Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Hướng mạnh vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả,chuyển dịch cơ cấu hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.93 KB, 77 trang )

Kinh tế thị trường đòi hỏi sự gắn bó giữa sàn xuất và tiêu thụ. Chính vì vậy thị
trường là vấn đề vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn mà
các doanh nghiệp cùng nghành cạnh tranh ngày càng gay gắt đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
muốn đứng vững và phát triển được thì một mặc phải củng cố thị trường hiện có, mặt khác
phải tìm kiếm và phát triển thị trường mới.
Ngày nay khi xu thế hóa và toàn cầu hóa đang diễn ra nhanh chóng, quá trình hỏi
nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp đang trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập với khu
vực và toàn cầu thì vấn đề tồn tại và phát triển trên thị trường có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với mỗi doanh nghiệp
Những thành tựu và lợi ích to lớn do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho mỗi
nước tham gia là rõ ràng không thể phủ nhận. Ngày nay, không một dân tộc nào có thể
phát triển đất nước mình theo con đường tự cung, tự cấp, cô lập với bên ngoài. Đối với
những nước đang phát triển như Việt Nam, việc nhận thức đầy đủ những đặc trưng quan
trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế của đất nước là cần thiết. Chính vì vậy, chiến
lược phát triển mà chúng ta đã lựa chọn và khẳng định là “Hướng mạnh vào xuất khẩu
đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, chuyển
dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng mới có giá
trị thặng dư cao”.
Công ty Vinamilk là một trong những điển hình thành công về cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước. Lần bán đấu giá cổ phần vào giữa tháng 2 trong năm nay, Vinamilk đã
giúp nhà nước thu về thêm 385 tỷ đồng thay vì dự kiến ban đầu là 187 tỷ đồng. Mười năm
qua, Vinamilk đã đầu tư 1.169,8 tỷ đồng phát triển quy mô sản xuất, nâng cấp, đổi mới
công nghệ. Xây dựng mới 5 nhà máy chế biến sữa trên 5 vùng trọng điểm của cả nước;
tiến hành cuộc “ cách mạng trắng “ bằng việc tạo lập vùng nguyên liệu nội địa … Nhờ đó,
tốc độ sản xuất và kinh doanh luôn tăng, từ 15-35%/ năm. Tỷ suất lợi nhuận trước
thuế/nguồn vốn kinh doanh đạt từ 20-30%. Nộp ngân sách Nhà nước 3.080,7 tỷ đồng, tổng
vốn chủ sở hữu tăng gấp 10 lần, từ 216 tỷ đồng (1992) lên 2015 tỷ đồng năm 200 7, thị


phần liên tục được giữ vững từ 50-90%. Tuy nhiên, hiện nay xuất hiện một loạt Công ty
đang cạnh tranh rất quyết liệt với Công ty Vinamilk và doanh thu của họ cũng liên tục tăng


(như mức tăng trưởng nhảy vọt của Nutifood 50%, Hancofood là 100%/năm… ).
Việt Nam gia nhập WTO, sẽ có nhiều Công ty nước ngoài hơn nữa xâm nhập vào
thị trường Việt Nam, hàng hoá Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn và
sự đào thải cũng nghiệt ngã hơn. Nếu công tác chuẩn bị không tốt, sự tác động này là rất
lớn, không loại trừ khả năng một số ngành kinh tế sẽ bị chết yểu trước sức tấn công của
hàng hoá ngoại nhập. Vì vậy, việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk
trong giai đoạn hiện nay là cần thiết.
Mục đích nghiên cứu: Chuyên đề môn học này không ngoài mục đích làm sáng tỏ
lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh thông qua việc nghiên cứu quá trình phát triển
và năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk nhằm đưa ra những giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng chính mà chuyên đề tập trung nghiên
cứu là năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk. Ngoài ra, chuyên đề còn đề cập đến tình
hình sản xuất và tiêu thụ trên thế giới và tình hình sản xuất mặt hàng sữa và sản phẩm sữa
ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài
này là phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp diễn giải – quy nạp; phương pháp
đối chiếu – so sánh, phương pháp lôgíc, phương pháp mô tả khái quát.
Kết cấu đề tài: Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, bố cục của chuyên đề bao gồm 3
chương sau:
Chương 1 : Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chương 2 : Phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của Vinamilk trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3 : Một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk.

2


CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ

NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trường nên chịu sự chi phối hoạt
động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh.
Trong nền kinh tế này mọi người đều được tự do kinh doanh, đây chính là nguồn gốc dẫn
tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường rất đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể có lợi
ích đối lập nhau như cạnh tranh giữa những người mua, giữa những người bán, giữa những
người bán với người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh nghiệp nội địa với doanh
nghiệp nước ngoài,... Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng
hoá tư bản chủ nghĩa.
Vậy cạnh tranh là gì?
Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được hiểu là quá trình đương
đầu của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá trình hội nhập kinh tế.
Xét dưới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh tranh được chia
thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành.
Trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đưa ra khái niệm cạnh tranh như
sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật
những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhằm thu lợi nhuận siêu
ngạch".
Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách "Từ điển kinh doanh" (Xuất
bản năm 1992, Anh) lại đưa ra khái niệm cạnh tranh như sau: "cạnh tranh là sự ganh đua,
sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại

3


về phía mình" để đề cập đến sự cạnh tranh ở thị trường các yếu tố đầu vào của các doanh
nghiệp.

Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các quốc gia
trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau trong từng giai đoạn
cạnh tranh nhất định.
Nếu xét cạnh tranh dưới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh tranh là sự
ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trường. Đối với khách hàng, bao giờ họ
cũng muốn mua được hàng hoá có chất lượng cao mà giá lại rẻ, còn các doanh nghiệp lại
muốn được tối đa hoá lợi nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi nhuận, các doanh nghiệp
phải tìm cách giảm chi phí, giành giật khách hàng về phía mình. Từ đó, cạnh tranh đã xảy
ra.
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường, nó là động lực thúc đẩy sản xuất,
lưu thông hàng hoá phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải nhận thức đúng đắn về
cạnh tranh để từ đó luôn phát huy nội lực, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Mặt
khác, tránh cạnh tranh bất hợp pháp dẫn đến làm tổn hại lợi ích của cộng đồng cũng như
làm suy yếu chính mình.
Có thể nói, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là một tất
yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả các doanh nghiệp đó.
1.1.2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Thị trường cạnh tranh
Hình thái cạnh tranh này được xem xét dưới góc độ hành vi của thị trường, gắn liền
với phương thức hình thành và vận động giá trên thị trường. Có các hình thái cạnh tranh
như sau:
1.1.2.1.1. Hình thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo:

4


Khái niệm: thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người
bán mà không có người nào có ưu thế cung ứng một số lượng sản phẩm lớn ảnh hưởng đến
giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hoá trên thị trường được coi là giống nhau, ít có sự khác biệt
về mẫu mã, hình thức, chất lượng. Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ

về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, vì vậy, việc tham gia và rút khỏi thị trường
của họ rất dễ dàng. Họ không có khả năng nâng giá. Do đó, các doanh nghiệp tham gia
hoạt động kinh doanh trên thị trường này chủ yếu tìm biện pháp giảm chi phí tới mức thấp
nhất.
Tác dụng của thị trường cạnh tranh hoàn hảo:
- Thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm cho phù hợp với
thị hiếu của người tiêu dùng.
- Làm cho người tiêu dùng dễ dàng lực chọn những sản phẩm vừa ý với mức giá
thấp nhất.
- Nhìn chung, xã hội thu được lợi ích do tài nguyên được phân phối theo hướng có
lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng phù hợp với yêu
cầu xã hội.
Đây là hình thái cạnh tranh hầu như không tồn tại hoặc rất khó thấy trong điều kiện
nền kinh tế nước ta hiện nay do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Tuy
nhiên, tiến tới một thị trường cạnh tranh hoàn hảo vẫn là mục tiêu hướng tới của mỗi quốc
gia trong xu thế hội nhập thương mại quốc tế.
1.1.2.1.2. Hình thái thị trường cạnh tranh không hoàn hảo:
Đây là một thị trường mà phần lớn sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường kinh doanh các sản
phẩm hàng hoá - dịch vụ cùng chủng loại nhưng khác nhau về nhãn hiệu. Chính những
nhãn hiệu này lại mang những hình ảnh, uy tín khác nhau do người tiêu dùng nghĩ, có thể
đúng hoặc không đúng. Do đó, một số người tiêu dùng (chứ không phải là tất cả) sẽ trả giá

5


cao hơn cho sản phẩm mà mình thích. Có thể nói, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là
một thị trường phổ biến trong điều kiện nền kinh tế hiện nay. Có hai hình thái thị trường
cạnh tranh không hoàn hảo sau:
* Độc quyền tập đoàn:

Trong thị trường này chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết tổng
sản lượng. Trong số đó, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu được lợi nhuận đáng
kể trong dài hạn, vì có các rào cản gia nhập làm cho các doanh nghiệp mới không thể gia
nhập vào thị trường được. Tuy nhiên, một điều cần chú ý ở đây là các doanh nghiệp trong
thị trường bị phụ thuộc lẫn nhau trong việc định giá cũng như sản lượng bán ra. Bởi lẽ, khi
một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm giá hàng bán thì lợi thế đối với họ sẽ không
được lâu, các doanh nghiệp khác cũng sẽ nhanh chóng giảm giá, như vậy, lợi ích của họ sẽ
nhanh chóng giảm sút. Ngược lại, khi doanh nghiệp tăng giá chưa chắc các doanh nghiệp
khác sẽ tăng giá theo, như vậy, doanh nghiệp sẽ làm mất khách hàng.
* Cạnh tranh độc quyền:
Đặc điểm nổi bật của thị trường độc quyền là số lượng các doanh nghiệp tham gia
thị trường tương đối lớn, mỗi doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng lớn đến các quyết định sản
xuất kinh doanh của riêng doanh nghiệp mình. Trong thị trường cạnh tranh độc quyền, sản
phẩm của các doanh nghiệp không đồng nhất. Người tiêu dùng phân biệt được các sản
phẩm của các doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, bao bì và các dịch vụ kèm theo. Trên thị
trường này, doanh nghiệp có quyền quyết định giá hàng hoá nhưng vẫn không phải hoàn
toàn theo ý mình, các điều kiện về mua bán hàng hoá cũng khác nhau, các doanh nghiệp có
thể có hình ảnh, uy tín khác nhau trong tâm trí mỗi khách hàng.
1.1.2.1.3. Hình thái thị trường độc quyền:
Đây là hình thái thị trường mà ở đó chỉ có một người bán nhưng nhiều người mua
(gọi là độc quyền bán) hoặc là chỉ có một người mua (gọi là độc quyền mua). Điều kiện
gia nhập cũng như rút lui khỏi thị trường này vô cùng khó khăn do vốn đầu tư sản xuất
kinh doanh thường rất lớn hoặc do sự độc quyền về kỹ thuật công nghệ. Chính vì vậy, đặc

6


điểm nổi bật của thị trường này không có sự cạnh tranh về giá cả mà giá cả phụ thuộc vào
quyền kiểm soát của người mua độc quyền hoặc người bán độc quyền.
Trên thị trường độc quyền, đường cầu của toàn bộ xã hội về một loại hàng hoá dịch

vụ cũng như lượng hàng hoá mua vào, bán ra trên thị trường bằng các chiến lược kinh
doanh của mình.
Với hình thái này, chỉ có người tiêu dùng cuối cùng là gặp nhiều bất lợi nhất, doanh
nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá hoặc bán hàng hoá với giá cao. Để
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng hiện nay, đã có nhiều quốc gia đề ra luật chống độc
quyền. Tuy nhiên, độc quyền cũng có mặt tích cực, nó đem lại lợi ích cho xã hội nhờ quá
trình đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học- kỹ thuật. Doanh nghiệp độc quyền thường
có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng được quy mô sản xuất nên giảm được chi
phí sản xuất tính trên một đơn vị sản phẩm.
1.1.2.2 Cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cùng một thị trường, các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh với nhau trong
việc lựa chọn yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
1.1.2.2.1 Cạnh tranh trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào
Thực chất, đây là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn cung ứng tốt
nhất, đầy đủ, thường xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ nhất. Trong cơ chế
thị trường, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cùng có nhu cầu về một số yếu tố
đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại cùng một lúc. Mỗi nhà cung ứng có một mức giá
cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh nghiệp sẽ chọn cho mình một nhà
cung ứng có mức giá thấp cũng như có dịch vụ cung ứng tốt. Tuy nhiên, để tránh tình trạng
có nhà cung ứng độc quyền các doanh nghiệp nên chọn cho mình một số nhà cung ứng
trong đó có một nhà cung ứng chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung
ứng có giá cao sẽ bị loại bỏ. Ngược lại, các nhà cung ứng lại muốn lựa chọn khách mua
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với mức giá cao.

7


1.1.2.2.2 Cạnh tranh trong quá trình sản xuất
Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa các doanh
nghiệp trong việc tìm các câu trả lời tối ưu nhất cho các câu hỏi sau: sản xuất cái gì? sản

xuất cho ai và sản xuất như thế nào ? Bởi vì trả lời tốt được các câu hỏi này thì các doanh
nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển được.
Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản xuất mặt hàng
nào thì sẽ thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Trước hết, các doanh nghiệp cần tìm hiểu thị
trường, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ đó tập trung sản xuất những mặt hàng phù hợp.
Doanh nghiệp nào tìm ra được nhu cầu đầu tiên và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đó thì sẽ
giành chiến thắng. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về cạnh tranh không dừng ở mức độ
này mà cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp cùng nhau kích thích tạo ra nhu cầu mới
trên thị trường để từ đó khai thác các nhu cầu này.
Sản xuất cho ai? Đây chính là câu hỏi khiến các doanh nghiệp phải đi tìm cho mình
các khách hàng mục tiêu, để từ đó có các chiến lược định vị sản phẩm. Điều này cũng là
một trong các nhân tố ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Sản xuất như thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp các doanh nghiệp tìm ra
phương thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để từ đó hạ giá thành và nâng cao lợi thế
cạnh tranh. Do đó, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã không ngừng áp dụng
khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có giá trị cao và giá thành hạ.
Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong sản xuất nhằm tạo
ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, đẩy nhanh doanh số bán hàng cũng như việc
áp dụng các phương thức sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí để mong muốn có được lợi
nhuận cao của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thực sự làm được điều này thì doanh
nghiệp đó sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh.
1.1.2.2.3 Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.

8


Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định tính sống còn của
mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này là sự giành giật thị trường và khách
hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp sẽ có điều kiện đẩy nhanh tốc độ tiêu
thụ, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Để làm được điều này, các doanh

nghiệp phải tìm mọi cách nhằm thu hút khách hàng về phía mình, tìm được chỗ đứng ổn
định và lâu dài trên thị trường bằng việc thực hiện các chiến lược và các giải pháp khác
nhau. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tìm được cho mình một lượng khách
hàng lớn, hàng hoá dịch vụ tiêu thụ nhiều sẽ là doanh nghiệp chiến thắng và ngược lại.
1.1.3 Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trường. Nguồn gốc của cạnh
tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô hoạt động, thành phần tham gia cũng
như các sản phẩm tạo thành. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường có
thể ví như cuộc chạy đua không có đích, bất kỳ doanh nghiệp nào mà xác định cho mình
một cái đích trong cuộc chạy đua này thì sẽ tạo thành nhịp cầu cho doanh nghiệp khác
chạy qua. Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc chạy đua trên hai trận tuyến. Đó là cạnh tranh
giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cuộc cạnh tranh giữa doanh nghiệp với người tiêu
dùng. Chính vì lý do này mà cạnh tranh giúp cho giá cả của hàng hoá dịch vụ có xu hướng
giảm xuống, trong khi đó, chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng được nâng cao phù hợp
với mong muốn của người tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhờ có cạnh tranh mà các
doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh vực, từ việc
giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu chung. Chính điều này đã là động lực
giúp các doanh nghiệp vươn lên trong quá trình tồn tại. Hơn nữa, cạnh tranh còn là công cụ
giúp các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh và cũng nhờ có cạnh tranh sẽ tạo
ra cho doanh nghiệp những thách thức và cơ hội trong kinh doanh, để từ đó, giúp các
doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và tránh được các rủi ro.

9


Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trường xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ mô, có sự dịch
chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện
thực tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao, không đáp ứng được nhu

cầu xã hội. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tiếp tục
phát triển đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, cạnh tranh sẽ tạo nên
sự ràng buộc giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh tổng thể cho sự phát triển qua
việc phối hợp hài hoà các chức năng, nhiệm vụ giữa các doanh nghiệp khác nhau trong các
ngành kinh tế. Với sự phối hợp này sẽ giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp diễn ra thông suốt, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra tiêu thụ dễ dàng hơn, các
doanh nghiệp sẽ giảm bớt lo lắng là không có thị trường tiêu thụ những sản phẩm đó.
Tóm lại: Khi có nền kinh tế thị trường thì tất yếu sẽ tồn tại quy luật cạnh tranh, đó
là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đứng trên
từng giác độ khác nhau thì cạnh tranh luôn là hai mặt của một vấn đề. Một mặt cạnh tranh
là động lực phát triển đối với mỗi doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh lại mang những đe
doạ, nguy cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ những thành phần tham gia nền kinh tế thị trường
nếu như không kịp thời thích ứng với nó.
Hơn nữa, cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những
doanh nghiệp khác làm ăn có hiệu quả hơn, đáp ứng được nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế mỗi quốc gia phát triển.
Nhận thức được vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trong thời kỳ
đầu của nền kinh tế thị trường, phải không ngừng tích luỹ những kiến thức, sẵn sàng có
những ứng xử cần thiết và thích hợp trước những hoàn cảnh do cạnh tranh mang lại cho
doanh nghiệp, cho nền kinh tế và đất nước.
1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

10


1.2.1.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực
cạnh tranh
• Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
- Về sức cạnh tranh

Sức cạnh tranh là khái niệm được dùng cho phạm vi doanh nghiệp trong lý thuyết tổ
chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh (hay năng lực
cạnh tranh) và được đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi các sản
phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tương tự được đưa ra với mức giá thấp hơn các sản
phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng và
dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh của một doanh
nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một hàng hoá hay
một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh
tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp, ngành và
quốc gia như sau: “Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu
vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.”
- Về năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive Power; Nga:
Cancurentia; Pháp: Capacité de Concurrence), khả năng giành được thị phần lớn trước các
đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần
của đồng nghiệp (Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa Hà nội,
trang 349). Theo định nghĩa này, có thể thống nhất bốn thuật ngữ hiện đang được sử dụng:
năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và tính cạnh tranh đều có nội
dung tương tự nhau và hiểu tên của chúng một cách nhất quán trong đề tài này là "năng lực
cạnh tranh".
• Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể được phân biệt thành bốn cấp độ:

11




Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia




Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành



Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp



Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá

Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tương quan mật thiết
với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cần thiết phải đặt nó trong mối tương
quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên. Một mặt, tổng số năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp của một nước tạo thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc
gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc
gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể
hiện qua môi trường kinh doanh, cạnh tranh quốc tế và trong nước (đặc biệt trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế, các chính
sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, của ngành và của sản phẩm hàng hoá trong quốc gia đó.
-

Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)

năm 1997 đã nêu ra: "năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của nền kinh tế

quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế
bền vững tương đối và các đặc trưng kinh tế khác". Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc
gia có thể được hiểu là việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo
phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Môi
trường cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá trình đầu tư,
tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các tín hiệu thị
trường được thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trường cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo khả năng
cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải thiện đầu tư, tăng cường hợp tác quốc
tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hưởng quyết định đến năng lực cạnh tranh

12


của doanh nghiệp. Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý kinh tế ... có
8 yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao gồm:
+ Độ mở cửa kinh tế
+ Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà nước vào hoạt động
cạnh tranh
+ Tài chính ngân hàng
+ Công nghệ: là mức độ đầu tư cho nghiên cứu triển khai (R&D); trình độ công
nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ
+ Cơ sở hạ tầng
+ Hệ thống quản lý, chất lượng quản lý nói chung
+ Lao động: là số lượng và chất lượng lao động, hiệu lực và tính linh hoạt của thị
trường lao động
+ Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho nền kinh tế
hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của luật pháp và quyền sở hữu.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn để
đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài chính,
quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng mạnh từ

1/9 lên 1/3. Theo phân tích và đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì sức vươn
lên trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa mạnh, trong khi xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao tới năng lực cạnh tranh của các quốc gia
và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
-

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá:

13


Một sản phẩm hàng hoá được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự
khác biệt, thương hiệu, bao bì.... hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hoá cùng loại.
Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có những năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau.
Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có được do năng lực cạnh tranh của chủ thể (doanh
nghiệp) tạo ra; nhưng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng lực cạnh
tranh của hàng hoá mà có, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá có ảnh hưởng lớn
và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
-

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng vững chắc, ngày


càng mở rộng quy mô hoạt động thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh
trên thị trường. Tiềm lực đó chính là năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp.
"Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp
nhờ vào đó có thể tự duy trì vị trí của mình trên thị trường cạnh tranh cũng như đảm bảo
thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ cho việc thực hiện các mục tiêu của
doanh nghiệp".
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 yếu tố chính: giá cả, chất lượng
sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải tìm ra các phương án tối ưu để
giảm chi phí, hạ thấp giá thành, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao chất
lượng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lưới bán hàng và biết chọn thời điểm bán hàng hợp lý
nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị trường.

14


Tăng năng lực cạnh tranh là điều tất yếu của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1.2.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Như trên đã nói, cạnh tranh của doanh nghiệp được diễn ra trong suốt quá trình sản
xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố đầu
vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên,
mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp bao giờ cũng là doanh thu và lợi nhuận, nghĩa là nó
phụ thuộc trực tiếp vào các sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Do đó, người ta sử dụng
các chỉ tiêu sau để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
* Giá thành sản phẩm :
Z=

Trong đó:


FCD
F + Q +V
+ V = CD
Q
Q

- Z là giá thành sản phẩm
- FCD là chi phí cố định
- V là chi phí biến đổi bình quân
- Q là khối lượng hàng hoá

Căn cứ vào giá thành, các doanh nghiệp sẽ định giá bán cho từng loại sản phẩm
hàng hoá.
* Thị phần của doanh nghiệp.
Thị phần của Công ty có thể hiểu là phần mà Công ty chiếm được trên một thị
trường nào đó. Thị phần được xác định theo công thức sau:
Thị phần

=

Doanh thu của công ty
Doanh thu của thị trường

15


Từ đó, ta có công thức tính thị phần từng mặt hàng của Công ty như sau:

Thị


phần

mặt =

Doanh thu mặt hàng i của Công ty
Doanh thu mặt hàng i của thị trường

hàng i

Thị phần mà các doanh nghiệp đã chiếm lĩnh được là chỉ tiêu tổng hợp nhất thể
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn càng thể hiện rõ năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và duy trì tốt các năng lực cạnh
tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm cách chiếm lĩnh thị phần, mở quy mô tiêu thụ
hàng hoá.
* Xác định sức cạnh tranh tương đối của Công ty:
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp một cách tổng hợp nhất, các
nhà kinh tế thường sử dụng công thức sau:
n

K C = ∑ ZixCi
i =1

Trong đó:

Kc là sức cạnh tranh tương đối.
Zi là hệ số quan trọng của thông số i
Ci là thông số đánh giá sức cạnh tranh thứ i (thang 7 điểm).

Kc chia làm 7 bậc:
1


2

3

4

5

6

7

Kém

Yếu

TB yếu

TB

TB khá

Khá

Cao

Qua công thức trên, ta có thể đánh giá được năng lực cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp, ưu thế, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.
1.2.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp


16


1.2.2.1. Nhân tố giá cả hàng hoá, dịch vụ
Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành và thông qua quan hệ
cung cầu. Người bán hay người mua thoả thuận hay mặc cả với nhau để tiến hành mức giá
cuối cùng để đảm bảo về lợi ích của cả hai bên. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết
định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh
của công cuộc cách mạng doanh nghiệp, khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm có giá
thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả được thể hiện như một vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh thông
qua việc định giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng hoặc định giá cao.
Với mức giá ngang bằng với mức giá thị trường giúp cho doanh nghiệp giữ được
khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp nhằm làm giảm giá thành thì
lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn và hiệu quả kinh tế sẽ cao. Ngược lại, với mức giá thấp hơn
mức giá thị trường thì sẽ thu hút nhiều khách hàng, làm tăng sản lượng tiêu thụ, doanh
nghiệp có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên , với bài toán này, doanh
nghiệp khó giải nguy cơ thâm hụt lợi nhuận. Mức giá mà doanh nghiệp áp dụng cao hơn
mức giá thị trường nói chung là không có lợi, nó chỉ sử dụng với các doanh nghiệp có tính
độc quyền hoặc với các loại hàng hoá đặc biệt. Khi đó, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận
siêu ngạch.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm thị trường, mỗi doanh nghiệp có các chính sách giá thích
hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn cho từng thời kỳ kinh doanh sẽ tạo cho mình
một năng lực cạnh tranh tốt và chiếm lĩnh ưu thế.
1.2.2.2. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
Điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường là phải trả lời
những câu hỏi sau: sản xuất là cái gì? sản xuất như thế nào? Thông qua việc trả lời các câu
hỏi này doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp lý. Ta có thể khẳng
định tầm quan trọng của sản phẩm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, là trung tâm của

doanh nghiệp, bởi vì , không có sản phẩm thì sẽ không có hoạt động kinh doanh. Các sản

17


phẩm này có thể là sản phẩm vô hình hoặc sản phẩm hữu hình. Tuy nhiên vấn đề đặt ra
cho các doanh nghiệp là phải làm ra và cung cấp sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu
dùng được thị trường chấp nhận, có khả năng tiêu thụ mạnh giúp doanh nghiệp mở rộng
thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là phần lớn những doanh nghiệp đã
thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp luôn được hoàn thiện không
ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trường bằng cách cải tiến các thông số chất lượng,
mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm hiện đang là thế mạnh của
doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng luôn nghiên cứu các sản phẩm mới nhằm
phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Việc thực hiện đa dạng hoá sản phẩm
của các doanh nghiệp không chỉ để đáp ứng nhu cầu thị trường, thu nhiều lợi nhuận mà
còn có thể phân tán được rủi ro trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đi đôi với việc đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững trong điều
kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải thực hiện chiến lược trọng tâm hoá sản phẩm
vào một loại sản phẩm có tính chiến lược nhằm cung cấp cho một tập khách hàng mục tiêu
hoặc thị trường mục tiêu. Trong phạm vi này, doanh nghiệp có thể tập trung phục vụ khách
hàng tốt hơn, nâng cao uy tín trước đối thủ cạnh tranh. Ngoài chiến lược này, doanh
nghiệp cũng phải thực hiện chiến lược cá biệt hoá sản phẩm, tạo ra nét độc đáo riêng cho
mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các sản phẩm của mình, nâng cao uy
tín doanh nghiệp.
Như vậy, việc xác định đúng đắn cơ cấu sản phẩm sẽ là chỉ tiêu quyết định để các
doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt trên thị trường .
1.2.2.3. Chất lượng hàng hoá dịch vụ
Nếu trước kia giá cả sản phẩm là yếu tố khá quan trọng thì ngày nay nó phải
nhường chỗ cho chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá cả là một

trong những giải pháp mang tính hạ sách, nó làm giảm lợi nhuận thu về. Ngược lại, với

18


một sản phẩm có chất lượng vượt trội với mức giá ngang bằng hoặc nhiều hơn chút ít thì
có khả năng sẽ thu hút khách hàng, tạo thêm năng lực mới cạnh tranh.
Chất lượng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các
thông số có thể đo được hoặc so sánh được thoả mãn những tiêu chuẩn kỹ thuật hay những
yêu cầu quyết định của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu
thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều
yếu tố: công nghệ, dây truyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình
độ quản lý...
Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc biệt trong nền
sản xuất của Việt Nam còn trong tình trạng đang phát triển, phải đương đầu với quá nhiều
đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn hẳn trong việc tạo ra hay cung cấp sản phẩm
có chất lượng cao. Một khi chất lượng sản phẩm không được đảm bảo đồng nghĩa với
doanh nghiệp dần mất đi khách hàng, mất đi thị trường và nhanh chóng đứng bên bờ phá
sản. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất lượng sản
phẩm đã xuất hiện, chất lượng sản phẩm là chất lượng được chi phối và quyết định bởi
khách hàng chứ không phải là các nhà sản xuất hoặc người cung ứng. Quản lý chất lượng
sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng lại mang tính khách quan.
Đây là một quan niệm mới xuất phát từ thực tế làm mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày
càng trở nên quyết liệt hơn. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá qua chất
lượng sản phẩm thể hiện ở chỗ:
- Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối
lượng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống sản phẩm.
- Sản phẩm có chất lượng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích khách
hàng tìm đến doanh nghiệp, tạo thị phần lớn cho doanh nghiệp.
- Chất lượng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài chính

của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hoá dịch vụ

19


Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây cũng là
giai đoạn bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tiên của qúa trình tiêu thụ sản phẩm là
phải lựa chọn các kênh phân phối hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp ứng tốt nhất các
nhu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng, bù đắp chi phí sản xuất thu
hồi vốn. Xây dựng một hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cũng có nghĩa là xây
dựng một nền móng vững chắc cho việc củng cố và phát triển nâng cao năng lực cạnh
tranh của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh việc tổ chức một mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp
đồng thời cũng cần mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo,
khuyến mại và các dịch vụ sau bán. Đây là một trong những chiến lược cạnh tranh phi giá
cả gây ra sự chú ý và thu hút khách hàng một cách có hiệu quả. Hoạt động tiêu thụ sản
phẩm được tổ chức tốt sẽ làm tăng sản lượng bán hàng và từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận
dẫn tới tốc độ thu hồi vốn nhanh và kích thích sản xuất phát triển.
Công tác tiêu thụ tốt là yếu tố quyết định tới uy tín với khách hàng, là chỉ tiêu đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Các hoạt động xúc tiến bán như
tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... là những hình thức tốt nhất để giới thiệu
sản phẩm và qua đó tìm được nhiều bạn hàng cũng như các doanh nghiệp khác nhằm kết
hợp tạo ra sức cạnh tranh lớn mạnh hơn.
1.2.2.5. Nhân tố thời gian
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện nay làm thay
đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của con người. Điều này làm cho chu kỳ
sống của sản phẩm nói chung có chiều hướng rút ngắn lại. Đối với các doanh nghiệp, yếu
tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh ngày nay chính là thời gian và tốc
độ chứ không phải là các yếu tố truyền thống như nguyên vật liệu, lao động... Những thay
đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã giúp cho những doanh nghiệp biết nắm bắt thời

cơ kịp thời sẽ vượt lên trên và là những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt. Chính vì
vậy, để chiến thắng trong cuộc chạy đua này, các doanh nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động
thu thập thông tin và xử lý thông tin, nắm bắt thời cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của

20


thị trường, nhanh chóng tổ chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm và thu hồi vốn trước khi
chu kỳ sống của sản phẩm kết thúc.
Hiện nay, ở nhiều nước phát triển, cạnh tranh mang tính chất quan trọng, là mục
tiêu của nhiều doanh nghiệp đang hướng tới. Đi trước một bước trong cạnh tranh là đã
giành một phần chiến thắng khá quan trọng trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị
trường, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, khi xây dựng một chiến lược kinh
doanh, các doanh nghiệp thường đề cập tới vấn đề "tốc độ thị trường", "cạnh tranh dựa trên
thời gian" và chú trọng tới vấn đề về chu kỳ sản phẩm, thời gian nắm bắt, thoả mãn nhu
cầu thị trường, thời gian đầu tư, thời gian thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch, giao
hàng cũng như tốc độ của công tác nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới .
1.2.2.6. Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là những giải pháp mang tính
dài hạn đối với mỗi doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh là điều không thể thiếu trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó chỉ ra phương hướng cho mỗi hoạt động.
Chiến lược kinh doanh thường được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu kinh doanh, khả
năng chủ quan của doanh nghiệp, sự tác động của môi trường kinh doanh. Đối với mỗi
doanh nghiệp, việc xây dựng một chiến lược kinh doanh đều có tính quyết định tới sự
thành công của doanh nghiệp. Đối với công tác nâng cao năng lực cạnh tranh thì chiến
lược cạnh tranh là một phần trong chiến lược kinh doanh nói chung, nó sẽ giúp cho doanh
nghiệp chiến thắng các đối thủ cạnh tranh hiện tại để vươn lên giành thị phần, chiếm lĩnh
khách hàng, mang lại lợi nhuận cao hơn,... Với mỗi chiến lược kinh doanh được xây dựng
lên không phù hợp với đòi hỏi của doanh nghiệp và thị trường sẽ làm cho doanh nghiệp
không tận dụng được cơ hội kinh doanh, năng lực cạnh tranh bị suy giảm dẫn đến sự thất

bại trong kinh doanh. Chính vì vậy, để năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh
giá là tốt, không cách nào khác, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược
kinh doanh phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất.
1.2.2.7. Uy tín doanh nghiệp.

21


Uy tín doanh nghiệp là tài sản vô hình mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào
cũng có được, là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Uy tín doanh
nghiệp phải xây dựng và củng cố trên cơ sở mang lại nhiều lợi ích cho xã hội và cho người
tiêu dùng. Uy tín doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp có thể dễ
dàng vươn lên trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, tạo dựng cho doanh nghiệp
một nền móng vững chắc với một tập khách hàng thường xuyên. Uy tín của doanh nghiệp
được hình thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trường và là tài sản vô hình mà
doanh nghiệp cần phát huy và sử dụng như một thứ vũ khí chủ lực trong điều kiện cạnh
tranh hiện nay.
1.2.3. Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thực chất của việc nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra những ưu thế hơn hẳn về
giá cả, giá trị sử dụng, chất lượng cũng như uy tín sản phẩm, uy tín doanh nghiệp, uy tín
quốc gia nhằm giành được những lợi thế tương đối trong cạnh tranh, đẩy nhanh tốc độ tiêu
thụ hàng hóa, thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, chi phối sự
vận động của cơ chế này. Các chủ thể kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng, đều
phải chấp nhận cạnh tranh. Chính vì điều đó mà việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với
mỗi doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn. Trước hết, doanh nghiệp muốn có cơ hội tồn tại được
trong nền kinh tế thị trường thì cần phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiệu quả của
việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp khẳng định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, mặt khác, nó còn xác định vị thế cho mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ đồng nghĩa với quá trình xây dựng doanh nghiệp cả

về vật chất lẫn tinh thần, vô hình sẽ tạo cho doanh nghiệp những ưu thế riêng mà doanh
nghiệp khác không có được. Các điều kiện này có thể bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật, khả
năng tài chính, nguồn nhân lực, uy tín cơ cấu tổ chức... Một trong những ưu thế này sẽ tạo
cho doanh nghiệp những lợi thế trong cuộc cạnh tranh đầy cam go. Cùng với việc nâng cao
năng lực cạnh tranh là việc doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng tập khách hàng, hội
nhập chung với thị trường quốc tế, từ đó, sẽ tạo ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội, đem lại

22


những thương vụ kinh doanh đầy hứa hẹn. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh không
những khẳng định sự tồn tại và phát triển mà điều quan trọng hơn cả là nó đem lại cho
doanh nghiệp một mức thu nhập ngày càng cao, đảm bảo đời sống và việc làm cho cán bộ
công nhân viên trong toàn doanh nghiệp, góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xã hội hoá
nói chung.
Tóm lại, dưới giác độ kinh doanh doanh nghiệp, việc nâng cao năng lực cạnh tranh
không chỉ phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành, giá bán
sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống tiêu thụ hàng hoá mà còn phải đảm bảo chất lượng cũng
như thời gian và sự thuận tiện cho khách hàng. Đi đôi với việc phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuật, những đòi hỏi của người tiêu dùng ngày càng cao hơn. Để đáp ứng nhu
cầu thị trường, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp phải tiến hành các
hoạt động marketing tìm hiểu thị trường. Như vậy, cùng với cạnh tranh, nâng cao năng lực
cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Để thắng thế trong các cuộc cạnh tranh, doanh
nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua các yếu tố trực tiếp như
giá thành, giá bán, chất lượng sản phẩm...
Ở nước ta, từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Từ cơ chế xin - cho đến chỗ phải tự giải quyết lấy
các vấn đề có tính sống còn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải làm
quen và chấp nhận cơ chế mới tồn tại cùng với việc nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh. Đặc
biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang mở cửa nền kinh tế, Chính phủ kêu gọi

vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, thị trường trong nước có sự góp mặt của nhiều
doanh nghiệp nước ngoài danh tiếng. Chính vì thế, buộc các doanh nghiệp trong nước phải
không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh vì sự tồn tại của doanh nghiệp nói riêng và sự
phụ thuộc từ nước ngoài nói chung.
1.3. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần sữa Việt Nam
trong điều kiện hội nhập KTQT
1.3.1.Những cơ hội và thách thức đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực

23


1.3.1.1 .Những cơ hội đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực
1.3.1.1.1. Thị trường thế giới
Giá các sản phẩm sữa trên thị trường thế giới có xu hướng ngày càng tăng , cho nên
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh khi xuất khẩu sản phẩm, giúp tăng thu ngoại tệ cho đất
nước.
Giá các sản phẩm sữa trên thị trường thế giới đã tăng trong suốt cả năm 2010. Chỉ
số giá của FAO đối với sản phẩm sữa đạt 156 điểm trong tháng 7/2010, tăng 26% so với
tháng 7/2009, và đạt mức cao nhất kể từ năm 1990 là năm chỉ số giá của FAO bắt đầu
được tính. Giá tăng chủ yếu do nhu cầu tăng ở Châu Á trong bối cảnh nguồn cung xuất
khẩu bị hạn chế và giảm trợ cấp xuất khẩu.
Đối với từng loại sản phẩm, giá xuất khẩu đã tăng như sau: phomát tăng 33%, bơ
tăng 28%, sữa bột tách bơ tăng 20% và sữa bột nguyên chất tăng 17%.

Bảng 1 : Giá sản phẩm sữa xuất khẩu ( USD / tấn FOB )

Sữa bột tách bơ
Sữa bột nguyên chất

Phomát“Cheddar“


2009
T.7
1.829
1.853
2.075
1.554

T.5
2.100
2.100
2.763
1.850

2010
T.6
T.7
2.138
2.188
2.113
2.175
2.763
2.763
1.900
1.988
( Nguồn : www.fao.org)

Giá trên thị trường sữa quốc tế rất nhạy cảm với sự biến động của nguồn cung. Thị

trường tương đối mỏng, với khối lượng mậu dịch chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong sản lượng
sữa. Trợ cấp xuất khẩu cũng làm trầm trọng thêm biến động giá bởi trợ cấp tăng hoặc giảm
ngược chiều với biến động giá. Khi giá trên thị trường thế giới tăng, trợ cấp xuất khẩu
cũng giảm tương ứng, khiến giá thị trường tiếp tục tăng. Kể từ đầu năm 2010, trợ cấp xuất
khẩu của EU đã giảm tương ứng, khiến giá thị trường tiếp tục tăng. Kể từ đầu năm 20 10,
trợ cấp xuất khẩu của EU đã giảm từ 82 USD/tấn xuống còn 38 USD trong tháng 7/2010
đối với sữa bột tách bơ, từ 225 USD xuống còn 170 USD đối với bơ, và từ 120 USD

24


xuống còn 75 USD đối với phomat “Gouda“. Dự trữ can thiệp ở EU đã giảm xuống mức
thấp nhất kể từ mùa thu 2008
Tổng sản lượng sữa thế giới năm 2010 ước tính đạt 611,5 triệu tấn, tăng 1,9%, so
với chỉ tăng 1,1% trong năm 2009, chủ yếu nhờ tăng sản lượng ở Châu Á, Mỹ Latinh, Niu
Dilân.
Sản lượng sữa toàn thế giới nhìn chung là tăng, nhưng tăng không đáng kể
Bảng 2 : Sản lượng sữa ( Triệu tấn )
Toàn thế giới
EU
Ấn Độ
Mỹ
Nga
Pakixtan
Braxin
Trung Quốc
Niu Dilân
Ukraina
Ba Lan
Mêhicô

Ôxtrâylia
Áchentina

2008
593,6
126,7
84,6
77,1
33,5
27,7
22,8
14,0
13,9
14,1
11,8
9,6
11,3
8,5

2009
600,1
126,8
87,0
77,2
33,3
28,4
23,5
17,5
14,4
13,6

11,9
9,9
10,3
7,9

2010
611,5
125,5
91,3
77,5
31,9
29,1
24,4
21,0
15,0
13,6
11,9
10,0
10,0
9,5
( Nguồn : www.fao.org)

Ở các nước phát triển, sản lượng sữa của Niu Dilân năm 2009/2010 ( tháng 6/tháng
5) tăng 4,2% sau khi đã tăng 3,6% trong năm 2008/2009. Ngược lại, sản lượng sữa của
Ôxtrâylia năm 2009/2010 ( tháng 7/tháng 6 ) giảm 2,5% sau khi đã giảm 8,8 % trong năm
2008/2009, là năm bị hạn hán. Ở Mỹ sản lượng sữa tăng vào cuối năm 2010 do giá sữa
trong nước tăng.
Sản lượng sữa ở Canađa năm 2010 phục hồi 3% sau khi giảm liên tục trong 2 năm
trước đó, trong khi đó sản lượng của Nhật Bản đạt mức năm 2009. Sản lượng sữa của EU25 giảm 1%. 10 nước thành viên gia nhập EU ngày 1-5-2004 đã được điều chỉnh sản lượng
sữa theo hạn ngạch sản xuất được phân, và nhanh chóng đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng


25


×