong sách Cựu
ước mà Đức Chúa Trời đã phán truyền cho họ.
Vì trong Cựu ước có nói tiên tri rằng dầu Đức Chúa Trời phạt dân Do Thái mà
ghét bỏ họ trong một thời lâu, song về sau ngài sẽ đoái thương đến họ, dắt đem trở
về đất cũ, hầu để lập quốc lại và trở nên vẻ vang hơn các dân tộc khác; cho nên
người Do Thái tin đó mà sanh ra lòng tự phụ kiêu căng. Họ nhận Đức Chúa Trời là
chúa riêng của mình, còn mình là con riêng Đức Chúa Trời. Sách Tư tưởng chiến
thắng và người Do Thái của ông bác sĩ Penthatull, người Do Thái, xuất bản năm
1923 tại nước Autriche, thì đủ biết cái lòng tự phụ của họ là thế nào :


"Người Do Thái chúng tôi không có thành kiến chút nào; đối với mọi sự vật trên
đất, chúng tôi xem xét rất rõ ràng; chúng tôi thường dám có cái tinh thần mà người
khác không dám có.
"Bởi có cái tinh thần ấy, cho nên, dầu ở trong các nước Âu Mỹ, không tấn tới được
mấy chút, song giá ở trong một hòn cù lao nào thì chẳng qua trong 50 năm, chúng
tôi sẽ làm chủ nhơn trong cù lao ấy. Trong thế giới không cứ việc gì cũng phải cần
đến chúng tôi(**), vì mọi nơi dưới biển trên bờ đều có dấu chơn con nhà Do Thái.
Con nhà Do Thái chúng tôi đã lanh lẹ lại siêng năng, cái chỗ mục đích kia một

ngày chưa đạt đến thì chúng tôi còn chưa biết mỏi mệt..."
Nói về cái tánh đoàn kết của họ thì thật không có dân tộc nào bì được. Những
dân tộc có lãnh thổ, có chánh phủ đã thành ra quốc gia rồi mà biết đoàn kết với
nhau thì có lạ gì. Cái nầy người Do Thái bị tan lạc, bị xua đuổi, ở không yên ổn,
rày đó mai đây, mà giữa họ nghiễm nhiên có một cái đoàn thể bền chặt và thiêng
liêng, như vậy mới là đáng quý.
Xem cả lịch sử người Do Thái từ hồi mất nước đến giờ, bị giết hại bị xua đuổi
không biết mấy nơi, không biết mấy lần, mà chẳng hề nao núng, tấn thủ lại càng
hăng như vậy thì biết cái tánh nhẫn nại của họ là dường nào. Cái tánh ấy, mà cả
đến cái tánh khác của họ nữa cũng đều bởi nơi tôn giáo của họ mà ra.
Thế lực người Do Thái trong thế giới
Người DoThái ở khắp các nước trên thế gian, bởi vậy, nếu họ không có thế
lực gì thì thôi, bằng đã có, thì cái thế lực ấy thật là bao la cả trên mặt đất.
Một điều lạ nữa, là trong sách Cựu ước có nói tiên tri rằng người Do Thái về
sau sẽ bị tan lạc, song được giàu có, thì quả như vậy, dân Do Thái bây giờ giàu hơn
hết cả các dân khác. Cái thế lực của họ là ở đó.
Nhiều triệu phú trên thế giới xuất thân là người Do Thái, họ không chỉ có tiền
mà con có tài.Nhân tài ở mặt nào cũng có : về kinh tế, về chánh trị, về văn học, về
kỹ nghệ, bất kỳ phương diện nào, trong dân Do Thái cũng đều có người nổi tiếng
về phương diện ấy.
Cái thế lực Do Thái ở nước Mỹ mới đáng kể : Mỹ có tiếng là một nước rất
giàu, song cũng có thể nói rằng cái giàu ấy có đóng góp lớn của người Do Thái.
Hồi cuối thế kỷ thứ 17, chánh phủ New York có một lần ra lệnh đuổi người Do
Thái ở đó đi, rồi có những người Do Thái giàu, có nhiều phần hùn trong các công
ty thực dân, rập nhau nổi lên phản đối, làm cho chính phủ phải tiêu hủy cái lệnh ấy.
Hồi đó mà họ đã có thế lực như vậy rồi, huống chi là bây giờ; ở nước Mỹ mà còn
như vậy, huống chi là các nước khác.


Một người Tàu làm sách có nói rằng: "Nước Trung Hoa mỗi một năm mất cho

ngoại quốc phỏng độ 12 triệu đồng bạc (nghĩa là tiền trả lời các món công trái),
trong một số tiền lớn ấy, các nước khác chỉ hưởng được phần ít, còn người Do
Thái thì hưởng được phần nhiều."
Trí thông minh tuyệt đỉnh : Dường như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có
di truyền không, người ta đều nêu lên dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái.
Và cũng như một thông lệ, hàng năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người
Do Thái chiếm bao nhiêu phần trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không
hề nhỏ.
Ví dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có một bài báo nhan đề
“Bà mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy Nobel gia là người Do Thái”. Đó
là: Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và
Adam G. Ross - giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman - giải Nobel về Hoá học.
Người Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ. Họ thường là những nhà
khoa học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư
tưởng uyên bác, những chính trị gia tài giỏi…
Từ năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất
và danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân
loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân
văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn.
Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở các
nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành lập
cách nay không lâu của họ là Israel.
Tính đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II
không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả các
giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng máu Do
Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí tuệ hàng
đầu của nhân loại.
Trong các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các
giải Nobel trong các lĩnh vực như sau:



Hoá
học:
32
người,
Kinh
tế:
28
người,
Văn
chương:
13
người,
Vật
lý:
49
người,
- Hoà bình: 9 người, chiếm tỷ lệ 8%.

chiếm
chiếm
chiếm
chiếm

tỷ
tỷ
tỷ
tỷ

lệ

lệ
lệ
lệ

21%
42%
12%
27%

Cần lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước)
nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là gần 8
tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của người Do Thái
so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là so sánh cho vui
thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao nhiêu điều kiện
khác nữa. Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần đây đổ dồn về
Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ” thì người Mỹ
gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng.
Xin nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do
Thái, Nobel Vật lý - 37%, Nobel Y học & Sinh lý học - 42%, Nobel Kinh tế - 55%,
Nobel Văn chương - 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của
cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ.
Trí tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa
học có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các
ông. Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa
học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải Fields
thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành tựu suốt
đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.
Các Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải.
Chẳng hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải
Nobel Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải là người

Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế 2007 năm ông đã 90.
Nobel gia sống thọ nhất là bà Rita Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936
hiện đã vượt qua tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận
giải là Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình


chọn là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX - Albert Einstein – cũng là người
Mỹ gốc Do Thái.
Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế: Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là
Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai
biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt
được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kì khó khăn.
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu
cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý
thuyết hay thực tiễn. Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do
Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là
quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại: Karl Marx, Alan Greenspan,
Paul Wolfowitz, 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007,…
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế
nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người: Jacob Schiff (chủ nhà
băng ở Đức), Sheldon Adelson (người giàu thứ 3 nước Mỹ), Michael Bloomberg,

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới
là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một
nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng
của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình
quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài
chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do
Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và
viện trợ Israel.

Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn
nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển,
dân rất giàu, GDP đầu người năm 2011 khoảng 31.500 USD (nguồn web
CIA.gov). Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được
trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người Ả Rập xung quanh...


II/ Tiến trình đàm phán
II.1/ Tiền đàm phán
Người Do Thái thường tìm hiểu rất kĩ lưỡng về đối tác mà họ có ý định hợp
tác. Tìm hiểu rõ về luật liên quan đến những vấn đề mà họ sẽ thảo luận trong
đàm phán. Xem xét những hành động của công ty bạn để dự tính rủi ro có thể
có và dự tính những phương án có lợi cho họ. Họ sẵn sàng mời công ty luật ở
nước bạn để cố vấn trong quá trình đàm phán và có thể lách kẽ hở luật bằng trí
thông minh của họ nếu họ muốn hợp tác kinh doanh trên đất nước bạn. Vì vậy,
để đàm phán kinh doanh với người Do Thái bạn cần chuẩn bị cho mình một
khối kiến thức vững vàng, ít nhất là về những gì bạn đưa vào bàn đàm phán, và
luật liên quan. Phải lường trước rủi ro và biết tính xa phương án phòng tránh rủi
ro. Đồng thời tìm hiểu kĩ về đạo Do Thái để tạo mối quan hệ tốt đẹp với họ,
điều này cũng quyết định một phần thành công của bạn.
Người Do Thái thích đàm phán với những người có trí tuệ, thông minh, tài giỏi,
… vì vậy việc lựa chọn người đàm phán cũng rất quan trọng, thể hiện được bạn
là người thông minh, giỏi dang,... như vậy bạn sẽ tự tin khi bước vào đàm phán
với người Do Thái, và họ sẽ có cái nhìn tốt về bạn.
Việc lựa chọn thời gian và địa điểm đàm phán cũng rất quan trọng. Đối với
người Do Thái thứ 6 cuối tuần không được chạm vào bất cứ đồ điện tử nào và
thứ 7 (ngày sabát) là ngày nghỉ của họ.
II.2/ Trong đàm phán
Một trong những bậc thầy của nghệ thuật đàm phán là người Do Thái, Trong
hầu hết các cuộc đàm phán, người Do Thái luôn ở thể làm chủ cuộc chơi. Khi

bước vào bàn đàm phán với người Do Thái cần chú ý những vấn đề sau:
- Người Do Thái thường không thích nói nhiều chuyện ngoài lề khi vào đàm
phán, họ thích đi thẳng vào vấn đề đàm phán . Không phải là họ không đề
cao tầm quan trọng của việc tạo mối quan hệ và tìm hiểu đối tác mà đơn
giản là vì họ thích gây dựng niềm tin và tạo mỗi quan hệ hữu hảo ngay lúc
bàn chuyện kinh doanh. Và vì họ rất coi trọng thời gian- “thời gian quý hơn
vàng bạc”.
- Nghệ thuật thương thuyết người Do Thái: “nhường đối thủ chui vào bẫy”
Tiến hành kế hoạch, lúc mới bắt đầu đàm phán, Doanh nhân Do Thái sẽ cố
tạo ra một không khí thoải mái để hai bên tìm được tiếng nói chung


Khi đối tác đưa vấn đề (rủi ro mà người Do Thái đã dự tính được trước) và
đưa ra phương án để thực hiện, đã đến lúc cài bẫy cho đối tác tự chui vào.
Người Do Thái sẽ cương quyết phản đối, nhất quyết không chịu nhượng bộ,
cố tình kéo dài cuộc tranh cãi lên đến cao trào, kịch liệt nhất có thể. Rồi họ
giả vờ nhượng bộ, đưa ra phương án 50/50 có lợi/có hại cho hai bên, tất
nhiên họ biết rằng đối tác sẽ không đồng ý với phương án này. Đến lúc
tưởng như cuộc đàm phán không thể thương lượng thêm thì họ mới miễn
cưỡng đồng ý, tạo cho đối tác cảm giác tự mãn vì vừa ép được đối phương.
Lúc này người DO Thái mới đưa ra phương án để đối phương “sập bẫy”, lúc
này đối phương sẽ dễ dàng chấp nhận bởi họ đang hài lòng với việc ép được
người Do Thái chấp nhận điều kiện mà họ đưa ra ở trên và một phần là do
không thể lường trước được hậu quả từ điều kiện sau này mà người Do thái
đưa ra( thường là những điều kiện khiến đối tác khó lường, thể hiện sự am
hiểu luật pháp và trí tuệ của họ)lúc này đối tác đã sập bẫy. Vì vậy, khi
đàm phán với người Do thái, hãy cẩn trọng với những điều kiện họ đưa ra.
- Người Do Thái rất ghét sự áp đặt uy quyền. Bởi trí tuệ luôn được đặt lên
hàng đầu, thứ bậc chức vị không được họ đề cao. Vì vậy trong đàm phán hãy
thể hiện bạn là người có trí tuệ, đừng thể hiện quyền uy của bạn, nó chỉ gây

ấn tượng xấu trong mắt người Do Thái mà thôi. Tránh ngắt lời người khác,
nhất là việc sử dụng quyền uy đối với cấp dưới của mình.
- Giữ lập trường khác người: Trong đàm phán, người Do Thái luôn giữ vững
lập trường của mình, đưa ra quan điểm để thuyết phục đối phương về lập
trường ấy. Một khi họ thay đổi ý kiến của họ thì bạn nên cẩn thận bởi họ có
thể sẽ có mục đích khác. Và bạn cũng phải có lập trường riêng cho phía bạn.
Tất nhiên lập trường của bạn phải dựa trên sự hiểu biết trước khi bước vào
đàm phán.
- Người Do Thái thường nói ít, nghe nhiều hơn nói. Lời nói luôn hướng đến
một cuộc đàm phán hòa nhã, điềm tĩnh tạo không khí đàm phán thân thiện.
Vì vậy khi đàm phán với họ, phải trau chuốt lời ăn tiếng nói của mình, tránh
động chạm đến những vấn đề liên quan đến “đạo Do thái”. Trình bày vấn đề
của mình một cách rõ ràng, lưu loát, tránh những vấn đề mập mờ để người
Do Thái có cơ hội phát hiện ra vấn đề của công ty bạn.
II.3/ Hậu đàm phán


Đến giai đoạn này, các bên cùng tiến tới hợp đồng và thực thi. Bạn cần phải có
những sự tuân thủ đúng nguyên tắc, chính xác những gì đã thỏa thuận. Người Do
Thái rất giữ chữ tín, tuân thủ những thỏa thuận trước đó nên đối tác( bạn) có thể
hoàn toàn yên tâm kí kết và thực hiện hợp đồng.
Nếu có bất cứ tranh chấp nào xảy ra thì Người Do Thái đều dựa vào hợp đồng đã
kí kết để thực hiện.
Dù cuộc đàm phán có căng thẳng đến mức nào,… thì đừng bao giờ để người Do
Thái thấy bạn hút thuốc, bởi người Do Thái rất ghét thuốc lá. Chúng ta cần tạo
một cái nhìn thiện cảm với họ vì những thương vụ sau này.

III/ Những lưu ý trong kinh doanh với người Do Thái
III.1/ Tiết kiệm thời gian và đi thẳng vào vấn đề
Một quy tắc quan trọng của người Do Thái là quý trọng thời gian hơn tiền bạc. Với

họ thời gian là sinh mệnh, một đi không bao giờ trở lại. Họ không lãng phí thời
gian mà sống như ngày nào cũng là ngày cuối cùng trong đời. Họ cũng nêu cao
quan điểm không được đánh cắp thời gian của người khác, đồng thời biết làm chủ
thời gian của mình, quản lí tốt thời gian sẽ nắm được sinh mệnh. Giá trị thời gian
được thể hiện rõ trong kinh doanh : Nắm chắc thông tin, ra tay trước đó là một biểu
hiện của tiết kiệm và nắm bắt thời gian. Vì vậy khi kinh doanh với người Do Thái,
đừng vòng vo, hãy đi thẳng vào vấn đề, nắm bắt vấn đề và ra quyết định.
III.2/ Tránh thể hiện uy quyền
Người Do Thái căm ghét quyền uy, bản thân không uy quyền. Quan điểm của họ là
Không mù quáng phục tùng quyền uy, khuyến khích người khác hãy theo đuổi độc
lập cá nhân, nói lên quan điểm của mình và tôn trọng trí tuệ con người hơn là
quyền uy. Họ căm ghét quyền uy nhưng không phản đối lãnh đạo có trợ thủ. Trừ
Chúa, không ai có quyền uy tuyệt đối. Luật pháp vẫn có thể bị "nghịch đảo".
Biện pháp tốt nhất để đánh đổ quyền uy của luật pháp – dùng "tiểu xảo lách luật".
Vì vậy đừng thể hiện quyền uy của bạn đối với người khác trước mắt họ.
III.3/ Tôn trọng trí tuệ và chuẩn bị sẵn sàng kiến thức trước khi hợp tác
Người Do Thái chỉ thích hợp tác với những người có kiến thức uyên bác, có học
vấn, có sở trường, có thực lực và đủ thông minh sáng suốt. Họ cũng tôn trọng
những người có trí tuệ không phân biệt chức vị. Người Do Thái luôn sử dụng lí trí


để lựa chọn đối tác làm ăn, điều này tạo nên thành công cho họ. Vì vậy phải biết
tôn trọng ý kiến của người khác, chuẩn bị tốt kiến thức và nhiều phương án để đối
phó, thuyết phục.
III.4/ Đừng nói dối
Người Do Thái quan niệm rằng: Nếu người nào sống trung thực trong công việc
làm ăn của mình và được người khác tôn trọng, thì người đó được đánh giá như là
tuân thủ mọi điều răn dạy của bộ Tora.Trong tiêu chuẩn của người Do Thái, theo
quyển sách dạy sống đạo Talmud của họ, thì thái độ trung thực của con người
trong công việc cũng quan trọng giống như đòi hỏi tuân thủ những điều răn của

Tora. Một trong những điều răn đó là : điều kiện để cho người Do thái được sống
trong đất hứa, đó là những người lái buôn sẽ không lừa gạt khách hàng của mình.

III.5/ Hãy coi tài sản của bạn mình cũng quý giá như tài sản của mình
Một ông Rabbin người Do Thái đã có một lời khuyên mà có thể áp dụng được
trong mọi hoàn cảnh: “Hãy coi tài sản của bạn mình cũng như tài sản của chính
mình”. Những lời này dựa trên nền tảng của quy tắc vàng” Hãy yêu kẻ lân cận như
mình”. Ai đó có thể nghĩ rằng vừa giữ theo quy tắc vàng vừa làm ăn kinh doanh là
không thực tế, thậm chí còn ngây thơ nữa. Nhưng những người Do thái lại nhấn
mạnh điều này. Trong một đoạn Thi thiên 116 có câu “ Tôi sẽ đi trước mặt Đức
Giê-hô-va tại đất kẻ sống”. Những thầy Rabbin chú trọng “tại đất kẻ sống”- vì đó
là một chỗ như là chợ để buôn bán”( theo Tulmud Babylon). Nghĩa là có thể xem
xét đức tin của một con người có thật hay không theo cách cư xử của anh ta nơi
phố chợ-ngày xưa và trên trường kinh doanh ngày nay. “ Chỉ có người nào có thể
tin cậy được trong công việc mới có thẻ coi là một người sống tin kính đạo đức”.
Người Do thái thích làm việc với những người này.
III.6/ Hãy sử dụng kiểu đàm phán mềm
Bởi trong bàn đàm phán người Do Thái luôn Giữ lập trường khác người của mình,
họ cho rằng Lập trường cá nhân quan trọng hơn gia tộc. Vì vậy nếu đàm phán với
người Do Thái, bạn cũng luôn giữ lập trường của mình thì đàm phán rất dễ dẫn đến
thất bại, chỉ nên dùng kiểu đàm phán mềm, thuyết phục bằng lí lẽ của mình thì mới
có thể đưa cuộc đàm phán đến thành công. Hãy luôn giữ thái độ hòa nhã trong đàm
phán.


III.7/ Hãy tìm hiểu thật kĩ văn hóa, tôn giáo và con người Do Thái trước khi
hợp tác
Trước khi hợp tác với bất kì đối tác nào, điều quan trọng là phải “biết người, biết ta
trăm trận trăm thắng”. Tìm hiểu kĩ về văn hóa, tôn giáo và con người Do Thái để
biết cách ứng xử và ứng phó với những tình huống đàm phán, kinh doanh khác

nhau là điều thực sự cần thiết.
Danh mục tài liệu tham khảo:
/>o/Phankhoi/PKhoi_VanDeDoThai.htm
/> /> /> />Và một số giáo trình khác về lịch sử người Do thái.





×