Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP vừa và NHỎ ở TỈNH THANH hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.75 KB, 90 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp và xây dựng
Doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đăng kí kinh doanh
Kế hoạch và Đầu tư
Kinh tế - Xã hội
Khu vực công nghiệp
Khoa học và Công nghệ
Ngân sách nhà nước
Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Sản xuất kinh doanh
Uỷ ban nhân dân

Chữ viết tắt
CN-XD
DNNN
DNVVN
ĐKKD
KH - ĐT
KT - XH
KVCN
KH - CN
NSNN
NLTS
SXKD
UBND

MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

3


Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH THANH HÓA

11

1.1.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ và phát triển doanh nghiệp vừa
11

1.2.

và nhỏ
Quan niệm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa

22

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ Ở TỈNH THANH HÓA THỜI GIAN QUA


2.1.

Đặc thù điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa

2.2.

có ảnh hưởng đến sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra

32
32

cần giải quyết về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
tỉnh Thanh Hóa
Chương 3

35

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
Ở TỈNH THANH HÓA THỜI GIAN TỚI

60

3.1.

Quan điểm cơ bản nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và
60


3.2.

nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa thời gian tới
Giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa thời gian tới

68

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

84
85

89


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của các nước, DNVVN có vai trị và tác dụng
rất quan trọng. Gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - cơng nghệ
và xu hướng tồn cầu hóa kinh tế diễn ra khá sơi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế
và quản lý doanh nghiệp có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNVVN lại
càng được chú trọng.
Ở nước ta, DNVVN cũng có vai trị hết sức to lớn đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Những năm qua, nền kinh tế nước ta đã đạt được những
thành tựu rất to lớn: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ, tăng
trưởng kinh tế ổn định trong một thời gian dài... Kết quả đó có sự đóng góp quan

trọng của các DNVVN. Vì vậy, phát triển doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là
DNVVN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước cũng như
chính quyền địa phương các cấp trong giai đoạn hiện nay.
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, những năm qua, các DNVVN đã có sự
phát triển về số lượng, quy mô; phát triển về chất lượng và cơ cấu. Các doanh
nghiệp này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Tỉnh. Điều
đó được minh chứng qua sự đóng góp vào tăng trưởng GDP của Tỉnh ngày
một cao. Hàng năm, các doanh nghiệp này đã thu hút và giải quyết việc làm
cho hàng vạn lao động, góp phần ổn định trị an xã hội, cải thiện và đa dạng
hóa các nguồn thu nhập cho dân cư. Như vậy, phát triển DNVVN ở tỉnh
Thanh Hóa khơng những đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của
Tỉnh mà còn tạo ra sự ổn định về mặt xã hội thông qua việc tạo việc làm cho
người lao động, giảm khoảng cách giàu nghèo và các tệ nạn xã hội.
Tuy nhiên, quá trình phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hoá thời gian
qua đang cịn tồn tại những hạn chế như: Qui mơ doanh nghiệp chủ yếu là nhỏ
và cực nhỏ, công nghệ lạc hậu, cơ cấu chưa hợp lý, liên kết hợp tác còn lỏng
lẻo, hiệu quả kinh tế - xã hội chưa cao... Điều đó nói lên bản thân DNVVN cịn

3


nhiều hạn chế và khó khăn. Mặt khác, tỉnh Thanh Hố chưa có nhiều biện pháp
thực sự phù hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển; một số cơ chế,
chính sách, giải pháp đã đề ra, song triển khai thực hiện chưa đạt hiệu quả
cao, chưa tương xứng với những tiềm năng và thế mạnh của Tỉnh. Vì vậy,
thời gian tới cần phải nghiên cứu thấu đáo cả về mặt lý luận và thực tiễn để
có những chủ trương, cơ chế, chính sách đúng, thật sự hợp lý để phát triển
DNVVN, từ đó tạo động lực thúc đẩy KT - XH ở tỉnh Thanh Hóa phát triển
nhanh và vững chắc.
Nhận thức được điều đó, tác giả đã tâm đắc lựa chọn đề tài “Phát triển

doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ, chun ngành Kinh tế Chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam từ trước đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học đề cập
đến vấn đề DNVVN ở những góc độ khác nhau, trong đó bàn nhiều về DNVVN
ở phạm vi từng địa phương, từng ngành có các cơng trình đáng chú ý sau:
Nguyễn Cúc, Hồ Vĩnh Thắng, Đặng Ngọc Lợi, Nguyễn Hữu Thắng
(2003), Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Tập thể các tác giả đã đưa ra tiêu thức phân loại DNVVN; phân tích
đặc điểm, tiềm năng, lợi thế và hạn chế của các DNVVN ở Việt Nam; chỉ ra
kinh nghiệm của các nước trong việc hỗ trợ phát triển các DNVVN; xác định
một số quan điểm hỗ trợ, tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ
DNVVN, đặc biệt là hình thành các khung khổ pháp lý, đổi mới hệ thống pháp
lý liên quan, hình thành các cơ quan quản lý nhà nước đối với các DNVVN.
Lê Xuân Bá, Trần Kim Hào, Nguyễn Hữu Thắng (2005), DNVVN Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội. Các tác giả đã đi thẳng vào phân tích những tác động, cơ hội, thách thức
và yêu cầu đặt ra đối với các DNVVN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế; phân tích tình hình phát triển, thực trạng kinh doanh của

4


DNVVN, đồng thời nêu ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm
tăng cường năng lực cạnh tranh của DNVVN trong những năm tới.
Ngọ Văn Duy (2005), Vai trò của DNVVN đối với xây dựng lực lượng
dự bị, tự vệ động viên trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ Kinh tế
Chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả đưa ra quan niệm và chỉ rõ ưu
thế của DNVVN ở nước ta như: Dễ thích ứng với cơng nghệ mới; sử dụng có
hiệu quả các nhân tố đầu vào của sản xuất; thu hút được nhiều lao động, việc

làm và nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội... đồng thời, tác giả đã đưa ra quan
điểm và các nhóm giải pháp nhằm phát huy vai trò của DNVVN đối với xây
dựng lực lượng dự bị động viên trên địa bàn Tỉnh.
Nguyễn Xuân Qúy (2007), Tác động của phát triển DNVVN đến xây
dựng khu vực phòng thủ tỉnh Bắc Ninh hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế
Chính tri, Học viện Chính trị, Hà Nội. Trong đó, tác giả tập trung bàn đến vấn
đề phát triển DNVVN ở tỉnh Bắc Ninh và tác động của phát triển DNVVN
trên địa bàn Tỉnh đến xây dựng khu vực phòng thủ Tỉnh trong thời gian tái lập
Tỉnh từ năm 1997 đến nay. Theo tác giả, trong thời gian qua ở Bắc Ninh, sự
phát triển của các DNVVN đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế và
ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, xây dựng niềm tin của nhân dân vào
đảng, chính quyền, vào chủ nghĩa xã hội; tăng cường về mọi mặt cho xây
dựng khu vực phòng thủ Tỉnh vững chắc. Tuy nhiên, phát triển DNVVN trên
địa bàn Tỉnh trong điều kiện kinh tế thị trường với những yếu kém về quản lý
và cơ chế, chính sách chưa phù hợp đã có tác động tiêu cực đến việc huy động
kinh tế, lực lượng; khó khăn trong quản lý an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội của khu vực phịng thủ Tỉnh. Tác giả đã đưa ra hệ thống nhóm giải pháp
góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển DNVVN với tăng cường, củng cố sức
mạnh cho khu vực phòng thủ Tỉnh.
Trần Sửu (2006), Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều
kiện tồn cầu hóa, Nhà xuất bản lao động, Hà Nội. Tác giả đã phân tích, đề
cập đến cạnh tranh trong điều kiện tồn cầu hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến

5


năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chỉ rõ các nhân tố cấu thành và tiêu chí
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp Việt Nam, tác giả đã đưa
ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

Việt Nam trong điều kiện toàn cầu.
Phạm Văn Minh (2009), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiêp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị, Học
viện Chính trị, Hà Nội. Trong đó, tác giả tập trung luận giải một số vấn đề về
cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của DNVVN làm cơ sở để phân tích, đánh giá
thực trạng năng lực cạnh tranh của các DNVVN ở tỉnh Thái Bình. Từ đó đề
xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DNVVN tỉnh Thái Bình thời gian tới.
Nguyễn Thị Thanh Bình (2012), Một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho
sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Luận văn thạc sĩ Kinh tế Chính
trị, trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo tác giả, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay, sự tồn tại nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều loại
hình doanh nghiệp với những quy mơ, trình độ khác nhau là tất yếu. Việc tập
trung sản xuất ở quy mô nhỏ sẽ khai thác tối đa lợi thế về tính đa dạng hóa
của sản phẩm, đáp ứng từng phân khúc rất nhỏ của thị trường, giúp các doanh
nghiệp tìm được chỗ đứng trên thị trường, đồng thời cũng giảm thiểu rủi ro do
biến động của thị trường. Do quy mô gọn nhẹ nên khả năng thu hút vốn trong
dân dễ dàng và nhanh chóng, phát huy được nội lực trong nền kinh tế. Hầu
hết các lĩnh vực của nền kinh tế đều có các DNVVN là một nhiệm vụ quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh cơng ngiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Nguyễn Trường Sơn (2014), Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam hiện nay” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả tập hợp những
vấn đề chung về DNVVN, đặc biệt là sự phát triển lý luận và các nghiên cứu

6


chuyên sâu về các đặc trưng của DNVVN xuất phát từ cấu trúc bên trong của

doanh nghiệp; nghiên cứu các nhân tố tác động đến quá trình tăng trưởng và
phát triển của doanh nghiệp; nghiên cứu các vấn đề vận dụng khoa học quản
trị công ty, tạo lập quan hệ lao động lành mạnh trong doanh nghiệp, tác giả đã
bàn sâu và đưa ra giải pháp về vấn đề quản lý nhà nước đối với DNVVN ở
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm Quang Trung (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 129 (2008).
Tác giả phân tích và luận giải những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn như: Vấn đề khó khăn về vốn và sự
hạn chế trong tiếp cận các nguồn tài chính; nhiều doanh nghiệp trong nhận
thức chưa rõ ràng, còn mơ hồ về xây dựng và phát triển thương hiệu, chưa có
chiến lược Marketing để chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước; đội ngũ
cán bộ và đội ngũ công nhân lành nghề trong nhiều doanh nghiệp cịn thiếu và
yếu; trình độ máy móc, thiết bị, cơng nghệ rất lạc hậu nên đã ảnh hưởng
không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của DNVVN trên địa bàn như: Đa dạng
hóa các kênh tài chính; nâng cao vốn điều lệ của doanh nghiệp; phát triển
thương hiệu; xây dựng và phát triển hệ thống phân phối, thúc đẩy đầu tư phát
triển cơng nghệ.
Nguyễn Cơng Tạn (2003), Vị trí chiến lược của doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong sự phát triển kinh tế - xã hội nơng thơn Việt Nam, Tạp chí Kinh tế
và Phát triển số 67 (01/2003). Tác giả đã đề cập đến những điều kiện cần và
đủ cho sự ra đời của DNVVN. Trên cơ sở những lợi thế như tính năng động
và khả năng thích ứng tốt; tinh thần tự lực, tự cường cao, không dựa dẫm, ỷ
lại vào Nhà nước nên các DNVVN ở nước ta đã có nhiều đóng góp quan
trọng như việc thu hút đáng kể nguồn vốn trong xã hội, thúc đẩy quá trình
tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho khu vực nông thôn, nâng cao thu
nhập cho lao động nông thôn. Mặt khác, tác giả đã chỉ ra những yếu kém, khó
khăn của các DNVVN địi hỏi phải có sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nước

7



như vốn kinh doanh của từng doanh nghiệp rất nhỏ, khả năng tiếp cận vốn tín
dụng rất khó khăn, cách quản lý ở nhiều doanh nghiệp chưa khoa học.
Nguyễn Văn Trường (2004), Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở Việt Nam, Tạp chí Cộng Sản Điện tử số 64 (2004).
Trên cơ sở trình bày khái quát về vai trò của các DNVVN ở Việt Nam
và đề cập đến những vấn đề về thể chế, chính sách, thủ tục pháp lý... của nhà
nước đối với DNVVN thời gian qua và những hạn chế của các hỗ trợ đó, tác
giả đề xuất các giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam trong thời gian tới
gồm: Hoàn thiện khung pháp lý; ưu tiên về một số chính sách; có biện pháp
phát triển thị trường chứng khoán; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước với các định chế quốc tế; tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, phát triển
dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp và nâng cao trình độ của các chủ doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy đề tài phát triển DNVVN ở nước ta tuy không cịn
là vấn đề mới, song nhìn nhận loại hình doanh nghiệp này từ vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế và yêu cầu phát triển doanh nghiệp đáp ứng
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước lại là một địi hỏi mang tính
khách quan. Ở tỉnh Thanh Hố, cho tới nay chưa có cơng trình khoa học nào
nghiên cứu về các DNVVN dưới góc độ là một đối tượng nghiên cứu của
chuyên ngành KTCT, mà chỉ mới được nghiên cứu đơn lẻ trong các chuyên
ngành khác. Do vậy, việc nghiên cứu nhằm phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết và vẫn còn những khoảng trống
cần tiếp tục được làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy, đề tài này
không trùng lặp với các đề tài đã nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh
Hóa, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát

triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa.

8


- Đánh giá thực trạng phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa thời gian qua,
xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các DNVVN đang hoạt động sản
xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh Thanh Hố.
* Phạm vi nghiên cứu
- Loại hình doanh nghiệp: Là tồn bộ các đơn vị kinh tế hạch tốn độc lập,
có đầy đủ tư cách pháp nhân, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được thành lập theo quy định của pháp luật (Luật doanh nghiệp, Luật hợp
tác xã), đang tồn tại về mặt pháp lý tại thời điểm 31/12 hàng năm.
- Nội dung: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động
của DNVVN thời gian qua.
- Thời gian: Nghiên cứu DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2009 đến nay.
- Không gian: Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bao gồm:

- Hệ thống phương pháp nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.

9


- Phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế Chính trị Mác - Lênin
và các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa
và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực
tiễn về phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa.
- Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho đảng bộ, chính
quyền tỉnh Thanh Hóa trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển DNVVN ở tỉnh
Thanh Hóa thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên
cứu và học tập, giảng dạy mơn Kinh tế Chính trị ở các nhà trường trong
và ngoài Quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở
TỈNH THANH HÓA

1.1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.1.1. Khái niệm, tiêu chí xác định, đặc điểm và vai trị của doanh
nghiệp vừa và nhỏ
* Khái niệm doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Lược sử tính tất yếu khách quan của sự phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, DNVVN ra đời sớm
hơn doanh nghiệp lớn. Lịch sử của các DNVVN là các hộ gia đình sản xuất tự
cung tự cấp. DNVVN không chỉ là một phạm trù phản ánh độ lớn của doanh
nghiệp mà là một phạm trù bao hàm nội dung tổng hợp về kinh tế tổ chức sản
xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học - công nghệ. DNVVN tồn tại và phát
triển là tất yếu khách quan phù hợp với yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hóa gắn với sự hình
thành và phát triển của các doanh nghiệp. Nền sản xuất hàng hóa xuất hiện
khi sự phân cơng lao động đạt đến một trình độ nhất định, cùng với chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất được xác lập.
Trong giai đoạn sản xuất hàng hóa giản đơn khơng có sự phân biệt giữa
giới chủ và giới thợ. Người sản xuất hàng hóa vừa là người chủ sở hữu tư liệu
sản xuất, là người lao động trực tiếp, vừa là người quản lý cơng việc của mình,
vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi thị trường. Đó là
loại doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp gia đình.
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng, thông thường đại đa số những
người khi mới trưởng thành đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh.
Bắt đầu sự nghiệp với số vốn nhỏ. Trong quá trình kinh doanh, một số người

11


thành đạt đã phát triển doanh nghiệp của mình bằng cách mở rộng quy mô
SXKD và như vậy, nhu cầu về vốn địi hỏi sẽ nhiều hơn. Từ đó, thơi thúc các

nhà doanh nghiệp hoặc là vài ba người cùng nhau góp vốn liên doanh, thành
lập xí nghiệp liên doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần...
để phát triển doanh nghiệp.
Ngày nay, khi cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra như vũ bão và
tác động sâu sắc tới sự thay đổi của sản xuất, quản lý và đời sống thì DNVVN
cũng có sự thay đổi về chất so với DNVVN của các thế kỷ trước. Cùng với sự
phát triển của kinh tế thị trường, mơ hình DNVVN ngày càng được mở rộng
và phổ biến không chỉ ở các nước công nghiệp phát triển mà cả ở những nước
đang phát triển và kém phát triển.
- Khái niệm về doanh nghiệp
Để nhận diện DNVVN một cách có cơ sở khoa học chúng ta đi từ việc xác
định doanh nghiệp nói chung. Cho đến nay có nhiều cách hiểu về doanh nghiệp.
Theo Viện thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp - INSEE “Doanh
nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính là sản xuất ra các của cải
vật chất hoặc dịch vụ để bán” [32, tr.6].
Luật doanh nghiệp năm 2014, giải thích: Doanh nghiệp là tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh [37, tr.9].
- Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việc đưa khái niệm chuẩn xác về DNVVN có ý nghĩa rất lớn để xác
định đúng đối tượng được phân loại, từ đó có chính sách ưu tiên, hỗ trợ. Vì
vậy hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu chí phân loại DNVVN. Tuy nhiên,
khơng có sự phân loại chung nào được thống nhất trên bình diện quốc tế về
những yếu tố cấu thành một DNVVN. Khái niệm và tiêu chí phân loại
DNVVN ở các nước có sự khác nhau; thậm chí ngay trong một nước, tiêu chí

12


đánh giá cũng có sự thay đổi theo thời gian. Sự phân loại doanh nghiệp theo

quy mô vừa và nhỏ chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
DNVVN có thể chia thành ba loại cũng căn cứ vào quy mơ, đó là
doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Mỗi thời
kỳ, giai đoạn và ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định
DNVVN khác nhau.
Ở Việt Nam, ngày 30/6/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Nghị định đã đưa ra một
định nghĩa chung về DNVVN để các ban ngành, địa phương, các tổ chức
trong và ngồi nước có căn cứ xác định đối tượng thực hiện chính sách và
các biện pháp trợ giúp DNVVN phát triển. Theo đó, DNVVN là cơ sở kinh
doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba
cấp: Siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mơ tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình
qn năm [8].
* Tiêu chí xác định
Hiện nay, trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, cụm từ
DNVVN được sử dụng một cách phổ biến. Đối với các nước phát triển, khái
niệm DNVVN được biết đến từ những năm đầu của thế kỷ XX, khu vực
DNVVN đã được quan tâm phát triển từ những năm 50 của thế kỷ XX. Ở
Việt Nam, khái niệm DNVVN được biết đến từ những năm 1990 đến nay,
nhưng còn nhiều quan điểm khác nhau về DNVVN. Theo tiêu chí của Ngân
hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động
dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50
người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động.
Ở mỗi nước, người ta có tiêu chí riêng để xác định DNVVN khác nhau.
Nhìn chung đều dựa vào hai tiêu chí chủ yếu là số lượng lao động và tổng vốn
đầu tư để xác định loại hình DNVVN, nhưng ở mỗi nước, mức độ định lượng
là rất khác nhau.

13



Bảng 1.1: Tiêu chí phân loại DNVVN ở một số quốc gia
Tên nước
Phân loại
Tất cả các ngành
Mỹ
Nhật Bản Chế tác
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ
DN cực nhỏ
EU
DN nhỏ
DN vừa
Thái Lan Sản xuất nhỏ
Sản xuất vừa
Bán buôn nhỏ
Bán buôn vừa
Bán lẻ nhỏ
Bán lẻ vừa
Xingapo
-

Số lao động
≤ 500
≤ 300
≤ 100
≤ 50
≤ 100
< 10

<50
< 250
<100

Số vốn

Doanh thu
<300 triệu yên
≤100 triệu yên
≤ 50 triệu yên
≤ 100 triệu yên
7 triệu ero
40 triệu ero
≤50 triệu bạt
50-200 triệu bạt
≤ 50 triệu bạt
50-100 triệu bạt
≤ 30 triệu bạt
30-60 triệu bạt
< 1,2 triệu đô la
-

Nguồn: APEC 1998 và OECD 2000.
Ở Việt Nam, sự hình thành quan niệm và cách phân loại DNVVN cũng
rất khác nhau qua các thời kỳ phát triển của đất nước.
Trước năm 1998, nhà nước chưa có văn bản pháp luật nào qui định tiêu
chí cụ thể về DNVVN. Do đó, mỗi tổ chức, mỗi địa phương đưa ra một quan
niệm khác nhau về DNVVN, nhằm định hướng mục tiêu và đối tượng hỗ trợ
của tổ chức, địa phương mình. Cụ thể:
Ngân hàng Cơng thương đưa ra tiêu chí DNVVN là những doanh

nghiệp có giá trị tài sản cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ
đồng, doanh thu dưới 8 tỷ đồng và số lao động thường xuyên dưới 500 người.
Thành phố Hồ Chí Minh xác định những doanh nghiệp có vốn pháp
định trên 1 tỷ đồng, lao động thường xuyên có trên 100 người và doanh thu
hàng năm trên 10 tỷ đồng là doanh nghiệp có qui mơ vừa. Những doanh
nghiệp dưới mức tiêu chuẩn trên là những doanh nghiệp nhỏ.

14


Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) tại Việt
Nam lại đưa ra tiêu thức xác định DNVVN dựa trên mục tiêu hỗ trợ của họ:
Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50 lao động, tổng số vốn và
doanh thu ít hơn 1 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao
động thường xuyên từ 51 đến 200 người, tổng số vốn và doanh thu từ 1 tỷ
đến 5 tỷ đồng.
Hiện nay, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ
qui định DNVVN ở nước ta gồm: Doanh nghiệp Nhà nước; doanh nghiệp ngồi
Nhà nước: Hợp tác xã; doanh nghiệp tư nhân; cơng ty hợp doanh; công ty trách
nhiệm hữu hạn; công ty cổ phần; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Tiêu chí DNVVN được xác định như sau:
Bảng 1.2: Tiêu chí phân loại DNVVN ở Việt Nam
Quy mô Khu vực

DN siêu

DN nhỏ

nhỏ


Tổng

Số lao

nguồn

động
(người)
I. Nông, lâm nghiệp
và thủy sản
II. Công nghiệp và
xây dựng
III. Thương mại và
dịch vụ

vốn
(tỷ đồng)

DN vừa

Số lao

Tổng

động

nguồn vốn

(người)


(tỷ đồng)

Số lao động
(người)

< 10

≤ 20

10 - 200 > 20 - 100 > 200 - 300

< 10

≤ 20

10 - 200 > 20 - 100 > 200 - 300

< 10

≤ 10

10 - 50

> 10 - 50

> 50 - 100

Theo cách phân loại này, số lượng DNVVN chiếm 97% tổng số doanh
nghiệp hiện có tại Việt Nam [46].
* Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ

Một là, các DNVVN có tính linh hoạt, năng động cao, dễ thích ứng với
các biến động của thị trường.
Do qui mô không lớn nên DNVVN rất năng động và dễ thích ứng với

15


những thay đổi nhanh chóng của thị trường. Khi phải thay đổi cơ cấu sản
xuất, cơ cấu lao động, DNVVN gặp ít khó khăn hơn so với các doanh nghiệp
lớn. Những máy móc, cơng nghệ cũ có thể dễ dàng bán đi để thay bằng dây
chuyền mới sản xuất sản phẩm mới, điều này đối với các doanh nghiệp lớn sẽ
khó thực hiện hơn nhiều, nó ln địi hỏi chi phí lớn, thời gian dài mới có thể
làm được. Trong một số trường hợp, DNVVN cịn năng động thích ứng nhanh
với những biến động về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế của nhà nước.
Trong thương mại, nhờ tính linh hoạt, dễ tham gia thị trường, cũng như dễ rút
lui khỏi thị trường khi điều kiện kinh doanh không thuận lợi, nên DNVVN dễ
tìm kiếm lợi nhuận từ những “ngách” của thị trường, đặc biệt là trong giai
đoạn chuyển đổi của nền kinh tế.
Hai là, dễ khởi nghiệp: Do vốn ít, lao động khơng địi hỏi chun mơn
cao; qui trình tổ chức quản lý trong các DNVVN gọn nhẹ, khi hoạt động kinh
doanh gặp khó khăn thì nội bộ doanh nghiệp dễ dàng bàn bạc, thống nhất
hành động. Hơn nữa với đặc tính chu kỳ sản phẩm ngắn nên các doanh nghiệp
có thể sử dụng vốn tự có hoặc vay mượn bạn bè, các tổ chức tín dụng. Vì vậy,
DNVVN dễ dàng khởi sự và hoạt động nhạy bén theo cơ chế thị trường. Thực
tế ở Việt Nam đã có rất nhiều DNVVN do khơi phục và phát triển các ngành
nghề truyền thống trong từng hộ gia đình, từng dịng họ, làng nghề của nơng
thơn Việt Nam đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Mặt khác, nếu chủ thể
nào đó có ý tưởng sản xuất kinh doanh cộng với một số ít vốn, một số lao
động nhất định và mặt bằng khơng lớn là có thể khởi sự được doanh nghiệp.
Ba là, DNVVN có một số lợi thế trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu

của người tiêu dùng, qua đó sáng tạo ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Về khía cạnh này,
có thể nói DNVVN có một số lợi thế trong việc định hướng và làm xuất hiện
nhiều nhu cầu mới từ phía người tiêu dùng.
Bốn là, hầu hết các DNVVN có qui mô nhỏ, thiếu các nguồn lực để tiến

16


hành các dự án đầu tư lớn; khả năng mở rộng thị trường đầu ra, đặc biệt là thị
trường quốc tế có nhiều hạn chế; nhiều doanh nghiệp thiếu tính chiến lược và
khơng có kế hoạch dài hạn. Sự liên kết, hợp tác giữa các DNVVN là sự liên
kết hợp tác theo hiệp hội ngành hàng, theo địa bàn không bền vững.
Năm là, khả năng về công nghệ thấp, do khơng đủ tài chính cho nghiên
cứu, triển khai hay tiếp nhận cơng nghệ tiên tiến, việc hình thành nên các cơng
nghệ mới tại các DNVVN là điều hết sức khó khăn. Những doanh nghiệp nào có
sáng kiến về cơng nghệ mới đôi khi phải bán lại sáng kiến cho các doanh nghiệp
lớn hơn, có đủ khả năng tài chính trong việc nghiên cứu triển khai cơng nghệ.
Sáu là, trình độ lao động có tay nghề thấp. Đa số lao động trong
DNVVN chỉ là lao động phổ thông, chưa qua các lớp đào tạo bài bản, do đó
sức lao động ở đây thường rẻ hơn so với lao động đã qua đào tạo, có trình độ
cao; chế độ đãi ngộ nhân viên thường khơng được chú trọng. Vì thế, các chủ
DNVVN thường không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong
việc thuê lao động có tay nghề, có trình độ cao... do hạn chế về mặt tài chính.
* Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường
Một là, đóng vai trị quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang
phát triển, DNVVN chiếm tỷ trọng cao, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế. Tốc độ gia tăng số lượng các DNVVN nhanh hơn so với các loại hình doanh
nghiệp khác. Các DNVVN hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành công

nghiệp, thương mại, dịch vụ. Từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các
ngành công nghiệp kỹ thuật cao, tạo khả năng gia công, thầu phụ cho các
doanh nghiệp lớn. Sự phát triển có hiệu quả, nguồn vốn quay vịng nhanh trong
các DNVVN góp phần nâng cao tích luỹ tài sản trong nước.
Doanh nghiệp tạo ra khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn hơn, phong
phú hơn, chất lượng tốt hơn, thay thế được nhiều mặt hàng phải nhập khẩu,
góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng
xuất khẩu, đó cũng là nhân tố giữ cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Vì

17


vậy, các doanh nghiệp này góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc
dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi
nước. Riêng ở Việt Nam, trong những năm qua, mỗi năm các DNVVN đóng
góp khoảng 25% GDP của cả nước [46, tr.16].
Hai là, gia tăng tính năng động của nền kinh tế
DNVVN là nhân tố tạo nên sự năng động của nền kinh tế trong cơ chế
thị trường. Do số lượng các DNVVN tăng lên rất nhanh, làm gia tăng số
lượng, chủng loại hàng hố, dịch vụ và làm tăng tính cạnh tranh trong nền
kinh tế. Chính sự cạnh tranh của doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường,
mẫu mã sản phẩm, giá cả hàng hóa… đã thúc đẩy nền kinh tế ngày càng trở
nên năng động.
Với quy mô vừa và nhỏ, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp các địa
phương, các khu vực, nên DNVVN có khả năng tận dụng các tiềm năng về
lao động, về nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương, sử dụng sản phẩm phụ
hoặc phế liệu, phế phẩm của doanh nghiệp lớn. Lợi thế của quy mô nhỏ là
năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh với nhiều hình thức, có nhiều
khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới cơng nghệ, sự
kết hợp chun mơn hố và đa dạng hố mềm dẻo, đáp ứng kịp thời những

địi hỏi của nền kinh tế thị trường. Vì thế, DNVVN đã và đang là lực lượng
chủ yếu đảm bảo lưu thông hàng hố trong xã hội và có vai trị quan trọng
trong việc góp phần làm tăng tính năng động của nền kinh tế.
Phân bố rộng, yêu cầu vốn ban đầu không nhiều nên các DNVVN rất
linh hoạt trong việc thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư như
dễ dàng huy động vốn dựa trên quan hệ họ hàng, bạn bè thân thuộc. Chính vì
vậy, DNVVN được coi là phương tiện có hiệu quả và linh hoạt trong việc huy
động, sử dụng các khoản vốn nhàn rỗi trong dân cư và biến nó thành khoản
vốn đầu tư quan trọng trong nền kinh tế.
Ba là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
Sự phát triển của DNVVN tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ

18


trợ quan trọng, vì DNVVN thường chun mơn hóa vào sản xuất một vài chi
tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Đặc biệt, đối với
khu vực nông thôn, sự phát triển của DNVVN không chỉ làm cho công nghiệp
phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển các ngành thương mại, dịch
vụ. DNVVN là cầu nối giữa công nghiệp hiện đại với tiểu thủ công nghiệp và
nông nghiệp phi tập trung, làm cơ sở và tiền đề cho phát triển công nghiệp
hiện đại. Do đó, DNVVN đóng vai trị quan trọng trong việc làm thay đổi và
đa dạng hố cơ cấu cơng nghiệp, thúc đẩy nhanh q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, góp phần làm cho tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
ngày càng thu hẹp, tỷ trọng của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
ngày càng tăng lên.
Bốn là, giải quyết việc làm cho xã hội
Phát triển DNVVN ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ
yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá các nguồn thu nhập cho nhân dân. Sự lớn
mạnh của các DNVVN đã góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh

tế. DNVVN không chỉ tạo việc làm trực tiếp cho số lao động làm việc thường
xuyên trong doanh nghiệp, mà còn tạo điều kiện để lao động ngồi doanh
nghiệp có việc làm thơng qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu
ra và phục vụ sản xuất kinh doanh.
Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì DNVVN ln đóng vai trị quan
trọng hơn các doanh nghiệp lớn, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái kinh tế. Lịch
sử phát triển của các nước công nghiệp phát triển cũng như ở Việt Nam trong
thời kỳ đầu đổi mới đã cho thấy: Khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp
lớn phải giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn tại được vì cầu
của thị trường thấp hơn cung, nhưng đối với DNVVN, do đặc tính linh hoạt,
uyển chuyển, dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên vẫn có thể hoạt
động được. Do đó, các DNVVN khơng những khơng giảm lao động mà còn

19


có thể thu hút thêm lao động. Chính vì vậy, Hội đồng doanh nghiệp nhỏ thế
giới đã cho rằng: “DNVVN là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất nghiệp
khi nền kinh tế suy thoái”.
Năm là, đào tạo các doanh nhân cho nền kinh tế
Sự xuất hiện và khả năng phát triển doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều
vào những nhà sáng lập ra chúng. Với ưu thế của mình, DNVVN dễ và
thường xuyên phải thay đổi cơ cấu sản phẩm, thị trường, chiến lược kinh
doanh... để thích nghi với mơi trường xung quanh; ứng xử linh hoạt với
những tác động do sự phát triển, xu hướng tích tụ và tập trung hoá sản xuất;
sự sáp nhập, giải thể và xuất hiện mới các doanh nghiệp thường xuyên diễn ra
trong mọi giai đoạn. Đó là sức ép lớn buộc chủ doanh nghiệp phải có tính linh
hoạt cao trong quản lý, điều hành, dám nghĩ, dám làm và chấp nhận sự mạo
hiểm. Sự có mặt của đội ngũ quản lý với khả năng, trình độ, nhận thức của họ
về tình hình thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ tác động lớn

đến hoạt động của từng DNVVN. Họ ln là người đi đầu trong đổi mới, tìm
kiếm phương thức mới, đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi cho phù hợp với mơi
trường kinh doanh. Do đó, các DNVVN góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện đội ngũ doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh cho đất nước.
Đối với một quốc gia thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự có
mặt của đội ngũ này, chính đội ngũ này sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động,
linh hoạt, phù hợp với thị trường.
1.1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo triết học Mác - Lênin “Phát triển là khuynh hướng vận động đã
xác định về hướng của sự vật: Hướng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn...”
Phát triển DNVVN là một nội dung trong phát triển kinh tế ở một địa
phương, một vùng, một lãnh thổ; do vậy để hiểu rõ hơn thế nào là phát triển
DNVVN, trước hết ta tìm hiểu phát triển kinh tế là gì?
* Quan niệm về phát triển kinh tế

20


Phát triển kinh tế là một q trình tiến hóa theo thời gian và do những
nhân tố nội tại (bên trong) quyết định đến tồn bộ q trình phát triển đó; là
q trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng
trưởng kinh tế và đồng thời có sự hồn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế,
chất lượng cuộc sống [32, tr.6].
* Quan niệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trên cơ sở quan niệm về phát triển kinh tế, tác giả đưa ra quan niệm
về phát triển DNVVN: Phát triển DNVVN là q trình tăng lên về số
lượng, quy mơ của doanh nghiệp (Lao động, nguồn vốn, doanh thu); hiệu
quả hơn về chất lượng doanh nghiệp (Lợi nhuận trên doanh thu, lợi nhuận
trên 1 lao động, lợi nhuận trên vốn… ) và có sự hồn chỉnh hơn về cơ cấu

doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ, thành phần kinh tế, ngành sản xuất kinh
doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Như vậy, quan niệm trên cho thấy, phát triển DNVVN nhằm đẩy
nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, lành mạnh để các
DNVVN đóng góp ngày càng cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng
lực cạnh tranh quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển DNVVN
chính là q trình phát triển cả về số lượng, chất lượng doanh nghiệp; có
quy mơ, cơ cấu hợp lý, trình độ cơng nghệ thích hợp với tiềm năng và lợi
thế từng vùng, từng địa phương; nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra những sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ, mang lại ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo việc
làm, tăng thu nhập cho người lao động và đóng góp ngày càng cao vào sự
phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Quan niệm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa
1.2.1. Quan niệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về DNVVN và phát triển

21


DNVVN, vận dụng vào điều kiện cụ thể phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh
Hóa, tác giả quan niệm về phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa như sau:
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa là hoạt động
tích cực, chủ động của cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban ngành và
các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng tổng thể các giải pháp nhằm đẩy
nhanh tốc độ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cả về số lượng, quy mô;
phát triển về chất lượng và cơ cấu doanh nghiệp theo vùng lãnh thổ, thành
phần kinh tế, ngành sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp vừa và nhỏ.

* Nội hàm khái niệm chỉ rõ:
Chủ thể phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: Chủ thể phát triển
DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa gồm: Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức kinh tế,
chính trị - xã hội và các DNVVN trên địa bàn Tỉnh. Mỗi lực lượng trên có vai
trị khác nhau trong tổ chức thực hiện phát triển DNVVN. Trong đó, tổ chức
đảng và chính quyền các cấp của Tỉnh là người lãnh đạo, chỉ đạo và ban hành
các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện đường lối, chủ trương nghị quyết của
Đảng và Nhà nước về phát triển DNVVN. Bởi vì, phát triển DNVVN địi hỏi
phải giải quyết những khó khăn mà các DNVVN tỉnh Thanh Hóa gặp phải
như: Thiếu vốn và khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính; khó khăn
về mặt bằng sản xuất kinh doanh; nguồn nhân lực và khả năng quản lý
của chủ doanh nghiệp; năng lực cơng nghệ, kỹ thuật thấp; tính liên kết,
hợp tác sản xuất của các DNVVN Tỉnh cịn hạn chế…Vì vậy, các tổ chức
Đảng và chính quyền phải là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo
việc quy hoạch và phát triển DNVVN.
Phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa là một chủ trương rất quan trọng
vừa mang tính chiến lược lâu dài vừa là những vấn đề mang tính thời sự cấp
bách. Do vậy, đảng bộ, chính quyền, các ban, ngành và các DNVVN tỉnh
Thanh Hóa coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, là khâu đột phá
chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của

22


Tỉnh. Phát triển DNVVN tỉnh Thanh Hóa là trách nhiệm chung của mọi tổ
chức, cơ quan, đơn vị ở địa phương. Trong phát triển DNVVN thì vấn đề tiên
quyết đặt ra là phải phát huy cao nhất tính tích cực, chủ động của các cấp, các
ngành vì đây được xác định là hoạt động có mục đích, có tổ chức, là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra. Bên cạnh các nhân tố của chính
quyền và ban ngành các cấp thì đối với các DNVVN của Tỉnh muốn nâng cao

hiệu quả kinh doanh, bản thân các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động nắm
bắt những chủ trương, cơ chế, chính sách trong phát triển DNVVN. Các
doanh nghiệp có vai trò quyết định trong sự tồn tại, phát triển hay suy vong
của doanh nghiệp mình. Vai trị quyết định của doanh nghiệp thế hiện trên hai
mặt: Một là, biết khai thác và tận dụng những điều kiện và nhân tố thuận lợi
của mơi trường bên ngồi. Hai là, doanh nghiệp phải chủ động tạo ra những
điều kiện, nhân tố cho chính bản thân mình để phát triển. Cả hai mặt này cần
được phối hợp đồng bộ để tận dụng được tối đa các nguồn lực. Hiệu quả kinh
tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là phạm trù tổng hợp. Muốn nâng cao
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải sử
dụng tổng hợp các biện pháp từ nâng cao năng lực quản trị, điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến việc tăng cường và cải thiện
mọi hoạt động bên trong doanh nghiệp, biết làm cho doanh nghiệp ln thích
ứng với những biến động của thị trường.
Vì vậy, các DNVVN cần tích cực, chủ động tìm ra các giải pháp để
phát triển doanh nghiệp của mình, đồng thời đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội chung của Tỉnh. Do đó chủ thể đề cập đến là cấp ủy, chính quyền Tỉnh,
các ban ngành và các DNVVN trên địa bàn.
Mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: Nhằm phát triển cả về số
lượng, chất lượng; có quy mơ, cơ cấu hợp lý, trình độ cơng nghệ thích hợp
với tiềm năng và đặc điểm của các vùng, miền trong Tỉnh; tạo dựng mối quan
hệ hợp tác, liên kết chặt chẽ trong cộng đồng doanh nghiệp với hợp tác xã và
các hộ sản xuất để phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng lực cạnh

23


tranh, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ, mang lại ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp, tạo
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và đóng góp ngày càng cao vào
sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Nội dung phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa
Phát triển DNVVN ở tỉnh Thanh Hóa cần tập trung vào những nội
dung cơ bản:
Một là, gia tăng số lượng doanh nghiệp
Gia tăng số lượng doanh nghiệp nghĩa là các đơn vị, các cá thể kinh
doanh là DNVVN ngày càng nhiều. Nói cách khác, là làm tăng số lượng tuyệt
đối các DNVVN; nhân rộng số lượng các DNVVN hiện có. Mặt khác, để phát
triển DNVVN thời gian tới Tỉnh phải quan tâm khuyến khích và tạo thuận lợi
cho các doanh nghiệp hoạt động đúng vai trò. Với quan điểm tạo điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời của các doanh nghiệp mới, đồng thời khuyến khích các
DNVVN hiện có khơng ngừng đổi mới nâng cao chất lượng mọi mặt để đạt
trình độ phát triển ngày càng cao, tạo lập uy tín và thương hiệu trên thương
trường ngày càng bền vững.
Hai là, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp
Quy mô của doanh nghiệp ngày càng lớn là làm cho doanh nghiệp có
quy mơ về vốn, lao động, cơng nghệ, cơ sở vật chất phù hợp với tiêu chí để
tăng khả năng sản xuất, kinh doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp. Đây cũng chính là nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Quy mô doanh nghiệp là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh năng lực sản xuất
của doanh nghiệp, năng lực cung cấp sản phẩm cho xã hội và được biểu hiện
tổng quát, trực tiếp ở tiêu chí giá trị sản phẩm làm ra, giá trị sản phẩm cung
cấp cho xã hội.
Quy mô doanh nghiệp được phản ánh qua hệ thống các chỉ tiêu như:

24


Chỉ tiêu phản ánh trực tiếp quy mô doanh nghiệp: Số lượng sản phẩm
chủ yếu và giá trị sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp; số lượng và giá trị sản
phẩm hàng hóa chủ yếu của doanh nghiệp.

Chỉ tiêu phản ánh gián tiếp quy mô doanh nghiệp: Tổng số vốn và từng
loại vốn; tổng số lao động và từng loại lao động; tổng số cơ sở vật chất; diện
tích mặt bằng SXKD. Các chỉ tiêu phản ánh quy mô ở trên đồng thời là chỉ
tiêu phản ánh năng lực doanh nghiệp, thơng qua đó phản ánh năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Ba là, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực
Chuyển dịch cơ cấu gồm các nội dung như cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,
cơ cấu giá trị, cơ cấu lao động. Với cơ cấu ngành cần phát triển DNVVN trong
ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với xu hướng tăng hơn trong ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản. Với cơ cấu vùng cần phát triển hợp lý số lượng,
chất lượng các DNVVN trên các địa bàn trong Tỉnh, cần ưu tiên đầu tư phát
triển doanh nghiệp ở khu vực các huyện miền núi, huyện ven biển có điều kiện
kinh tế - xã hội cịn khó khăn. Với cơ cấu giá trị, cần gia tăng hàm lượng chất
xám trong cấu thành giá trị sản phẩm của DNVVN. Với cơ cấu lao động, cần
tăng dần lao động qua đào tạo, lao động kỹ thuật, giảm dần lao động giản đơn.
Sự phát triển của DNVVN tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ
quan trọng vì DNVVN thường chun mơn hóa vào sản xuất một vài chi tiết
được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hồn chỉnh. Đặc biệt, đối với khu vực
nơng thơn, sự phát triển của DNVVN không chỉ làm cho công nghiệp phát triển
mạnh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển các ngành thương mại, dịch vụ. DNVVN
là cầu nối giữa công nghiệp hiện đại với tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp
phi tập trung, làm cơ sở và tiền đề cho phát triển công nghiệp hiện đại.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở tỉnh Thanh Hóa
Cũng như các doanh nghiệp trong cả nước nói chung, DNVVN trên địa

25



×