Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ VAI TRÒ của KHU CÔNG NGHIỆP với VIỆC PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội ở TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.45 KB, 90 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng nhân dân
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
HĐND
KCN
KT - XH
Nxb
UBND

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA
KHU CÔNG NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ - XÃ HỘI
1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp
1.2. Quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò và những nhân
tố ảnh hưởng đến vai trò của khu công nghiệp với sự


phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA KHU CÔNG
NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở TỈNH NINH BÌNH
2.1. Tổng quan về các khu công nghiệp ở tỉnh Ninh Bình

3

Chương 1

2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
cần tập trung giải quyết về vai trò của khu công nghiệp
với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Ninh Bình
Chương 3
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA KHU CÔNG NGHIỆP
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH
NINH BÌNH THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò của khu công
nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Ninh
Bình thời gian tới
3.2. Giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của khu công
nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Ninh
Bình thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

11

11

17

30
30

35

56

56

62
80
81
85

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển mạnh của lực lượng sản xuất với tính chất xã hội hóa
ngày càng cao dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ đòi hỏi phải
hình thành các KCN tập trung để chuyên môn hóa, tập trung hóa, xã hội hóa sản
xuất và phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp trong các ngành. Sự ra đời của
các KCN cho phép khai thác tốt nhất tài nguyên, nguồn lực con người, sử dụng
vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý... vào quá trình sản xuất, kinh doanh
và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Từ đó, tạo ra khu vực kinh tế năng

động thúc đẩy sự phát triển KT - XH của các quốc gia. Ở Việt Nam qua hơn 20
năm xây dựng và phát triển các KCN đã đóng góp to lớn vào việc thực hiện các
mục tiêu phát triển KT - XH của đất nước, góp phần đẩy mạnh quá trình CNH,
HĐH.
Ninh Bình cách Thủ đô Hà Nội hơn 90 km về phía Nam, nơi tiếp nối
giao lưu kinh tế và văn hoá giữa khu vực châu thổ sông Hồng với Bắc Trung
bộ, có vị trí quan trọng trong phát triển KT - XH và củng cố quốc phòng - an
ninh. So với nhiều địa phương khác, các KCN của Ninh Bình được hình thành
và phát triển khá muộn (năm 2004). Sau 10 năm, hình thành, phát triển các
KCN ở Ninh Bình đã góp phần quan trọng thu hút vốn và công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nhiều nước trên thế giới phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực của Tỉnh... Đồng thời, sự phát triển KCN đã tạo điều kiện cho sự ra
đời các khu đô thị, nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Tuy nhiên, bên cạnh
những tích cực, các KCN cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập. Đáng chú ý, có
nhiều vấn đề nếu không tích cực nghiên cứu giải quyết sẽ ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển KT - XH của địa phương như: chất lượng các dự án đầu tư vào
KCN còn thấp, công nghệ lạc hậu; cuộc sống của người lao động trong các
3


KCN và người dân bị thu hồi đất cho phát triển các KCN còn nhiều khó khăn;
công tác bảo vệ môi trường ở một số KCN còn bất cập... Những hạn chế đó
đang là lực cản cho việc phát huy vai trò của các KCN với sự phát triển KT XH trên địa bàn. Vì vậy, việc luận giải những vấn đề lý luận, đánh giá đúng
thực trạng vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Ninh Bình trong
những năm qua, làm cơ sở cho việc đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy
vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Ninh Bình thới gian tới có ý
nghĩa hết sức quan trọng.
Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Vai trò của khu công nghiệp với sự

phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay” làm đề tài luận văn thạc
sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khu công nghiệp và vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH là vấn
đề lớn được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Song, liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn có thể kể đến các công
trình tiêu biểu sau:
* Các sách chuyên khảo
Trương Thị Minh Sâm (2004), Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò và
hiệu lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở các KCN, khu chế xuất,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trong cuốn sách tác giả đã đi sâu đánh giá
thực trạng môi trường ở các KCN, khu chế xuất của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, nguyên nhân của tình hình và làm rõ nguyên nhân ở góc độ quản
lý Nhà nước. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra các kiến nghị và giải pháp có tính
đặc thù nhằm nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường ở các KCN, khu chế xuất, để đảm bảo phát triển bền vững về KT - XH
cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng và cả nước nói chung.
Nguyễn Bình Giang (2012), Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam, Tác động xã hội vùng của các KCN ở Việt
4


Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Cuốn sách tập trung vào khái quát sự
phát triển các KCN ở Việt Nam; phát hiện, đánh giá và phân tích các tác
động xã hội vùng của việc phát triển KCN tới cộng đồng dân cư ở các địa
phương xung quanh KCN; giới thiệu một số kinh nghiệm của các nước
Đông Á về tác động xã hội vùng của KCN.
Đỗ Đức Quân (2010), Một số giải pháp nhằm phát triển bền vững
nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình xây dựng, phát triển các
KCN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong công trình khoa học này, tác giả

đã làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển bền vững nông thôn trong quá
trình xây dựng, phát triển KCN. Từ thực trạng khảo sát các tỉnh ở đồng bằng
Bắc Bộ, tác giả đã nêu ra phương hướng và các giải pháp nhằm phát triển bền
vững nông thôn trong quá trình phát triển các KCN. Trên cơ sở đó, tác giả
khẳng định muốn phát triển bền vững thì phải đồng thời thực hiện ba mục
tiêu: Phát triển có hiệu quả về kinh tế; phát triển hài hoà các mặt về xã hội; cải
thiện môi trường, môi sinh, bảo đảm phát triển lâu dài vững chắc cho thế hệ
hôm nay và mai sau.
Võ Văn Một (2004), Tổng kết quá trình xây dựng phát triển các KCN
và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai 1991- 2004, Nxb Tổng hợp,
Đồng Nai. Cuốn sách đã phân tích đánh giá khái quát những thành tựu và hạn
chế trong quá trình phát triển các KCN ở Đồng Nai, đồng thời rút ra những
bài học kinh nghiệm và đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư
vào phát triển các KCN ở Đồng Nai trong những năm tới.
* Các luận văn, luận án
Trần Văn Phùng (2007), Nâng cao hiệu quả KT - XH của các KCN Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Dưới góc độ
chuyên ngành quản lý kinh tế tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận chung về KCN,
hiệu quả KT - XH của KCN, đánh giá thực trạng hiệu quả KT - XH của các
KCN ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm, định hướng và các giải
5


pháp kinh tế - tài chính nhằm nâng cao hiệu quả KT - XH của KCN Việt Nam.
Phạm Đắc Đương (2006), Tác động của KCN tập trung đối với củng cố
quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế
chính trị, Học viện Chính trị. Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận và thực trạng
tác động của phát triển các KCN tập trung đối với củng cố quốc phòng trên
địa bàn thành phố, tác giả đã đưa ra quan điểm và những giải pháp cơ bản
nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của phát

triển các KCN tập trung đến củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố.
Đỗ Văn Trịnh (2012), Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình
hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị. Tác giả đã luận
giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình.
Trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh phát
triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình trong thời gian tới.
* Các báo cáo, tham luận, bài báo khoa học
Hội nghị tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển các KCN, khu chế
xuất, khu kinh tế ở Việt Nam do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức (02/2011) tại
Hà Nội. Hội nghị đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra kinh nghiệm
xây dựng, phát triển KCN, khu chế xuất, khu kinh tế ở nước ta; kiến nghị
phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lượng
hoạt động của các KCN, khu chế xuất, khu kinh tế.
Vũ Thị Kim Oanh (2014), Phát triển KCN Việt Nam: Thực trạng và
giải pháp, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 15 (8/2014). Tác giả đã đánh giá
những thành tựu, hạn chế qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển KCN Việt
Nam, đề xuất các giải pháp để phát triển KCN như: rà soát, cập nhật, từ đó
tiến hành bổ sung, điều chỉnh quy hoạch các KCN; tiếp tục hoàn thiện cơ chế
chính sách phát triển KCN; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN; nâng cao
tỷ lệ lấp đầy các KCN; cải thiện chất lượng thu hút đầu tư vào KCN; các cơ
quan chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra pháp luật
6


về bảo vệ môi trường tại các KCN.
Nguyễn Hữu Dũng (2008), Phát triển KCN với vấn đề lao động - việc
làm ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 5 (149). Tác giả đã đánh giá những thành
tựu nổi bật của quá trình phát triển các KCN ở Việt Nam từ năm 1991 đến nay,
nhấn mạnh những thành tựu và hạn chế của vấn đề lao động và việc làm. Từ đó,
đề xuất một số giải pháp vĩ mô như giáo dục - đào tạo, phát triển hệ thống các

trung tâm dạy nghề, gắn nhà trường với các nhà máy trong KCN. Bên cạnh đó
tác giả còn nhấn mạnh vấn đề an sinh xã hội đối với lao động trong các KCN
(đây là vấn đề đang được các nhà nghiên cứu và các tổ chức chính trị xã hội
quan tâm). Trên cơ sở đó hoạch định các chính sách nhằm nâng cao đời sống
người lao động tại các KCN và lân cận KCN.
Nguyễn Văn Hùng (2009), Một số vấn đề về đổi mới công tác quy hoạch
và phát triển KCN gắn với bảo vệ môi trường ở nước ta, Tạp chí Khu công
nghiệp, số 135. Trong bài viết này tác giả đề cập đến vấn đề quy hoạch KCN ở
nước ta hiện nay, chỉ ra những hạn chế trong quy hoạch nhất là gắn quy hoạch
phát triển KCN với bảo vệ môi trường, đây là một vấn đề nóng đang được sự
quan tâm của toàn xã hội trong quá tình phát triển các KCN, trên cơ sở đó tác giả
đưa ra các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề này.
Nguyễn Văn Minh (2011), Đánh giá tác động của KCN tới KT - XH
vùng lân cận, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 47 (6/2011). Tác giả đã đánh giá
tác động của KCN tới KT - XH vùng lân cận và có sự thâm nhập thực tế một
số KCN ở phía Bắc. Theo tác giả, trước hết cần phải lựa chọn và soạn thảo bộ
tiêu chí đánh giá trình độ phát triển bền vững nội tại của các KCN. Sau khi
định hình được năng lực nội tại của KCN, sẽ tiến hành xác định cơ chế tác
động. Về cơ bản tác động diễn ra theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Vấn đề
quan trọng là phải xác định được cơ chế lan tỏa của hai chiều hướng này.
Theo tác giả đó là các lớp tác động: môi trường sống, đời sống tinh thần, đời
sống kinh tế của người dân. Trên cơ sở đánh giá tác động, tác giả đã chỉ ra:
7


muốn phát triển bền vững, cần nhanh chóng có các giải pháp để hạn chế mặt
tác động tiêu cực và thúc đẩy mặt tích cực, tiến tới hình thành các KCN hoạt
động hiệu quả và đi xa hơn nữa là xây dựng một hệ sinh thái kinh doanh thân
thiện với môi trường.
Vũ Quốc Huy (2011), Quản lý nhà nước về môi trường KCN thực

trạng và nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới, Tạp chí Khu công
nghiệp, số 162. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bảo vệ môi trường ở
các KCN tác giả đã nêu lên những hạn chế bất cập trong công tác quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường, tác giả khẳng định những bất cập đó do nhiều
nguyên nhân nhưng trong đó chủ yếu nhất là là ý thức tuân thủ pháp luật về
công tác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp còn hạn chế. Trên cơ sơ đó
tác giả đề xuất những nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới nhằm khắc
phục những hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường ở các KCN.
Phạm Kim Thư (2012), Vấn đề quản lý nhà nước đối với KCN của Hà
Nội, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 11 (6/2012). Trên cơ sở đánh giá thực tế khả
năng đầu tư, phát triển các KCN trên địa bàn Hà Nội chưa tương xứng với tiềm
năng của Thủ đô mở rộng. Bài viết đã đưa ra 5 giải pháp nhằm tăng cường quản
lý nhà nước để khắc phục những hạn chế như đường giao thông, hệ thống cấp
thoát nước và xử lý nước thải, hàng rào, điện chiếu sáng...
Các công trình khoa học nêu trên đã tập trung nghiên cứu những vấn đề
khác nhau về KCN trên phạm vi tổng thể cả nước hoặc trên địa bàn một vùng,
một tỉnh. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào dưới
góc độ kinh tế chính trị nghiên cứu về vai trò của KCN với sự phát triển KT XH ở tỉnh Ninh Bình. Đề tài mà tác giả lựa chọn nghiên cứu không trùng hợp
với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của KCN với
sự phát triển KT - XH, đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát huy
8


vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Ninh Bình thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận về KCN bao gồm: quan niệm, nội dung
biểu hiện vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của KCN với sự

phát triển KT - XH.
Đánh giá đúng thực trạng vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH ở tỉnh
Ninh Bình, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết.
Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của
KCN với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Ninh Bình thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của khu công nghiệp với sự phát triển KT - XH.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH ở
khía cạnh tác dụng của KCN.
Về không gian: Nghiên cứu vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH ở
tỉnh Ninh Bình.
Về thời gian: Các số liệu, tư liệu đánh giá thực trạng được thực hiện chủ
yếu từ năm 2004 đến nay (từ khi KCN đầu tiên của Ninh Bình được thành lập).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển kinh tế nói chung và phát triển công nghiệp nói riêng.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chú trọng sử dụng phương pháp nghiên cứu trừu tượng hoá
khoa học, kết hợp lô gíc với lịch sử và vận dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu của khoa học xã hội như điều tra, thống kê, so sánh, phân tích
9


tổng hợp và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm những luận

cứ khoa học giúp Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Ninh Bình tham khảo trong lãnh
đạo, chỉ đạo phát huy vai trò của KCN với sự phát triển KT - XH của Tỉnh.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
học tập môn kinh tế chính trị trong các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA
KHU CÔNG NGHIỆP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp
1.1.1.Quan niệm về khu công nghiệp
Khu công nghiệp đã được hình thành và phát triển vào những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở một số nước tư bản phát triển như Anh, Mỹ và phát
triển nhanh chóng ở các nước đang phát triển từ giữa thế kỷ XX. Trên thế giới
hiện nay có rất nhiều các quan niệm khác nhau về KCN nhưng theo Tổ chức
phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) KCN là khu có hàng rào
ngăn cách với bên ngoài, chịu sự quản lý riêng, tập trung tất cả các doanh nghiệp
hoạt động theo bất kỳ cơ chế nào (xuất khẩu hàng hóa hoặc tiêu thụ nội địa),
miễn là phù hợp với những quy định, quy hoạch về vị trí và ngành nghề, một
phần đất nằm trong KCN có thể dành cho khu chế xuất [38, tr.43].
Ở Việt Nam, sự hình thành, phát triển các KCN gắn liền với quá trình đổi mới,

mở cửa hội nhập quốc tế và xuất phát từ chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà

nước trong việc xây dựng, phát triển các KCN để thu hút đầu tư, thúc đẩy
tăng trưởng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH .
Chủ trương xây dựng, phát triển các KCN đã được Đảng ta chỉ rõ qua các kỳ Đại hội:

Văn kiện Đại hội lần thứ VIII (1996) chỉ rõ: “Hình thành các KCN tập
trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho
việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông
thôn và ven đô thị ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công
nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành
phố, hạn chế việc xây dựng các KCN mới xen lẫn với khu dân cư” [16, tr.179].
Chiến lược phát triển KT - XH (2001 - 2010) tiếp tục khẳng định: “Quy
hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các
KCN, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm
công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở” [17, tr.174].

12


Báo cáo chính trị tại Đại hội X (năm 2006) một lần nữa khẳng định chủ
trương “Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu
quả các KCN, khu chế xuất”, [18, tr.91] đồng thời nhấn mạnh chủ trương tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong đó có phát triển bền vững
KCN, khu chế xuất.
Báo cáo chính trị Đại hội Đảng XI (năm 2011) và Chiến lược phát triển
KT - XH 2011 - 2020 đã định hướng phát triển KCN bền vững và theo chiều
sâu: “Bố trí hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các khu,
cụm công nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức
cụm, nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả

cao” [19, tr.195].
Các Văn kiện của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình
thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN nhằm
đẩy mạnh CNH, HĐH tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng
sản xuất trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa. Từ khi có chủ trương của
Đảng về phát triển các KCN, Chính phủ, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật để tổ chức xây dựng, phát triển và quản lý các KCN. Trong các văn
bản đó đã đưa ra định nghĩa về KCN, cụ thể:
Nghị định số 192/NĐ-CP ngày 25/12/1994, Chính phủ Nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành quy chế KCN đưa ra định nghĩa KCN:
“KCN quy định trong quy chế này là công nghiệp tập trung do Chính phủ quyết
định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ hỗ trợ công nghiệp, không có dân cư sinh sống” [8]
Nghị định số: 36/NĐ-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ban hành quy
chế mới về KCN thay thế cho quy chế năm 1994 định nghĩa: “KCN là khu tập
trung các doanh nghiệp công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có
thể có doanh nghiệp chế xuất” [9].
13


Theo Luật Đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2006 thì: “KCN là khu sản xuất hàng công nghiệp
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo quy định của Chính phủ” [35].
Nghị định của Chính phủ số 29/2008/ND-CP ngày 14/03/2008 quy
định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế thì KCN được hiểu như sau: “KCN
là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản
xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện,

trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này” [10].
Theo Luật Đầu tư năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày
26/11/2014 thì: “KCN là khu vực có danh giới địa lý xác định, chuyên sản
xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho sản xuất công nghiệp” [36].
Từ các định nghĩa trên về KCN, tác giả cho rằng: KCN là nơi tập trung
các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh
sống, trong đó có những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng và
cơ chế chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất
kinh doanh và do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập theo những điều
kiện nhất định.
Theo quan niệm trên, KCN có thể hiểu trên những vấn đề sau đây:
Một là, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp có đủ cơ sở pháp lý,
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp hoạt động trong KCN có thể sử dụng chung
hệ thống kế cấu hạ tầng như đường xá, điện, nước... và các dịch vụ có liên
quan; được hưởng quy chế riêng và ưu đãi riêng theo quy định của Nhà nước và địa
phương sở tại. Nhờ đó, các doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí cho sản xuất,

hạ giá thành sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường trong và ngoài nước.
14


Hai là, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư
sinh sống. Do đó, KCN cho phép tăng khả năng hợp tác sản xuất giữa các
doanh nghiệp hoạt động trong KCN. Vì các doanh nghiệp này nằm trên một
vùng có không gian lãnh thổ nhỏ, khoảng cách giữa các doanh nghiệp là
không xa. KCN là nơi không có dân cư sinh sống và được ngăn cách với môi
trường xung quanh bằng hàng rào cứng và các ranh giới địa lý tự nhiên.

Ba là, việc xây dựng các KCN phải do Thủ tướng Chính phủ quyết
định thành lập theo những điều kiện nhất định được quy định trong điều 5
Nghị định 164/2013/ND-CP ngày 12/11/2013,

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, khu chế xuất và khu
kinh tế [11].

Khi muốn thành thành lập KCN các tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét quyết định thành lập.
1.1.2. Đặc điểm của khu công nghiệp
Khu công nghiệp là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp gắn
liền quá trình CNH, HĐH đất nước. KCN có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, KCN là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tiếp
nhận và ứng dụng có hiệu quả thành tựu của khoa học công nghệ, kinh nghiệm và trình
độ tổ chức quản lý của thế giới vào quá trình sản xuất . Nơi tập trung lực lượng lao

động có chuyên môn kỹ thuật như những chuyên gia giỏi để làm công tác
quản lý, điều hành doanh nghiệp; lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề
để có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu rất đa dạng của sản xuất kinh
doanh. Đây là nhân tố quan trọng góp phần thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, rút
ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước. Chính vì vậy, KCN là nơi tập trung lực lượng sản
xuất hiện đại, làm nòng cốt thúc đẩy sự phát triển KT - XH.

Hai là, KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành phần và
nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại, trong đó có: doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài, hợp đồng, hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh

nghiệp 100% vốn trong nước. Hoạt động trong KCN là các tổ chức pháp nhân và các

15


cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các điều kiện bình đẳng. Các doanh

nghiệp trong KCN có nghĩa vụ: Tuân thủ pháp luật, điều lệ quản lý khu KCN,
quyết định chấp thuận đầu tư hoặc giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh; đăng ký với Ban quản lý KCN cấp tỉnh: số lượng, khối lượng sản
phẩm xuất khẩu và tiêu thụ từ thị trường trong nước.
Mọi hoạt động kinh tế trong KCN trực tiếp chịu sự chi phối của cơ chế thị
trường và diễn biến của thị trường quốc tế. Do đó, quản lý kinh tế của các doanh
nghiệp trong KCN lấy điều tiết của thị trường làm chính. Trong KCN đầu ra của các
doanh nghiệp còn có thể gắn bó với nhau như sản phẩm của nhà máy này còn là linh kiện
phụ tùng cho sản phẩm của nhà máy kia, hoặc là nguyên liệu cho nhà máy kia. Vì vậy, các xí
nghiệp này tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành của sản phẩm, cũng chính là tiết
kiệm được chi phí cho xã hội.

KCN là nơi thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong sản xuất
công nghiệp. Đó là mối quan hệ giữa người lao động (công nhân) với chủ
doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, lao động trong các KCN là người Việt Nam
chiếm đại đa số, họ làm việc trong các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp
tư nhân, được các chủ doanh nghiệp trả lương theo quy định về mức lương tối
thiểu vùng do Nhà nước quy định.
Ba là, KCN thường được xây dựng ở những nơi có vị trí địa lý thuận
lợi như: gần các trục giao thông chính, sân bay, cảng biển, ngoại vi các thành
phố lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm, cung cấp các dịch vụ phục
vụ trực tiếp cho sản xuất kinh doanh , tiện giao lưu hàng hóa và liên hệ với bên


ngoài. Địa điểm xây dựng các KCN phải được hình thành trên cơ sở quy hoạch phát
triển tổng thể KT - XH của các vùng, địa phương, lãnh thổ, gắn mục đích phát triển
kinh tế của địa phương với chuỗi liên kết kinh tế trong nước và đặt trong mối quan hệ
với thương mại thế giới. Việc quy hoạch phải đảm bảo quy hoạch vùng, ngành gắn với
an ninh, quốc phòng, nhằm phát huy tốt lợi thế so sánh và phù hợp với cơ cấu nguồn

16


lao động; sử dụng một cách hợp lý các nguồn lực, bảo vệ môi trường, đồng thời lấy các
KCN làm hạt nhân để hình thành các khu đô thị mới.

Bốn là, các KCN đều có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ,
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như : hệ thống
đường xá, điện, nước, điện thoại. Ở các nước khác, Chính phủ thường bỏ vốn
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN. Ở Việt Nam nguồn vốn đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng KCN được kêu gọi đầu tư từ vốn trong và ngoài nước. Nhà đầu tư
xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN định giá cho thuê, cho thuê lại đất đã
xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật theo quy định của pháp luật.

Năm là, ở nước ta Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về KCN,
trong phạm vi cả nước trên cơ sở phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của
từng Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và Ban Quản lý các KCN cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương theo quy định tại Chương 4, Nghị định 164/2013/NĐCP ngày 12/11/2013,

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày

14/3/2008 của Chính phủ quy định về KCN, khu chế xuất và khu kinh tế.

Khu công nghiệp có quy chế hoạt động riêng, c ác doanh nghiệp trong

KCN được hưởng ưu đãi theo quy định của Chính phủ và địa phương nơi có KCN.
Chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo
môi trường đầu tư thuận lợi hấp dẫn cho phép các nhà đầu tư sử dụng những phạm vi
đất đai nhất định trong KCN để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh với
những ưu đãi về thủ tục xin phép và thuê đất, miễn hoặc giảm thuế.

1.2. Quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò và những nhân tố ảnh hưởng
đến vai trò của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.2.1. Quan niệm về vai trò của khu công nghiệp với sự phát triển
kinh tế - xã hội
Theo Từ điển tiếng Việt, vai trò là “Chức năng, tác dụng trong sự phát
triển của cái gì đó” [31, tr.1057]. Từ đó, có thể hiểu vai trò của KCN chính là
tác dụng của KCN trong sự phát triển KT - XH. Theo đó, vai trò của KCN
với sự phát triển KT - XH là những tác dụng của KCN trong quá trình phát
17


triển KT - XH ở các tỉnh, thành phố trong cả nước góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Từ quan niệm trên có thể hiểu vai trò của KCN với sự phát triển KT XH là những tác dụng của KCN về kinh tế, xã hội, môi trường ở các địa
phương có KCN. Để trở thành một nước công nghiệp đòi hỏi phải có một nền
công nghiệp phát triển ở trình độ cao cả về năng lực sản xuất, trình độ kỹ thuật
công nghệ, hình thức tổ chức sản xuất... Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước
và từ thực tiễn phát triển của Việt Nam cho thấy, tổ chức sản xuất công nghiệp
tập trung tại các KCN đã thật sự mang lại nhiều hiệu quả to lớn không chỉ riêng
cho sự phát triển của ngành công nghiệp, mà còn đổi mới cả nền KT - XH ở
một quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển. Thành công của sự
nghiệp CNH, HĐH gắn liền với sự hình thành và phát triển của các KCN.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phấn
đấu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được

mục tiêu trên cần khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước, đồng thời thu
hút các nguồn lực từ bên ngoài. Nguồn lực trong nước được khai thác có hiệu
quả sẽ tạo điều kiện thu hút và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoài. Ngược
lại, nếu thu hút và sử dụng các nguồn lực bên ngoài sẽ kích thích việc huy
động sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước. Việc xây dựng các KCN
được xem như là giải pháp hết sức quan trọng nhằm tạo điều kiện, môi trường
thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước,
cũng như các nguồn lực bên ngoài. Trên cơ sở đó đẩy mạnh quá trình CNH,
HĐH đất nước, thúc đẩy phát triển KT - XH.
Các KCN có vai trò quan trọng trong việc tập trung các doanh nghiệp
sản xuất, chế biến công nghiệp, nhằm thu hút vốn, công nghệ tiên tiến trong và
ngoài nước vào hoạt động sản xuất; thúc đẩy quá trình nghiên cứu và ứng dụng
các tiến bộ khoa học công nghệ mới, xây dựng các ngành công nghiệp mũi
nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc
18


dân; sử dụng nguyên, nhiên vật liệu và lực lượng lao động tại chỗ, tạo việc làm
mới và hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường, bảo đảm quốc phòng an ninh. Từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy
mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước, từng bước đưa nước ta tham gia vào quá
trình phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hóa, tập trung hóa.
Đồng thời, KCN có tác động lan tỏa tạo điều kiện dẫn dắt các ngành công
nghiệp hỗ trợ, các dịch vụ cần thiết như dịch vụ công nghiệp, dịch vụ tài chính,
ngân hàng, dịch vụ cung cấp nguyên nhiên liệu, các dịch vụ lao động trong
KCN; thu hút lao động góp phần tạo nên khu dân cư tập trung, hình thành nên
các khu đô thị, thành phố công nghiệp; giúp phân bố và sử dụng có hiệu quả
hơn các nguồn lao động của địa phương. KCN là trọng điểm kinh tế của địa
phương, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách, mở mang các ngành nghề
mới, tạo việc làm cho người lao động... Như vậy, KCN có vai trò tiên phong
trong sự nghiệp phát triển KT - XH góp phần quan trọng đẩy mạnh quá trình

CNH, HĐH đất nước.
1.2.2. Nội dung biểu hiện vai trò của khu công nghiệp với sự phát
triển kinh tế - xã hội
Việc hình thành các KCN là một yêu cầu tất yếu của sự phát triển KT XH, nhất là đối với các nước đang phát triển thì việc hình thành các KCN sẽ
nhanh chóng thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH. KCN là
nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng
kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội
như: tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường... Các KCN không chỉ là hạt
nhân để phát triển công nghiệp mà còn là động lực để nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo ra
sức cạnh tranh của nên kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế . Có thể khái quát vai

trò của KCN với sự phát triển KT - XH trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, KCN góp phần thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước.

19


Trong điều kiện kết cấu hạ tầng của nền kinh tế còn thấp kém, môi
trường, thể chế đầu tư chưa hoàn thi ện, việc xây dựng các KCN sẽ giảm bớt một
cách đáng kể khó khăn cho các nhà đầu tư. KCN được đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
hoàn chỉnh, đồng bộ và hiện đại, thuận tiện trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, giảm
chi phí sản xuất và xử lý chất thải tốt đã là một nhân tố để thu hút các nhà đầu tư. Hơn
nữa với quy chế quản lý và hệ thống chính sách ưu đãi về giá thuê đất, thủ tục hành
chính nhanh chóng, các KCN tạo ra được một môi trường đầu tư kinh doanh, thuận lợi,
có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, việc xây dựng các KCN
cũng phù hợp với chiến lược của các công ty xuyên quốc gia trong việc mở rộng phạm
vi hoạt động trên cơ sở tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận, tranh thủ thuế quan ưu đãi từ
phía nước chủ nhà, khai thác thị trường rộng lớn ở các nước đang phát triển. Chính vì
thế mà nguồn vốn đầu tư vào các địa bàn này không ngừng tăng lên. Do vậy, KCN đã

đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Cùng với việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, với những thuận lợi
về vị trí và ưu đãi về chính sách, cơ chế thì KCN còn thu hút được các nhà đầu tư trong
nước. Đây là nguồn vốn tiềm tàng rất lớn trong nhân dân chưa được khai thác và sử
dụng xứng đáng. KCN sẽ tạo môi trường và cơ hội phát huy năng lực về vốn cũng như
sản xuất kinh doanh trong cùng một điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, các doanh nghiệp trong nước sẽ liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước
ngoài. Từ đó, tạo cơ hội để các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tiếp thu kinh
nghiệm quản lý, trình độ điều hành sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ
hiện đại của nước ngoài, góp phần nâng cao trình độ sản xuất. Sự gia tăng vốn đầu tư
vào KCN góp phần quan trọng vào việc tăng tổng vốn đầu tư của toàn xã hội, đóng góp
trực tiếp và việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mặt khác còn có tác động
kích thích tăng đầu tư mới ở các doanh nghiệp ngoài KCN, nghĩa là tạo ra phản ứng
dây chuyền đối với đầu tư phát triển.

Hai là, KCN là nơi tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại và phương
pháp quản lý tiên tiến, góp phần nâng cao trình độ của người lao động.
Đối với các nước đang phát triển ở mức trung bình như Việt Nam
việc xây dựng các KCN để thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ đó tiếp thu công
20


nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà
còn là mục tiêu chiến lược. Muốn phát triển kinh tế thì không thể thiếu khoa học
công nghệ. Mà ở các nước đang phát triển thì trình độ khoa học công nghệ lạc hậu
hơn nhiều so với các nước phát triển. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy việc
tranh thủ được tiến bộ công nghệ của nước ngoài là một trong những bí quyết để
phát triển kinh tế. Chính vì vậy, thu hút đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài,
với việc hình thành các KCN là một trong những giải pháp quan trọng. Các KCN


được quy hoạch theo một kế hoạch và chiến lược phát triển dài hạn của nền
kinh tế với hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật tương đối hiện đại, đồng bộ
và được Nhà nước ưu đãi trong nhập khẩu vật tư, thiết bị, nguồn vốn vay,
lãi suất... là điều kiện thuận lợi cho các KCN có thể tiếp nhận các công
nghệ hiện đại của thế giới. KCN là nơi diễn ra quá trình chuyển giao công
nghệ thông qua nhiều hình thức như: đào tạo công nhân nước chủ nhà để sử
dụng máy móc, thiết bị, công nghệ sản xuất, đưa máy móc hiện đại sang để
tiến hành sản xuất nhằm mục đích tạo năng suất lao động cao, tạo ra sản
phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và thị trường nội địa. Mặt
khác, các KCN tạo ra sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau trong việc
nhập khẩu, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới, tận dụng
được những lợi thế của nước đi sau, rút ngắn được khoảng cách về khoa học kỹ
thuật với các nước đi trước. Những kết quả này không chỉ mang lại cho KCN mà nó
còn tác động mạnh đến việc thay đổi công nghệ, trang thiết bị, chất lượng sản phẩm,
cơ chế hoạt động, kiến thức và phương pháp quản lý của các doanh nghiệp ngoài
KCN, làm cho các doanh nghiệp này cũng đổi mới để đạt hiệu quả kinh tế cao.

Cùng với các trang thiết bị hiện đại, công nghệ kỹ thuật tiên tiến thì đội ngũ
cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật và lao động làm việc tại các KCN sẽ được đào
tạo lại, đào tạo bổ sung cho thích hợp và trực tiếp tiếp thu tác phong công nghiệp,
kinh nghiệm quản lý, phương pháp kiểm tra chất lượng hiện đại thích ứng với cơ
chế thị trường và đạt hiệu quả cao. Các KCN là môi trường rất tốt để rèn

luyện tác phong, nâng cao kỷ luật, trình độ chuyên môn cho người lao

21


động, hình thành lực lượng lao động của nền công nghiệp hiện đại có ý

thức và tác phong công nghiệp; tạo ra đội ngũ quản lý trình độ cao, có bản
lĩnh, có kinh nghiệm do họ được tiếp cận với những dây chuyền sản xuất
hiện đại. Mặt khác, các doanh nghiệp trong KCN thường tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng để nâng cao trình độ cho người lao động để đáp ứng với yêu
cầu của việc phát triển sản xuất. Đã hình thành hệ thống các trường dạy
nghề đào tạo công nhân làm việc trong các KCN, tạo sự liên kết giữa
doanh nghiệp với các nhà trường để đào tạo lao động kỹ thuật có chất
lượng cao. Điều đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các
doanh nghiệp trong KCN nói riêng, cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
nói chung.
Ba là, KCN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát
triển, từ đó đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
theo hướng hiện đại.
Khu công nghiệp là một công cụ hữu hiệu để thu hút các doanh nghiệp
công nghiệp và dịch vụ công nghiệp, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển
công nghiệp của mỗi quốc gia. Bởi vì, KCN là nơi tập trung những ngành sản
xuất công nghiệp chủ yếu, tạo ra những sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và
đáp ứng nhu cầu trong nước. Các doanh nghiệp công nghiệp có cơ hội tận dụng
năng lực sản xuất của nhau, làm tăng hiệu suất hoạt động của các công trình hạ
tầng giúp các doanh nghiệp công nghiệp trong KCN tiết kiệm được các yếu tố
đầu vào, nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất, góp
phần quan trọng làm tăng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp. Đồng thời,
các KCN ra đời đã tạo nên những vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích
cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình
dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao
hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất.

22



Từ việc thúc đẩy phát triển công nghiệp, KCN đóng góp quan trọng
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại nâng cao tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp của cả nước và của
các địa phương nơi có KCN. KCN góp phần đáng kể trong chuyển các vùng
nông nghiệp lạc hậu với năng suất thấp thành các vùng công nghiệp phát triển
toàn diện về kinh tế, văn hoá, xã hội. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch khá nhanh
theo hướng phi nông nghiệp và sản xuất hàng hóa xuất khẩu.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã kéo theo sự
chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực. Tỷ trọng lao động trong các
ngành công nghiệp và dịch vụ gia tăng nhanh, lao động trong nông nghiệp
giảm dần, tỷ lệ lao động được đào tạo ngày càng lớn, lao động lành nghề với
trình độ cao trong các ngành công nghiệp được bổ sung đáng kể.
Bốn là, khu công nghiệp góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập qua đó
nâng cao đời sống người lao động.
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với sự phát triển KT - XH của đất nước. Sự hình thành và phát triển KCN
không chỉ thu hút lao động vào các doanh nghiệp trong KCN mà còn kích
thích các hoạt động dịch vụ phát triển. Qua đó, góp phần tích cực trong tạo,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động tại địa phương nhất là ở khu
vực nông thôn. Cùng với đó, việc xây dựng nhà ở, nhà trẻ và các công trình
phục vụ người lao động tại các doanh nghiệp trong KCN cũng được triển khai
thực hiện, đời sống người lao động được nâng lên. Đáng lưu ý, với những
vùng nông thôn nghèo, đất đai sình lầy, hoang hóa, ít có khả năng sinh lợi thì
việc phát triển KCN sẽ tạo sự chuyển biến tích cực, rõ nét về KT - XH so với
trước khi KCN được triển khai.
Năm là, KCN tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có
giá trị góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH của đất nước.
Các KCN chính là một trong những điểm đột phá trong xây dựng và
nâng cấp kết cấu hạ tầng KT - XH, đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH
23



đất nước. Các nhà đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN đã huy động vốn xây dựng
kết cấu hạ tầng KCN để kết nối đồng bộ với kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào
KCN vừa có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc triển
khai nhanh dự án sản xuất kinh doanh, vừa góp phần cải thiện hệ thống kết
cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng nông thôn của các địa phương. Qua đó, hình
thành hệ thống hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông đồng bộ nối trong
và ngoài KCN, điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển của các KCN
mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT - XH của các địa phương.
Tại các địa phương có KCN việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong
và ngoài KCN sẽ góp phần đáng kể hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng KT XH, làm thay đổi diện mạo của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy
mạnh thu hút đầu tư vào KCN và thúc đẩy sự phát triển KT - XH của địa
phương nói riêng, của đất nước nói chung.
Sáu là, KCN có sức lan tỏa thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ
sản xuất và đời sống.
Khu công nghiệp có sức lan tỏa tạo điều kiện dẫn dắt các ngành công
nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ sản xuất phát triển như: dịch vụ tài chính,
ngân hàng, dịch vụ cung cấp nguyên nhiên liệu, dịch vụ logicstic, dịch vụ đào
tạo và cung cấp lao động... Đồng thời, KCN kéo theo sự phát triển các ngành
dịch vụ đời sống như chợ, siêu thị, các dịch vụ bưu điện, du lịch, dịch vụ cho
thuê nhà ở, vận tải công cộng... từ đó hình thành các khu đô thi tập trung,
cùng các công trình hạ tầng xã hội đã đưa mạng lưới đô thị ngày càng mở
rộng và phát triển. KCN sẽ là hạt nhân để xây dựng và phát triển các khu đô
thị mới, văn minh, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội cho khu
vực rộng lớn được đô thị hóa. Ở các đô thị gắn liền với KCN thì bộ phận chủ
yếu của dân cư đô thị là những người lao động và quản lý trong các KCN. Họ có
nhu cầu đi lại, ăn ở, nghỉ ngơi, giải trí phù hợp với yêu cầu làm việc trong KCN.
Như vậy, cùng với sự phát triển các loại hình dịch vụ sản xuất và đời sống kéo
theo sự phát triển KT - XH của một vùng kinh tế cũng như của cả quốc gia.

24


Bẩy là, KCN được xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ
môi trường sinh thái.
Hiện nay bảo vệ môi trường là vấn đề được hầu hết các nước trên thế
giới quan tâm trong quá trình phát triển KT - XH. Các chất thải trong quá
trình sản xuất cần được thu gom và xử lý. Nếu các doanh nghiệp được phân
bố phân tán thì việc xử lý chất thải gặp rất nhiều khó khăn. Việc xây dựng các
KCN là một trong những biện pháp quan trọng để xử lý chất thải, bảo vệ môi
trường. KCN cho phép tập trung các doanh nghiệp công nghiệp để xây dựng
các trung tâm xử lý chất thải với chi phí ít tốn kém hơn, đồng bộ hơn, tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho việc quản lý môi trường của cơ quan chức năng.
Các KCN được áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường từ khâu quy
hoạch đến thẩm định xét duyệt dự án đầu tư và có cơ quan quản lý môi trường
của Nhà nước. Các doanh nghiệp hoạt động buộc phải có hệ thống xử lý chất
thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. Vì vậy, vấn đề bảo
vệ môi trường trong KCN được thực hiện tốt hơn so với các cơ sở công
nghiệp nằm rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Đồng thời, KCN là địa điểm
tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ở nội thành, các vùng
dân cư, phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển bền vững.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của khu công nghiệp đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của KCN với sự phát triển KT XH, bên cạnh những nhân tố mang tính khách quan như: tình hình chính trị - xã
hội, vị trí bố trí các KCN, kết cấu hạ tầng KCN còn có những nhân tố chủ quan
như: cơ chế chính sách đối với KCN, trình độ công nghệ của các dự án đầu tư
vào KCN, chất lượng nguồn nhân lực trong các KCN v.v…
* Nhóm nhân tố khách quan
Một là, tình hình chính trị - xã hội.


25


×