Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật nước CHXHCN Việt Nam, vai trò và ý nghĩa của việc dạy pháp luật trong môn GDCD ở trường trung học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 111 trang )

ĐỀ TÀI: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC VÀ
PHÁP LUẬT NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM; VAI TRÒ
VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC DẠY PHÁP LUẬT TRONG MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂNỞ TRƢỜNG TRUNG HỌC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT
1. Những vấn đề cơ bản về Nhà nƣớc
1.1. Nguồn gốc và bản chất của Nhà nƣớc
1.1.1. Nguồn gốc Nhà nước
Nhà nước là một hiện tượng đa dạng và phức tạp; do vậy, để nhận thức
đúng bản chất của Nhà nước cũng như những biến động trong đời sống Nhà
nước cần lý giải đầy đủ hàng loạt vấn đề, trong đó, nhất thiết làm sáng tỏ nguồn
gốc hình thành Nhà nước, chỉ ra những nguyên nhân làm xuất hiện Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể
hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp
đối kháng.
- Các học thuyết phi mácxít về nguồn gốc của Nhà nước
+ Thuyết thần quyền học cho rằng, thượng đế sinh ra loài người và sinh ra
Nhà nước.
+ Thuyết gia trưởng cho rằng, Nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự
phát triển của gia đình và quyền gia trưởng.
+ Thuyết bạo lực cho rằng, Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến
tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc này đối với thị tộc khác.
+ Thuyết tâm lý cho rằng, Nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của
con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ, cần có
người phụ trách.
+ Thuyết “khế ước xã hội” cho rằng, sự ra đời của Nhà nước là sản phẩm
của một khế ước xã hội được ký kết trước hết giữa những con người sống trong
một cộng đồng.
- Quan điểm về nguồn gốc Nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin
1




Học thuyết Mác - Lênin đã giải thích một cách khoa học về Nhà nước,
trong đó, có vấn đề nguồn gốc của Nhà nước.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nghĩa là
có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước xuất hiện một cách
khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà
nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho
sự tồn tại và phát triển của chúng không còn nữa.
Như vậy, Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, là sản phẩm của một
xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Những tiền đề kinh tế - xã hội
dẫn đến sự ra đời của Nhà nước là sự xuất hiện của chế độ tư hữu, sự phân chia
xã hội thành các giai cấp, tầng lớp mà lợi ích cơ bản là đối kháng, dẫn đến mâu
thuẫn đối kháng giữa các giai cấp.
- Những phương thức hình thành Nhà nước điển hình trong lịch sử
Nhà nước Aten: là hình thức Nhà nước thuần túy nhất và cổ điển nhất,
Nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp và phát triển ngay
trong nội bộ xã hội thị tộc.
Nhà nước Rôma: hình thành vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, từ
cuộc đấu tranh bởi những người thường dân chống lại giới quý tộc, thị tộc Rôma
- La Mã.
Nhà nước của người Giéc-Manh: ra đời sau chiến thắng của người
Giécmanh đối với đế chế La Mã cổ đại. Nhà nước này hình thành khoảng giữa
thế kỷ V trước công nguyên, từ việc người Giéc-Manh xâm chiếm vùng lãnh thổ
rộng lớn của đế chế La Mã cổ đại.
Ở phương Đông cổ đại, Nhà nước xuất hiện từ rất sớm, nhưng không phải
là do những điều kiện kinh tế - xã hội trong nội tại xã hội đó, mà chủ yếu do nhu
cầu cố kết đấu tranh chống lại thiên nhiên (nhu cầu trị thủy) và chống giặc ngoại xâm.
Nhà nước Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập cổ đại,… được hình thành từ rất
sớm, hơn 3000 năm trước công nguyên.

Ở Việt Nam, từ sự hình thành phôi thai của Nhà nước cuối thời Hùng
Vương – Văn Lang đến Nhà nước sơ khai thời An Dương Vương – Âu Lạc.
2


1.1.2. Bản chất của Nhà nước
Bản chất của Nhà nước được thể hiện sâu sắc và trước hết trong tính giai
cấp, tính xã hội (vai trò xã hội) và những đặc trưng của Nhà nước.
- Tính giai cấp của Nhà nước
Nhà nước chỉ sinh ra và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Nhà nước là sản
phẩm và là biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.
Nhà nước bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp một cách sâu sắc.
Nhà nước nào cũng là Nhà nước của một giai cấp, là bộ máy trấn áp đặc
biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, là bộ máy duy trì sự thống trị giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác, thể hiện dưới ba hình thức: chính trị, kinh tế, tư tưởng.
- Tính xã hội của Nhà nước
Nhà nước thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc, song Nhà nước còn có tính
xã hội. Nhà nước là tổ chức công quyền, là phương thức bảo đảm lợi ích chung
của toàn xã hội. với tư cách là tổ chức công quyền, Nhà nước phải giải quyết tất
cả các vấn đề nảy sinh trong xã hội, phải thực hiện chức năng quản lý toàn xã
hội. Nhà nước phải thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật.
Vai trò xã hội của Nhà nước còn thể hiện qua vai trò của Nhà nước trong
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong mối quan hệ với các tổ chức chính trị
khác của xã hội (các đảng chính trị, các tổ chức xã hội) thì Nhà nước giữ vị trí
trung tâm.
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, Nhà nước còn có mối quan hệ
qua lại, chặt chẽ với các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như chính trị,
pháp luật, khoa học, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo.
Kết luận: Nhà nước là một tổ chức chính trị có quyền lực công cộng đặc

biệt, được hình thành và bị quyết định bởi nhu cầu trấn áp giai cấp và nhu cầu
quản lý các công việc chung của xã hội.
1.1.3. Các dấu hiệu đặc trưng (đặc điểm) của Nhà nước
3


Thứ nhất, nhà nước thiết l p quyền lực công cộng đặc biệt không hòa
nh p với dân cư, hầu như tách khỏi xã hội; Nhà nước có bộ máy cưỡng chế duy
trì địa vị của giai cấp thống trị, để thực hiện quyền lực và quản lý xã hội.
Thứ hai, nhà nước quản lý cư dân theo sự phân chia lãnh thổ thành các
đơn vị hành chính, không theo quan hệ huyết thống như trước.
Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia. Nhà nước đại diện, nắm giữ chủ
quyền quốc gia.
Thứ tư, nhà nước ban hành pháp lu t và thực hiện sự quản lý xã hội bằng
pháp lu t.
Thứ năm, nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế dưới hình
thức bắt buộc.
Những đặc điểm trên đây nói lên sự khác nhau giữa Nhà nước với các tổ
chức chính trị khác, đồng thời cũng phản ánh vị trí và vai trò của Nhà nước
trong xã hội có giai cấp.
Như vậy, có thể định nghĩa chung về Nhà nước: Nhà nước là một tổ chức
đặc biệt của quyền lực chính trị có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và
thực hiện các chức năng quản lý xã hội, nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi
ích chung của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng.
1.2. Kiểu Nhà nƣớc
1.2.1. Khái niệm kiểu Nhà nước
Kiểu Nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản của khoa học lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật. Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh
tế - xã hội, là cơ sở khoa học để phân chia các kiểu Nhà nước trong lịch sử.
Trong lịch sử nhân loại, từ khi xuất hiện xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình

thái kinh tế - xã hội: cổ đại (chủ nô), phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ
nghĩa. Phù hợp với bốn hình thái kinh tế - xã hội ấy là bốn kiểu Nhà nước: Nhà
nước cổ đại (chủ nô), Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước xã hội
chủ nghĩa.

4


Kiểu Nhà nước là tổng thể những đặc điểm cơ bản của Nhà nước, thể
hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội, những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát
triển của Nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp nhất định.
Sự thay thế các kiểu Nhà nước trong lịch sử là một quá trình tiến hóa, là
tất yếu gắn liền với sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội tương ứng, phụ
thuộc vào thay đổi của cơ sở kinh tế. Quá trình thay thế đó có những đặc điểm sau:
- Mang tính tất yếu khách quan;
- Được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội;
- Kiểu Nhà nước sau bao giờ cũng tiến bộ và hoàn thiện hơn kiểu Nhà
nước trước.
Như vậy, “kiểu Nhà nước” là một khái niệm tổng hợp, cho phép xác định
Nhà nước thuộc mỗi kiểu là của giai cấp cụ thể nào, cũng như các yếu tố khác
có liên quan đến sự tồn tại và xu thế phát triển của nó trong lịch sử.
1.2.2. Các kiểu Nhà nước trong lịch sử
1.2.2.1. Nhà nước chủ nô (Nhà nước cổ đại hay Nhà nước chiếm hữu nô lệ)
- Nhà nước chủ nô là kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời trên sự
tan rã của chế độ thị tộc, gắn liền với xuất hiện chế độ tư hữu và phân chia xã
hội thành giai cấp. Mặc dù vậy, cách thức xuất hiện, sự tồn tại và quá trình phát
triển của các Nhà nước cổ đại cũng rất khác nhau. Một số Nhà nước ở phương
Đông cổ đại như: Ai Cập, Ấn Độ… rất khác với các nước phương Tây cổ đại
như Aten, Rôma… (ví dụ: trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Tây (chế độ
nô lệ cổ điển), thì nô lệ là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội). Còn ở phương

Đông cổ đại, thì nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chủ yếu mà hầu hết là họ
làm các công việc gia đình.
Nhà nước chủ nô, xét về bản chất, là công cụ bạo lực để thực hiện nền
chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ
nô, đàn áp nô lệ và những người lao động khác.
1.2.2.2. Kiểu Nhà nước phong kiến
Nhà nước phong kiến là kiểu Nhà nước bóc lột, nhưng nó tiến bộ hơn so
với Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Ở hầu hết các nước châu Âu, Nhà nước phong
5


kiến được hình thành trên sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ. Nhưng đối với
một số dân tộc như: Giécmanh, Mông Cổ… thì Nhà nước đầu tiên lại là Nhà
nước phong kiến.
Cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của giai cấp địa
chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất mà chủ yếu là ruộng đất, người nông dân
không có hoặc có rất ít ruộng đất nên phải phụ thuộc vào địa chủ phong kiến.
Cơ sở xã hội của Nhà nước phong kiến: Thành phần giai cấp được mở
rộng, phức tạp; ngoài hai giai cấp chính là địa chủ và nông dân. Giai cấp địa chủ
là giai cấp thống trị trong xã hội. Giai cấp nông dân chiếm đa số trong dân cư,
nhưng bị trói buộc vào ruộng đất và bị phụ thuộc vào phong kiến ở mỗi nước,
trong mỗi thời kỳ của chế độ phong kiến có sự khác nhau nhất định. Ngoài ra,
trong xã hội phong kiến còn có các tầng lớp như tăng lữ, thợ thủ công, thị dân,
thương nhân… Những người giữ các chức sắc tôn giáo có uy quyền và ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống chính trị, xã hội. Trong các Nhà nước phong kiến
châu Âu, Giáo hội thiên chúa giáo có quyền lực rất lớn. Chế độ đẳng cấp phong
kiến cũng được áp dụng trong các tổ chức tôn giáo và được Nhà nước phong
kiến bảo hộ.
Nhà nước phong kiến là công cụ để thực hiện nền chuyên chính của giai
cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất của

địa chủ phong kiến, duy trì các hình thức bóc lột với nông dân và các tầng lớp
lao động khác.
1.2.2.3. Kiểu Nhà nước tư sản
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và sự hình thành quan hệ tư
bản trong lòng xã hội phong kiến, quan hệ sản xuất phong kiến đã trở nên lỗi
thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ phong kiến rơi vào
khủng hoảng toàn diện. Tiền đề ra đời Nhà nước tư sản là sự khủng hoảng toàn
diện của chế độ phong kiến và sự hình thành trong lòng xã hội phong kiến ấy
các quan hệ tư bản. Sự ra đời của Nhà nước tư sản đánh dấu sự tiến bộ lớn trong
lịch sử phát triển của nhân loại. Nhà nước tư sản ra đời là kết quả của cuộc cách
mạng tư sản.
6


Cơ sở kinh tế của Nhà nước tư sản là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư.
Cơ sở xã hội , do nhu cầu tích lũy tư bản, tìm kiếm lợi nhuận cao, giai cấp
tư sản đã thực hiện sự bóc lột dã man và đẩy giai cấp vô sản đến chỗ bần cùng
hóa, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và những người lao động
khác ngày càng gay gắt.
Cơ sở tư tưởng, Nhà nước tư sản được tổ chức và hoạt động dựa trên hệ
tư tưởng tư sản vốn được hình thành trong quá trình đấu tranh với quý tộc phong
kiến. Nhà nước tư sản đặc biệt chú trọng truyền bá hệ tư tưởng tư sản, bảo đảm
vai trò thống trị của hệ tư tưởng này trong xã hội, ngăn cản sự phát triển của các
tư tưởng tiến bộ và cách mạng.
1.2.2.4. Kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu Nhà nước cuối cùng trong lịch sử xã
hội loài người. Sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang tính tất yếu khách
quan, phù hợp với quy luật vận động và phát triển xã hội. Nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là những tiền đề về kinh tế, xã hội và

chính trị xuất hiện trong lòng xã hội tư sản.
Vào cuối thế kỷ XIX, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ tính trì
trệ, kìm hãm sự phát triển sản xuất xã hội, không phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất đã phát triển đến mức xã hội hóa cao, mâu thuẫn giữa
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất ngày càng gay gắt, đòi
hỏi phải tiến hành cải biến cách mạng, xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, xác lập kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đó chính là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất – quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Đây là tiền đề kinh tế cho sự ra
đời Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về mặt xã hội, do nhu cầu tích lũy tư bản, tìm kiếm lợi nhuận cao, giai
cấp tư sản đã thực hiện sự bóc lột dã man và đẩy giai cấp vô sản đến chỗ bần
cùng hóa, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và những nhười lao
động khác ngày càng gay gắt.
7


Cơ sở tư tưởng chính trị, là chủ nghĩa Mác - Lênin. Những thành tựu vĩ đại
của khoa học tự nhiên thu được đã mở ra khả năng nhận thức đúng đắn hơn bản
chất của sự phát triển của thế giới khách quan, trên cơ sở đó tổng kết một cách
khoa học lịch sử phát triển loài người, các lãnh tụ tư tưởng của giai cấp vô sản
đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học
thuyết này là vũ khí tư tưởng khoa học để giai cấp công nhân tổ chức và tiến
hành cách mạng vô sản, xây dựng một chế độ văn minh.
Sự phát triển của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đòi hỏi phải
có một tổ chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, vì thế, Đảng Cộng sản và công
nhân được thành lập và trở thành hạt nhân lãnh đạo quần chúng lao động trong
sự nghiệp đấu tranh xóa bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ mới.
Lịch sử đấu tranh giành chính quyền của giai cấp vô sản thế giới cho đến
nay đã chứng kiến ba hình thức ra đời Nhà nước xã hội chủ nghĩa:

- Công xã Pari năm 1871, giai cấp công nhân và những người lao động đã
giành được chính quyền tại Thủ đô nước Pháp.
- Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Bônsêvích Nga, giai cấp công nhân nông dân và binh lính tiến công vào cơ quan
đầu não của Chính phủ Nga hoàng đập tan bộ máy Nhà nước tư sản và địa chủ,
lập nên Nhà nước Xôviết – Nhà nước công nông và sử dụng Nhà nước đó xây
dựng một xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, không có áp bức, bóc lột.
- Nhà nước dân chủ nhân dân ra đời sau thắng lợi vĩ đại của nhân dân
Liên Xô và các lực lượng tiến bộ đối với chủ nghĩa phát xít quốc tế. Trong bối
cảnh quốc tế đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và công nhân đã tiến hành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đổ các chế độ thực dân, phản động, giành
chính quyền về tay nhân dân và sử dụng chính quyền đó tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu được thành lập;
ở châu Á như Việt Nam, Triều Tiên, Trung Quốc là những Nhà nước xã hội chủ
nghĩa ra đời theo hình thức này.
Nhà nước XHCN ra đời là kết quả cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tùy theo
8


điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước mà sự ra đời cũng như việc tổ chức
nhà nước kiểu mới với những hình thức khác nhau, song bản chất của nó như
Lênin chỉ rõ: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội cố nhiên
không thể không đem lại rất nhiều những hình thức khác nhau, nhưng thực chất
của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một tức là: chuyên chính vô sản”
(Lênin – Toàn tập Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976 – Tập 33, trang 44)
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào cũng là nền
chuyên chính của giai cấp thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị của giai cấp
công nhân có bản chất và mục đích khác hẳn với sự thống trị về chính trị của các
giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự thống trị của thiểu số đối

với tất cả các giai cấp bị bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột. Trái
lại, chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ áp
bức bóc lột, bảo vệ lợi ích của tất cả nhân dân lao động, xây dựng một xã hội
mới – xã hội không còn người bóc lột người.
Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản là cần thiết vì thời kì này còn tồn tại nhiều giai cấp khác nhau. Chuyên chính
vô sản vì vậy không chỉ là trấn áp bằn bạo lực đối với giai cấp bóc lột, mà còn là
một tổ chức thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh
đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình. Vì vậy, bảo
đảm vai trò lãnh đạo cảu Đảng Cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống
còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước không chỉ
là yếu tố đảm bảo bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, mà còn là điều
kiện để giữ vững tính nhân dân, tính chất dân chủ rộng rãi của nhà nước đó. Bản
chất giai cấp công nhân và bản chất dân chủ là hai mặt thống nhất của nhà nước
xã hôi chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng, nhà nước xã chủ nghĩa là nhà nước
đặc biệt, nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà nước “nửa
nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế xã hội của sự xuất hiện và tồn tại nhà
nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của nhà nước xã hội
9


chủ nghĩa không phải bằng con đường “xóa bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu
vong” và muốn cho nó nhanh chóng đi đến chỗ tiêu vong phải không ngừng xây
dựng và hoàn thiện nó. Sự tiêu vong của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một quá
trình lâu dài.
1.3. Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.1. Sự ra đời và bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.1.1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trung tâm quyền lực

trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được hình thành trong quá trình
đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhà nước ta ra đời sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là hệ
thống chính trị có tính chất dân chủ nhân dân; sau khi thực hiện thắng lợi cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ, hệ thống chính trị đó chuyển sang làm nhiệm vụ của
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị, lực
lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là
yêu cầu khách quan, là điều kiện cơ bản để đảm bảo hệ thống chính trị và nhà
nước giữ đúng bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về
nhân dân và bảo đảm cho con đường phát triển của xã hội Việt Nam theo đúng
con đường xã hội chủ nghĩa.
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “cột trụ của hệ thống
chính trị”, là “công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân” (1). Nhà nước vừa là cơ quan
quyền lực, vừa là bộ máy chính trị - hành chính, vừa là tổ chức quản lý văn hoá
xã hội của nhân dân. Nhà nước thực hiện sự quản lý xã hội bằng pháp luật và
thực hiện đối nội và đối ngoại.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện
cho tầng lớp nhân dân tham gia vào việc xây dựng thể chế chính trị, xây dựng và
10


quản lý nhà nước tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích của mình. Liên minh
chính trị của các đoàn thể nhân dân, của cộng đồng xã hội của ta là Mặt trận Tổ
quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đoàn

kết toàn dân.
Như vậy, hệ thống chính trị là một thể thống nhất, việc xây dựng và hoàn
thiện nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước nhất thiết phải đặt trong quan hệ với các tổ chức
khác của hệ thống chính trị. Việc đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị phải xác định rõ và giải quyết các mối
quan hệ sau đây:
Mối quan hệ của Đảng và nhà nước: Đảng Cộng sản là đội tiên phong của
giai cấp công nhân lãnh đạo nhà nước tức và toàn xã hội. Đảng lãnh đạo nhà
nước tức là Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không phải là tổ chức quyền lực
chính trị mang tính pháp quyền, không phải là quyền lực nhà nước. Đảng lãnh
đạo nhà nước bằng đường lối chủ trương chính sách của Đảng và thông qua đội
ngũ đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo
nhà nước nhưng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật nhà nước.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật đối với toàn xã hội, nhưng hoạt động
của Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quan hệ giữa nhà nước với các đoàn thể nhân dân và toàn thể nhân
dân: Nhà nước là tổ chức công quyền và thực thi quyền lực chính trị. Nhưng nhà
nước là công cụ để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân – nhà nước của nhân
dân, nhân dân không chỉ làm chủ nhà nước (dân chủ đại diện) mà còn bằng các
tổ chức và hoạt động của các đoàn thể có tính chất tự quản (dân chủ trực tiếp).
Vì vậy, nhân dân là chủ thể của hệ thống chính trị và những tổ chức đại diện của
các tầng lớp nhân dân tuy không mang tính chất quyền lực nhà nước nhưng có vị
trí và vai trò quan trọng tạo thành “cơ sở chính trị vững chắc của chính quyền
nhân dân”.
11


1.3.1.2. Bản chất của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân và vì dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước có tính giai
cấp, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật và nêu cao vai trò
của pháp chế.
Nhà nước yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân phải tôn trọng và tuân thủ
luật pháp đi đôi với phát huy các giá trị đạo đức và văn hoá dân tộc. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân có bản chất khác
hẳn với bản chất nhà nước của giai cấp bóc lột. Điều này được quy định một
cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công
nhân được thể hiện bằng toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế
chính sách đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước. Các hoạt
động này đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân nhằm từng bước thực
hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc
là thống nhất. Sự thống nhất bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau khi giành được chính quyền thì nhân
dân lao động trở thành người chủ của đất nước. Giai cấp công nhân muốn tự giải
phóng mình phải đồng thời giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Hơn nữa, khi
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được xác lập, nhân dân là người làm
chủ tư liệu sản xuất chủ yếu đó, thì đương nhiên mọi quyền lực đều thuộc về nhân
dân. Vì vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của ta mang bản chất giai cấp
công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với dân tộc, nhân dân. Điều này được
quán triệt, được cụ thể hoá, thể chế hoá và thực hiện trên mọi lĩnh vực, mọi tổ
chức và hoạt động của nhà nước. Cũng chỉ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, hoạt động theo đường lối, quan điểm
12



của Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân mới là đại biểu cho
lợi ích chung của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Tính nhân dân của nhà nước ta thể hiện ở chỗ: Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của ta là của dân, quyền lực thực sự ở “nơi dân” chính quyền do
nhân dân lập nên và nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, cán bộ
công chức nhà nước là công bộc của dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Tính dân tộc của nhà nước thể hiện ở chỗ: trong tổ chức và hoạt động nhà
nước ta kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân
tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo
lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và thực hiện
đoàn kết dân tộc, coi đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược,
và là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc, giữ vững quan điểm của
Đảng về độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.
1.3.1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam
a) Nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
Điều 2. Hiến pháp 2013 ghi: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
b) Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản
lý xã hội
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Ở nước ta, thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã làm thay đổi
chủ thể quyền lực nhà nước. Nhân dân từ vị trí người nô lệ phụ thuộc bởi chế độ
thuộc địa nửa phong kiến trở thành người làm chủ đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.

13


Thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp 2013, Điều 28 ghi nhận: “Công dân
có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà
nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai,
minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo ra những khả năng, điều kiện và
phương tiện để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Trong quá trình phát triển xã hội các chức năng quản lý ngày càng đơn giản hơn
và ngược lại trình độ dân trí ngày một nâng cao hơn, do vậy, mọi người đều có
thể làm được, nó không còn là chức năng riêng của một lớp người đặc biệt nữa,
chức năng quản lý sẽ được mọi người thay nhau đảm nhiệm.
c) Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nó được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước. Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội.

Đảng lãnh đạo nhà nước trước hết thông qua việc xây dựng và hoàn chỉnh
cương lĩnh, chiến lược, định ra các chủ trương chính sách cho hoạt động của nhà
nước và toàn xã hội để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng và

tổ chức, bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng. Đảng xây dựng
đường lối phù hợp với lợi ích của nhân dân, được nhân dân ủng hộ và thực hiện.
Như vậy, thực chất sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là sự lãnh đạo chính

14


trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để nhà nước tổ chức bộ máy, bố trí cán
bộ, thực hiện chức năng quản lý bằng những công cụ, biện pháp của mình.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác cán bộ. Là Đảng cầm quyền
nên Đảng ta lựa chọn những đảng viên ưu tú của mình tham gia vào các cơ quan
nhà nước trước hết là Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp bằng con đường
giới thiệu để nhân dân lựa chọn bầu ra. Vì vậy, cơ chế dân chủ cũng là thước đo
uy tín và năng lực của Đảng trước xã hội và nhân dân.
Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không “hoá thân thành nhà nước”, do vậy,
việc phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý của nhà nước là
yêu cầu khách quan. Song, cũng cần phải đề phòng, đấu tranh chống lại những
quan điểm sai lầm muốn tách Đảng ra khỏi nhà nước, cần phải cảnh giác trước bọn
cơ hội và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ
nghĩa Mác – Lênin, đưa đất nước đi chệch khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
d) Nguyên tắc t p trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được thể hiện nhất quán trong các
Hiến pháp của nước ta, Điều 8 Hiến pháp 2013 ghi: “Nhà nước được tổ chức và
hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp
luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo quy định của Hiến
pháp bao gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực hiện
quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án nhân dân thực
hiện quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan này theo nguyên tắc tập trung

dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện khác nhau.
Đối với Quốc hội khi phải quyết định những vấn đề hệ trọng các đại biểu
thường cân nhắc đến:
- Lợi ích của cả nước khi biểu quyết lựa chọn một phương án trong nhiều
phương án được đề xuất.
- Lợi ích của đại phương, ngành, khi biểu quyết các đại biểu không chỉ thể
hiện ý chí của cả nước mà còn chú ý đến nguyện vọng của cử tri nơi đã bầu ra họ.
15


Do những chi phối đó nên Quốc hội không có cách nào tốt hơn là biểu
quyết theo nguyên tắc đa số. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của
Quốc hội là thiểu số phục tùng đa số trong mọi trường hợp.
Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập
thể quyết định theo đa số về những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò cá
nhân của Thủ thướng Chính phủ - người quyết định những vấn đề trong điều
hành công việc thường xuyên của chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
hoạt động của Chính phủ vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, vừa đảm bảo sự quản
lí của người đứng đầu chính phủ.
Đối với cơ quan tư pháp: Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập
trung dân chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội
thẩm và các thành viên khác trong hoạt động tố tụng, xác lập các quan hệ giữa
các cấp xét xử, quan hệ giữa các cơ quan điều tra …
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực quản lí
của bộ máy nhà nước ta trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của của các
cơ quan trung ương cũng như ở địa phương.
e) Nguyên tắc pháp chế
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì thế tổ chức và
hoạt động của nó phải tuân theo nguyên tắc pháp chế.
Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều

chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở một trật tự pháp luật và kỉ luật, là sự tuân
thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, của
các cơ quan đơn vị, tổ chức và đối với công dân. Khi nói tới trật tự pháp chế đòi
hỏi phải có:
- Một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh trong cuộc sống, từ các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân.
Như vậy, không phải cứ có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế, nhưng
pháp luật lại đóng vai trò là tiền đề, cơ sở cho một trật tự pháp chế. Bởi vì pháp
luật là thước đo, là tiêu chuẩn thẩm định trật tự xã hội và tình trạng pháp chế cụ
16


thể cho từng thời kì. Để nhận ra một xã hội có pháp chế, trước hết người ta xem
xét pháp luật đã có hay chưa, có đầy đủ hay không? Được thực hiện hay chỉ là
hình thức, tính xã hội của pháp luật ra sao?
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
- Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và có
hệ thống.
- Các cơ quan Nhà nước được lập ra và hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật quy định về địa vị pháp lí, quy mô và thẩm quyền.
- Sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan Nhà nước.
g) Nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống nhất có phân công phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp, nâng cao tính chủ động của chính
quyền địa phương, cơ sở…
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước có mối quan hệ biện
chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Thực hiện tốt các nguyên tắc trên
nhằm đảm bảo cho nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân và vì dân” trong tổ chức và hoạt động.
1.3.2. Bộ máy, chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.2.1. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Khái niệm: Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ
Trung ương xuống đến địa phương, tổ chức và hoạt động trên những nguyên tắc
chung, thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước.
- Cơ cấu tổ chức: Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được tổ chức thành bốn phân hệ các cơ quan Nhà nước và một chức danh
nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu Nhà nước) là Chủ tịch nước. Bốn phân hệ
cơ quan Nhà nước bao gồm: Cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan hành chính
Nhà nước, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát.
17


- Các cơ quan Nhà nước: Các yếu tố hợp thành bộ máy Nhà nước là cơ quan
Nhà nước. Các cơ quan Nhà nước rất đa dạng. Tuy nhiên, thông thường cơ quan Nhà
nước bao gồm 3 loại: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
1.3.2.2. Chức năng của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Chức năng đối nội của Nhà nước: tổ chức và quản lý kinh tế: hoạch định
chiến lược, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế; điều hành kinh tế vĩ mô.
- Chức năng đối ngoại của Nhà nước: bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền quốc phòng toàn dân; tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh.
Thực hiện chức năng mở rộng quan hệ đối ngoại vì sự phát triển của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
1.3.3. Hình thức Nhà nước, chế độ chính trị Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
1.3.3.1. Hình thức Nhà nước Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Hình thức chính thể của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam: Nhà nước ta được tổ chức theo hình thức chính thể Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa. Những đặc điểm cơ bản của chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là:
Tất cả các cơ quan quyền lực Nhà nước đều do nhân dân trực tiếp bầu ra
và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến
hành theo các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín.
Các cơ quan Nhà nước, cán bộ, viên chức Nhà nước luôn luôn tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
Theo Hiến pháp năm 2013: Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ. (Điều 8 )
Giữa Nhà nước với công dân có quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
của hai bên.
18


- Hình thức cấu trúc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước đơn nhất, có chủ
quyền chung, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Các đơn vị hành chính –
lãnh thổ không phải là những Nhà nước độc lập có chủ quyền riêng, mà chỉ là
những bộ phận cấu thành của Nhà nước Việt Nam thống nhất.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân) và
chính quyền các địa phương.
Nhà nước ta được tổ chức theo bốn cấp hành chính. Theo đó, cấp dưới
phải phục tùng cấp trên.
Có một hệ thống các cơ quan Nhà nước thống nhất từ Trung ương xuống
địa phương.
Có một hệ thống pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước, trong đó,

Hiến pháp là đạo luật cơ bản và có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Công dân mang một quốc tịch – quốc tịch Việt Nam.
1.3.3.2. Chế độ chính trị Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thường xuyên sử dụng
các phương pháp dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân.
Hiến pháp năm 2013 quy định: Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ
của Nhân dân (Điều 3). Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp nhằm thu hút đông
đảo nhân dân tham gia ngày càng tích cực và có hiệu quả vào quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội, trong đó, coi trọng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; vận động
quần chúng tham gia trực tiếp vào quản lý Nhà nước và xã hội; tổ chức nhân
dân trực tiếp xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận
động, tổ chức nhân dân trực tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà
nước; đồng thời, Nhà nước ta cũng kiên quyết xử lý những hành vi xâm hại các
quyền tự do dân chủ và các quyền hợp pháp khác của công dân.
1.3.4. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.3.4.1. Tính tất yếu của xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
19


- Nhà nước pháp quyền là một biểu hiện và thành tựu tiến bộ, dân chủ của
nhân loại.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập cần phải xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo.
1.3.4.2. Những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một quá trình thực hiện dân chủ.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải trong mối quan hệ chặt chẽ và có

hệ thống với các phương thức thực hiện dân chủ khác.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải chú ý đến tính chất và trình độ
phát triển của kinh tế, các điều kiện văn hóa chính trị pháp lý cụ thể của Việt Nam.
2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật
2.1. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của pháp luật
2.1.1. Nguồn gốc pháp luật
- Khái niệm pháp lu t: Pháp lu t là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà
nước ban hành hoặc thừa nh n và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai
cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Nguồn gốc pháp lu t: Theo học thuyết Mác - Lênin: Nhà nước và pháp
luật là hiện tượng trong lịch sử cơ bản nhất của đời sống chính trị - xã hội, cùng
xuất hiện, cùng tồn tại, phát triển và cùng tiêu vong khi nhân loại tiến tới chủ
nghĩa cộng sản.
Những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước cũng là những
nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Đó là chế độ tư hữu về tài sản và sự phân
hóa xã hội thành giai cấp mà giữa các giai cấp có lợi ích đối kháng không thể
điều hòa được.
Nhà nước và pháp luật đều thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai
cấp, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển khi xã hội đạt đến một trình độ
phát triển nhất định.
20


2.1.2. Bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp của nó, pháp luật
là con đẻ của xã hội có giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Tính giai cấp của pháp lu t: là sự tác động của yếu tố giai cấp đến pháp
luật mà sự tác động này quyết định xu hướng phát triển, những đặc điểm cơ bản
của pháp luật.
Tính giai cấp thể hiện chủ yếu trong nội dung và mục đích của sự điều

chỉnh của pháp luật. Theo đó, pháp luật bảo vệ lợi ích trước hết của giai cấp
thống trị.
- Tính xã hội của pháp lu t: là sự tác động của các yếu tố xã hội (được
hiểu là sự đối lập với yếu tố giai cấp) đến xu hướng phát triển và những đặc
điểm cơ bản của pháp luật. Pháp luật có tính xã hội, bởi vì nhu cầu quản lý xã
hội, trật tự chung của xã hội là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn
đến sự ra đời của pháp luật. Pháp luật cũng là phương tiện mô hình hoá cách
thức xử sự của các thành viên trong xã hội.
2.1.3. Chức năng của pháp luật
Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác động chủ yếu của
pháp luật, thể hiện bản chất và giá trị xã hội của pháp luật. Pháp luật có các chức
năng chủ yếu: Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật; Chức
năng giáo dục của pháp luật; Chức năng bảo vệ của pháp luật.
2.2. Kiểu pháp luật và hình thức pháp luật
2.2.1. Kiểu pháp luật
- Khái niệm kiểu pháp lu t : là tổng thể những dấu hiệu cơ bản đặc thù
của pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp, những điều kiện tồn tại và phát triển
của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Tương ứng với 4 hình thái kinh tế - xã hội (trong xã hội có giai cấp) có 4
kiểu pháp luật: kiểu pháp luật chủ nô; kiểu pháp luật phong kiến; kiểu pháp luật
tư sản; kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa.
- Các kiểu pháp lu t trong lịch sử
21


Thứ nhất: Kiểu pháp lu t chủ nô, là kiểu pháp luật đầu tiên trong lịch sử,
là công cụ của giai cấp chủ nô để quản lý xã hội trong điều kiện mới, sau khi xã
hội tổ chức thị tộc - bộ lạc tan rã.
Cơ sở kinh tế: tồn tại trên cơ sở quan hệ sản xuất chủ nô, đặc trưng bởi
chế độ chiếm hữu tư nhân tuyệt đối của giai cấp chủ nô đối với tư liệu sản xuất,

sản phẩm lao động và người nô lệ.
Cơ sở xã hội: pháp luật chủ nô tồn tại dựa trên kết cấu xã hội giai cấp.
Trong đó, pháp luật phản ánh chủ yếu ý chí của giai cấp chủ nô và các lực lượng
xã hội khác (loại trừ giai cấp nô lệ).
Bản chất của kiểu pháp luật chủ nô thể hiện: Công khai bảo vệ và củng cố
quyền tư hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Hình thức pháp
luật chủ yếu là tập quán pháp và tiền lệ pháp. Văn bản pháp luật xuất hiện muộn,
có nội dung tổng hợp các lĩnh vực trong đời sống xã hội, chưa có sự phân định
các ngành luật cụ thể.
Thứ hai: Kiểu pháp lu t phong kiến, là kiểu pháp luật ra đời thay thế cho
kiểu pháp luật chủ nô.
Cơ sở kinh tế: tồn tại trên cơ sở quan hệ sản xuất phong kiến, đặc trưng
bởi chế độ tư hữu của địa chủ phong kiến đối với đất đai, tư liệu sản xuất khác
và một phần sức lao động của nông dân.
Cơ sở xã hội: pháp luật phong kiến tồn tại dựa trên kết cấu xã hội giai cấp.
Trong đó, pháp luật phản ánh chủ yếu ý chí của giai cấp phong kiến, các lực
lượng xã hội khác.
- Bản chất của pháp luật phong kiến: thể hiện ở những đặc điểm sau:
+ Bảo vệ chế độ tư hữu của địa chủ phong kiến đối với đất đai và chế độ
bóc lột địa tô đối với nông dân.
+ Bảo vệ chế độ đẳng cấp và đặc quyền của giai cấp phong kiến.
+ Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo và đạo đức phong kiến.
Ngoài hệ thống pháp luật của Nhà nước còn tồn tại các quy định của các
lãnh chúa và lệ làng của các địa phương. Điều này đã làm cho pháp luật phong
kiến bị phân tán và thiếu tính ổn định.
22


- Hình thức tập quán pháp và tiền lệ pháp vẫn đóng vai trò chủ yếu. Văn
bản pháp luật được sử dụng phổ biến hơn nhưng thường là những bộ luật có nội

dung tổng hợp, mà chế tài mang nặng tính chất hình sự.
Thứ ba: Kiểu pháp lu t tư sản, cùng với sự ra đời của Nhà nước tư sản,
pháp luật tư sản được hình thành thay thế cho Pháp luật phong kiến. Pháp luật tư
sản kế thừa các kiểu pháp luật trước đó, vì nó được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất của chế độ tư hữu và bóc lột.
Pháp luật tư sản đã phát triển hơn rất nhiều cả về nội dung lẫn hình thức
so với các kiểu pháp luật trước đó. Nó phản ánh sự thay đổi toàn diện của xã hội
về đời sống vật chất và tinh thần.
Mặc dù pháp luật tư sản bảo vệ chế độ tư hữu tư sản và chế độ bóc lột làm
thuê, nhưng về mặt pháp lý nó thừa nhận quyền tư hữu của tất cả mọi người.
Nhờ đó, các lực lượng xã hội có cơ sở pháp lý đấu tranh bảo vệ quyền lợi kinh tế
của mình.
Lần đầu tiên pháp luật tư sản quy định các quyền tự do dân chủ rộng rãi
cho công dân trong các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội và tự do cá nhân. Tuy
nhiên, trong thực tế, các quyền công dân bị cắt xén và không được bảo đảm thực
hiện đầy đủ.
Pháp luật tư sản tuyên bố nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng và không
ngừng hoàn thiện nó, đặc biệt trong lĩnh vực dân sự và thương mại. Chế định
hợp đồng đã tạo sự thuận lợi cho sự lưu thông hàng hoá và phát triển sản xuất.
Hình thức pháp luật tư sản rất đa dạng, nhưng văn bản pháp luật vẫn là
hình thức chủ yếu. Đã có sự phân chia thành các ngành luật có đối tượng điều
chỉnh riêng. Đặc biệt là sự ra đời của Hiến pháp - đạo luật cơ bản.
Thứ tư: Kiểu pháp lu t xã hội chủ nghĩa, pháp luật XHCN là hệ thống các
quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước XHCN ban hành theo những trình tự, thủ
tục và hình thức nhất định; bảo đảm thực hiện bằng sự thuyết phục và giáo dục
mọi người tôn trọng thực hiện và bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Đặc trưng cơ bản của pháp lu t xã hội chủ nghĩa:
23



Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động; pháp luật xã hội chủ nghĩa có tính quy phạm tiên tiến; pháp luật xã
hội chủ nghĩa được bảo đảm thực hiện chủ yếu trên cơ sở giáo dục, thuyết phục.
- Bản chất của pháp luật XHCN cũng được quy định bởi cơ sở kinh tế - xã
hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cơ sở kinh tế: quan hệ sản xuất XHCN. Cơ
sở xã hội: các giai cấp tồn tại trong xã hội.
Tính giai cấp: Pháp luật XHCN phản ánh ý chí của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Pháp luật XHCN điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã
hội theo định hướng XHCN.
Tính xã hội: Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, pháp luật XHCN còn bảo vệ lợi ích của các giai cấp khác trong xã
hội. Pháp luật XHCN có cơ sở xã hội rộng rãi. Pháp luật XHCN là công cụ đảm
bảo công bằng xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của mọi cá nhân.
- Những đặc điểm cơ bản của pháp lu t XHCN
Là một hệ thống các quy tắc xử sự có tính thống nhất nội tại cao, do cơ sở
kinh tế, xã hội và pháp lý của nó quy định.
Thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Do Nhà nước XHCN, thể hiện quyền lực của nhân dân lao động - ban
hành và bảo đảm thực hiện.
Có quan hệ chặt chẽ với chế độ kinh tế XHCN.
Có quan hệ mật thiết với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
Cộng sản.
Có quan hệ chặt chẽ với các quy phạm xã hội khác trong xã hội XHCN.
- Vai trò của pháp lu t XHCN
+ Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản.
+ Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Xã hội
chủ nghĩa.
+ Pháp luật bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng tổ chức và
quản lý kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH.

24


+ Pháp luật bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực
nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.
+ Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
+ Pháp luật có vai trò giáo dục mạnh mẽ.
+ Pháp luật XHCN góp phần tạo dựng những quan hệ mới.
+ Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ
hợp tác và phát triển.
- Hệ thống nguyên tắc cơ bản của pháp lu t XHCN
Hệ nguyên tắc của pháp luật XHCN là những nguyên lý, những tư tưởng
chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt và
có ý nghĩa bao quát, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp luật.
2.2.2. Hình thức pháp luật
- Khái niệm hình thức pháp lu t, là cách thức mà giai cấp thống trị sử
dụng để thể hiện ý chí của giai cấp mình và xã hội, là phương thức tồn tại, dạng
tồn tại thực tế của pháp luật.
Hình thức pháp luật có hai dạng: Hình thức bên trong và hình thức bên
ngoài của pháp luật.
- Hình thức bên trong của pháp lu t: bao gồm các nguyên tắc chung của
pháp luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, chế định luật và quy phạm pháp luật.
Trong mỗi quốc gia có một hệ thống pháp luật, quy phạm pháp luật là quy tắc
xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hay thừa nhận, chế định
pháp luật là hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cùng
loại trong một ngành luật. Ngành luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định với những phương pháp điều chỉnh
đặc trưng.
- Hình thức bên ngoài của pháp lu t: Hình thức bên ngoài của pháp luật
(còn gọi là nguồn của pháp luật), là sự biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật.

Nguồn của pháp luật bao gồm tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm
pháp luật. Đây cũng là các hình thức pháp luật cơ bản.
25


×