Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

HẠN CHẾ rủi RO TRONG HOẠT ĐỘNG tín DỤNG tại NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.38 KB, 91 trang )

Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Chương1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tín dụng Ngân hàng và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1Tín dụng Ngân hàng và hoạt động tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan
hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt
đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời
xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện
dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Về sau, tín dụng đã
chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Tín dụng ra đời từ rất lâu và
trải qua nhiều giai đoạn và hình thức phát triển khác nhau. Vậy tín dụng là gì?
Tín dụng theo nghĩa Latinh là creditim, sự tín nhiệm, tin tưởng, tên gọi là
xuất phát từ bản chất của quan hệ tín dụng. Trong quan hệ tín dụng người cho
vay sẽ cho người cần vốn vay theo các điều kiện đã được thỏa thuận trước
như thời gian, điều kiện hoàn trả và lãi suất tín dụng...Trong quan hệ đó người
cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng
các thỏa thuận, làm ăn có lãi và hoàn trả vốn đúng thời hạn.
Có thể định nghĩa tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hóa)
giữa bên cho vay( ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay( cá
nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên
đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay
khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng ra đời sớm gắn liền với nền sản xuất hàng hóa, cơ sở ra đời của tín
dụng là:



Vũ Thị Hà Thu

1

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

- Có sự tồn tại và phát triển của hàng hóa.
- Có nhu cầu vù đắp thiếu hụt khi gặp biến cố để đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh và bảo đảm cuộc sống bình thường.
Có nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng ngân hàng, sau đây là một số quan
điểm:
+) Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền giữa một bên là ngân
hàng- một tổ chức chuyên doanh trong lĩnh vực tiền tệ, với một bên là các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng đóng vai trò vừa là người đi
vay vừa là người cho vay.
+) Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với tổ chức kinh tế
và cá nhân thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng, cho khách
hàng vay, tài trợ thuê mua, bảo lãnh hay chiết khấu.
Khái niệm tín dụng ngân hàng trên được thể hiện dưới ba mặt sau:
- Có sự chuyển giao một lượng giá trị từ người này sang người khác.
- Sự chuyển giao mang tính chất tạm thời.
- Khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu thì phải thêm
một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức. Một quan hệ gọi là tín dụng phải có
đủ ba mặt trên.

Hiện nay, ngân hàng thương mại là người cho vay lớn nhất đối với các tổ
chức kinh tế và dân cư, với tư cách tổ chức huy động vốn và cho vay. Ngân
hàng đã góp phần đáp ứng nhu cầu của các tổ chức kinh tế, các thương nhân,
giúp họ thêm vốn để bổ sung vào sản xuất và kinh doanh, tận dụng được cơ
hội làm ăn cho chính mình.
Có 3 loại quan hệ chủ yếu trong quan hệ tín dụng của ngân hàng là:
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp.
- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với dân cư.

Vũ Thị Hà Thu

2

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

- Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các ngân hàng khác trong và ngoài
nước.
1.1.1.2. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động cho vay của Ngân hàng rất đa dạng
và phong phú với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều loại tín dụng khác
nhau). Để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn tín dụng, cần thiết phải phân
loại tín dụng. Việc phân loại tín dụng có khoa học là tiền đề để thiết lập các
quy trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có
nhiều tiêu thức phân loại tín dụng, tuy nhiên trên thực tế, người ta thường
phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau:

* Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Việc phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
Ngân hàng vì thời gian liên quan trực tiếp đến tính an toàn hay mức độ rủi ro
và khả năng sinh lợi của các khoản tín dụng, bao gồm:
-Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm và thường
được sử dụng để vay bổ sung thiếu hụt vốn lưu động tạm thời của cá doanh
nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
-Tín dụng trung dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, lại tín
dụng này được dùng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
-Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, thường được sử
dụng để cấp vốn cho các doanh nghiệp phục vụ cho xây dựng cơ bản, đầu tư
xây dựng mới các xí nghiệp, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng,…
* Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay.
-Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: là loại tín dụng không cần tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, hoạt động cấp tín dụng

Vũ Thị Hà Thu

3

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

chỉ dựa trên uy tín của khách hàng. Loại tín dụng này chỉ áp dụng đối với các
khách hàng có uy tín. Khách hàng có uy tín là khách hàng tốt, trung thực, khả

năng tài chính mạnh, quản tị có hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng cho vay
trong sử dụng vốn vay, hoàn trả nợ (gốc và lãi).
-Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: là loại tín dụng được Ngân hàng cung cấp
cho đối tượng khách hàng cần phải có tài sản đảm bảo hoặc có sự đứng ra bảo
lãnh của bên thứ ba. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản áp dụng đối với các
khách hàng có uy tín không cao đối với ngân hàng. Đây là những khách hàng
mới đến giao dịch, khách hàng kinh doanh trên lĩnh vực có độ rủi ro cao, tài
sản đảm bảo sẽ là căn cứ pháp lý rang buộc trách nhiệm của khách hàng đối
với khoản vay của mình, tăng khả năng thu hồi lại được vốn.
* Phần loại theo hình thức tài trợ:
Tín dụng Ngân hàng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập mà Ngân hàng
được hưởng. Phần Ngân hàng được hưởng coi như là lãi suất xác định trước
mà chủ thương phiếu phải trả, Ngân hàng tuy ứng trước tiền cho khách hàng
song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
- Cho vay: là việc Ngân hàng cấp tiền cho khách hàng, đồng thời kèm theo
một bản cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng
thời gian nhất định.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cảm kết hoàn thành các nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng của mình khi khách hàng không có khả năng thực hiện các
nghĩa vụ đó. Ở đây, Ngân hàng không phải xuất tiền ra để thực hiện mà Ngân
hàng cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để sinh lợi.

Vũ Thị Hà Thu

4

Lớp: CQ46/15.02



Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

- Cho thuê: là việc Ngân hàng bỏ tiền ra mua tài sản và cho khách hàng thuê
lại theo những thỏa thuận nhất định, sau đó khách hàng phải hoàn trả cả gốc
và lãi cho Ngân hàng.
* Phân loại theo đối tượng tín dụng.
-Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dùng để hình thành vốn lưu
động của các tổ chức kinh tế như sự trữ hàng hóa, mua nguyên vật liệu, công
cụ, dụng cụ phục vụ sản xuất. Tín dụng lưu động thường được sử dụng để cho
vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.
-Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được dụng để hình thành vốn để mua
tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất, xây
dựng các công trình mới phục vụ sản xuất. Thời hạn cho vay đối với loại tín
dụng này là trung và dài hạn.
* Phân loại theo mục đích sử dụng vốn:
-Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng dành cho các
doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất và lưu
thông hàng hóa.
-Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng dành cho cá nhân, hộ gia đình đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng: mua sắm nhà cửa, xe cộ, vật dụng…phục vụ quá trình
sinh hoạt. Tín dụng tiêu dùng được thể hiện bằng hình thức tiền hoặc bán chịu
hàng hóa.
* Phân loại khác:
-Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…).
-Theo phạm vi ( trong nước, nước ngoài).
1.1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng
Ở Việt Nam, hoạt động chủ yếu của NHTM là hoạt động tín dụng. Vì vậy,

tín dụng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ với ngành ngân hàng mà còn
cả với nền kinh tế. Nó có vai trò hết sức quan trọng đó là:

Vũ Thị Hà Thu

5

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Thứ nhất, tín dụng ngân hàng thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh
tế.
Hoạt động tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc
dân, là cầu nối về cung và cầu về vốn. Là tổ chức kinh doanh tiền tệ các ngân
hàng thương mại luôn cố gắng đạt lợi nhuận tối đa để tự khẳng định mình.
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng, nó đem lại
70 – 80% thu nhập cho ngân hàng. Việc tập trung và phân phối tín dụng đã
góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tín dụng ngân
hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực khuyến khích tiết kiệm
và đầu tư.
Như vậy tín dụng ngân hàng là cánh tay đắc lực của ngân hàng thương mại,
góp phần nâng cao chất lượng và điều hòa tiền tệ, thực hiện chính sách kinh tế
vĩ mô của Nhà nước, kìm chế lạm phát tạo môi trường kinh doanh ổn định.
Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần đẩy mạnh tái sản xuất mở rộng cho
đầu tư phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải

cạnh tranh gay gắt với nhau nếu không muốn tụt hậu và đào thải. Để có thể
mở rộng, phát triển sản xuất các doanh nghiệp cần có nhiều yếu tố như: nguồn
nhân lực, công nghệ, đất đai, kỹ thuật, vốn…
Tuy nhiên, có thể khẳng định vốn là quan trọng nhất vì nếu có vốn doanh
nghiệp có được các yếu tố khác do thị trường sẵn sàng cung ứng. Để có vốn
doanh nghiệp có thể tìm kiếm ở các nguồn khác nhau…nhưng những hình
thức này không ổn định mà chi phí lại lớn. Vì vậy thường thì các doanh
nghiệp tìm đến các Ngân hàng bởi vì vốn tín dụng Ngân hàng là một trong
những nguồn vốn sẵn có và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh
nghiệp nhỏ. Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình
phát triển kinh tế vì các doanh nghiệp không cần tốn quá nhiều thời gian và

Vũ Thị Hà Thu

6

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

tiền của để đi tìm kiếm nguồn vốn. Đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội, có
vai trò quyết định trong quá trình tái sản xuất mở rộng và đầu tư phát triển của
nền kinh tế.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế của các doanh nghiệp.
Đặc trưng cơ bản của vốn tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có
lợi tức, nhờ vậy mà hoạt động của tín dụng đã kích thích sử dụng vốn có hiệu

quả. Bằng cách tác động như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn
tín dụng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí
sản xuất, tăng vòng quay của vốn, tạo điều kiện nâng cao doanh lợi của doanh
nghiệp. Muốn vậy các doanh nghiệp buộc phải nâng cao hiệu quả công tác
hạch toán, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, đảm bảo kinh
doanh có lãi.
Thứ tư, tín dụng ngân hàng góp phần tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ.
Trong nền kinh tế thi trường thường xuyên xuất hiện những khoản tiền tạm
thời nhàn rỗi, trong khi các thành phần kinh tế khác lại thiếu vốn tạm thời
hoặc thiếu vốn bổ sung đầu tư tài sản cố định. Sự có mặt của tín dụng Ngân
hàng được coi như một giải pháp đê giải quyết mâu thuẫn này. Trong quá
trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng đã huy động được nguồn tiết
kiệm trong dân cư và phân phối lại cho các thành phần kinh tế có nhu cầu
vốn, tạo điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế. Tất cả mọi quốc gia đều sử
dụng tín dụng Ngân hàng như là một công cụ hữu hiệu để điều hòa vốn trên
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ năm, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém
phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn.
Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong
nền kinh tế rồi đầu tư trở lại cho các ngành kinh tế cần vốn. Tín dụng là một

Vũ Thị Hà Thu

7

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính


Luận văn cuối khóa

công cụ điều tiết vĩ mô giúp Nhà nước điều chỉnh kinh tế giữa các vùng, các
ngành, các lĩnh vực khác nhau. Thông qua tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện
thuận lợi để phát huy vài trò và thế mạnh của thành phần kinh tế, các ngành
kinh tế của các vùng khác nhau thông qua các chính sách hỗ trợ về tín dụng
như lãi suất ưu đãi, điều kiện, thủ tục vay vốn đơn giản hơn…để từ đó đạt
mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước trong từng giai đoạn. Sự phát triển đa
dạng các thành phần kinh tế tạo cho nước ta thế và lực mới, thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội, bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Thứ sáu, tín dụng ngân hàng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và
ổn định trật tự xã hội
Hoạt động tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các
doanh nghiệp mà còn phục vụ cho các tầng lớp dân cư. Trong nền kinh tế
ngoài các ngân hàng còn có hệ thống những tổ chức tín dụng sẵn sàng cung
cấp vốn vay cho các cá nhân để phát triển kinh tế gia đình, mua sắm nhà cửa,
tư liệu sinh hoạt,… Bên cạnh đó, việc phát triển những loại hình như ngân
hàng chính sách xã hội, quỹ xóa đói giảm nghèo, Nhà nước còn thực hiện
những chính sách ưu đãi nhằm mục đích cải thiện từng bước đời sống của
nhân dân, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, qua đó góp phần ổn
định trật tự xã hội.
Thứ bảy, tín dụng ngân hàng tạo điều kiện để phát triển các quan hệ kinh tế
với nước ngoài.
Trong điều kiện nền kinh tế “mở”, tín dụng đã trở thành một trong những
phương tiện nối liền các nền kinh tế với nhau. Việc giữa các Ngân hàng mở
tài khoản ở các quốc gia khác nhau giúp cho việc quan hệ kinh doanh giữa
các quốc gia được diễn ra thuận lợi hơn đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt nam. Nói một cách khác, tín dụng


Vũ Thị Hà Thu

8

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Ngân hàng đã góp phần giúp doanh nghiệp trong nước từng bước tiếp cận thị
trường quốc tế, đổi mới công nghệ và mẫu mã sản phẩm nhằm đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng tại các thị trường quốc tế.
1.1.3. Những quy định trong hoạt động tín dụng.
1.1.3.1. Nguyên tắc cho vay.
Nguyên tắc cho vay có hiệu quả là điều kiện và biện pháp hàng đầu đảm bảo
cho Ngân hàng duy trì được sự tồn tại và phát triển ổn định. Theo điều 6,
quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số
1627/2001/QĐ-NHNN, khách hàng vay vốn của TCTD phải đảm bảo:
• Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng: Đây là nguyên tắc cơ bản vì có sử dụng đúng mục đích thì khách
hàng mới có thể thực hiện được dự án, phương án sản xuất kinh doanh
theo lợi ích dự kiến, do vậy mới có thể thu hồi được vốn để hoàn trả nợ
cho ngân hàng. Nguyên tắc này nhằm hạn chế rủi ro đạo đức và hạn
chế khả năng khách hàng dùng vốn vay để thực hiện các hành vi pháp
luật cấm.
• Hoàn trả nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng: Nguyên tắc này đảm bảo phương châm hoạt động của ngân hàng
là “ đi vay để cho vay” và thực hiện nguyên tắc trong hạch toán kinh

doanh lấy thu bù chi và có lãi.
1.1.3.2. Điều kiện vay vốn
Theo điều 7, quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước quy định TCTD xem xét và quyết định cho vay khi khách
hàng có đủ các điều kiện sau:
• Có đủ năng lực pháp lý: Khách hàng vay vốn phải có năng lực pháp
luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định
của pháp luật.

Vũ Thị Hà Thu

9

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

• Có khả năng tài chính và đảm bảo trả nợ đúng thời hạn theo hợp đồng
tín dụng đã ký kết.
• Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
• Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có
hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và
phù hợp với quy định của pháp luật.
• Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính
phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng

Theo Thomas P.Fich:
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay không thanh toán được nợ
theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi
ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động
cho vay của ngân hàng.
Về mặt định lượng: Rủi ro tín dụng được phản ánh bởi chính số lượng nợ
quá hạn, nợ đọng của mỗi tổ chức tín dụng.
Về mặt định tính: Rủi ro tín dụng có quan hệ ngược chiều với chất lượng tín
dụng. Theo đó chất lượng tín dụng càng cao thì mức độ rủi ro càng thấp và
ngược lại, chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao thì rủi ro tín dụng là rất
lớn và có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Theo khoản 1 điều 2 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Rủi ro tín dụng là khả năng
xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng
không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo

Vũ Thị Hà Thu

10

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

cam kết.

Xét về bản chất:
- Rủi ro tín dụng là tình trạng người đi vay không có khả năng trả lãi hoặc nợ
gốc hay cả hai.
- Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện nghĩa vụ trả
nợ theo hợp đồng bao gồm vốn và lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed
paymen) hoặc không thanh toán (nonpayment).
- Rủi ro tín dụng là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp)
xuất phát từ người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam
kết hoặc mất khả năng thanh toán.
Vậy rủi ro tín dụng là những thiệt hại kinh tế mà ngân hàng thương mại phải
gánh chịu do khách hàng vay vốn sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc
và nợ lãi hoặc không hoàn trả được nợ vay của ngân hàng do các nguyên nhân
chủ quan hoặc khách quan.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng, có quy mô lớn nhất của
ngân hàng thương mại - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài
trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ
an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy an
toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh tài ba nào có thể dự đoán chính xác
các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay
đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng khả năng phân
tích tín dụng còn hạn chế. Do vậy trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng,
rủi ro tín dụng là điều không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm
nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng,
hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định
trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.

Vũ Thị Hà Thu

11


Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

1.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Tùy theo mục đích nghiên cứu có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác
nhau. Đối với ngân hàng việc phân loại rủi ro tín dụng có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức
nhằm nhận biết rõ các yếu tố gây ra rủi ro tín dụng từ đó phân công nhiệm vụ
phù hợp cho từng bộ phận, từng khâu. Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau ta
có thể chia rủi ro thành các loại khác nhau. Sau đây là một số tiêu thức phân
laoij rủi ro tín dụng.
+) Theo tiêu chí khách hàng: có 3 nhóm rủi ro là: rủi ro khách hàng cá nhân,
rủi ro công ty tổ chức kinh tế, rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý.
+) Theo tiêu chí xảy ra rủi ro: có 2 loại: rủi ro cá thể/ giao dịch ( được hiểu là
rủi ro gắn với một giao dịch cụ thể nào đó, như đối với một khoản vay của
khách hàng. Loại rủi ro này gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm cá biệt
của một khoản vay/ khách hàng); Rủi ro hệ thống (rủi ro gắn với một nhóm
khách hàng, chẳng hạn đối với một ngành, thậm chí cả một nền kinh tế. Loại
rủi ro này mang tính chất vĩ mô và liên quan tới việc quản lý danh mục tín
dụng).
+) Theo tiêu chí giai đoạn phát sinh rủi ro: có 3 loại: Rủi ro trước khi cho vay;
rủi ro trong khi cho vay; rủi ro sau khi cho vay.
+ Theo tiêu chí sản phẩm: có 2 loại: Rủi ro các sản phẩm nội bảng (cho vay,
thấu chi); rủi ro các sản phẩm ngoại bảng (chiết khấu, thư tín dụng, bảo lãnh).
+) Theo tiêu chí tính chất của rủi ro: có 2 loại rủi ro: rủi ro do nguyên nhân
khách quan như thiên tai, dịch họa…; và rủi ro do nguyên nhân chủ quan như

người vay hoặc người cho vay vô tình hoặc cố ý làm cho thất thoát vốn vay.
+) Theo tiêu chí đảm bảo tiền vay: có 2 loại: rủi ro có bảo đảm tiền vay bằng
tài sản, rủi ro không có bảo đảm tiền vay bằng tài sản.

Vũ Thị Hà Thu

12

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

+) Theo tiêu chí thời hạn khoản vay: có 2 loại: rủi ro theo các khoản vay ngắn
hạn, rủi ro theo các khoản vay trung và dài hạn.
1.2.3. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro tiềm ẩn bên trong ngân hàng, tồn tại một cách tất
yếu khách quan.Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, vì vậy nhận
diện những nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp
phòng ngừa hiệu quả, hạn chế thiệt hại. Có 3 nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
• Nguyên nhân từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số
các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ
thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa
đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc
phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân

hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài
sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý,
đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn
mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên
nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra
nó phải thành công trên thực tế.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài
sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của
hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác,
rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm

Vũ Thị Hà Thu

13

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp
cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi
cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên
số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực.
Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản
thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
* Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
- Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng: Kiểm tra nội bộ có

điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời
ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc
kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng
trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu
như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ
thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ
thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào
những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
- Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Một số vụ án
kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự
tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay,
hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền
ngân hàng.
- Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các ngân hàng thường có thói
quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi
lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng
cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm

Vũ Thị Hà Thu

14

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng

nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung.
- Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu
quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay
hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín
dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với
nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối
với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng.
Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ
thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc
nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối
đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện
nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời,
chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là
hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn
điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
* Nguyên nhân khách quan liên quan đến môi trường bên ngoài:
- Do sự thay đổi bất thường của các chính sách, do thiên tai bão lũ, do nền
kinh tế không ổn định…khiến cho cả Ngân hàng và khách hàng không thể
ứng phó kịp.
- Do môi trường pháp lý lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, còn nhiều sơ hở dẫn tới
không kiểm soát được các hiện tượng lừa đảo trong việc sử dụng vốn của
khách hàng.

Vũ Thị Hà Thu

15

Lớp: CQ46/15.02



Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

- Do sự biến động về chính trị xã hội trong và ngoài nước gây khó khăn cho
doanh nghiệp dẫn tới rủi ro cho Ngân hàng.
- Ngân hàng không theo kịp đà phát triển của xã hội, nhất là sự bất cập trong
trình độ chuyên môn cũng như công nghệ Ngân hàng.
- Do sự biến động của kinh tế như suy thoái kinh tế, biến động tỷ giá, lạm
phát gia tăng ảnh hưởng tới doanh nghiệp cũng như Ngân hàng.
- Sự bất bình đẳng trong đối xử của Nhà nước dành cho các NHTM khác
nhau.
- Chính sách Nhà nước chậm thay đổi hoặc chưa phù hợp với tình hình phát
triển đất nước.
1.2.4. Dấu hiệu nhận biết một khoản tín dụng có rủi ro
Mất an toàn trong cho vay thường ẩn chứa trong các khoản cho vay có vấn
đề. Do vậy việc nhận biết nguy cơ, tình trạng mất an toàn trong cho vay thông
qua các dấu hiệu trong các khoản vay là hết sức quan trọng. Dựa trên những
yếu tố cấu thành và những yếu tố có liên quan đến các chủ thể trong quan hệ
vay- trả giữa ngân hàng và người vay, cũng như những biến động có thể của
những yếu tố đó, có thể nhận biết được mức độ an toàn trong các khoản cho
vay.
Các dấu hiệu nhận biết cũng như đánh giá một khoản tín dụng có rủi ro
được chia thành các nhóm sau đây:
Dấu hiệu cảnh báo rủi ro
Nhóm 1: Dấu hiệu cảnh báo phi tài chính:
1. Ảnh hưởng các nhân tố bên ngoài.

Vũ Thị Hà Thu


16

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

- Thay đổi giá cả thị trường ảnh hưởng đến đầu vào và đầu ra của sản
phẩm;
- Tỷ giá ngoại hối tăng ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay ngoại tệ của
khách hàng;
- Chính sách thuế xuất, nhập khẩu thay đổi;
- Thay đổi quy định tiêu chuẩn chất lượng;
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ;
- Một số bạn hàng gặp khó khăn, mất khách hàng lớn.
2. Các nhân tố từ nội bộ khách hàng.
- Thay đổi chiến lược kinh doanh, tham gia vào các lĩnh vựa kinh doanh
mới không phải là thế mạnh và ngành kinh doanh cốt lõi của khách
hàng;
- Mở rộng hoạt động kinh doanh vượt quá năng lực quản lý;
- Doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu hàng hóa thiết bị nhưng lại
thường nhập khẩu ủy thác…;
- Khách hàng bất ngờ thực hiện giảm giá hoặc chiết khấu để thu hồi
nhanh các khoản phải thu;
- Quan hệ mua bán vòng vèo;
- Chỉ quan tâm đến doanh thu bán hàng mà ít quan tâm đến lợi nhuận;
- Các tài sản thế chấp của khách hàng bị bên cho vay hoặc bên bảo lãnh

khác thu hồi;
- Chuẩn bị có sự thay đổi hình thức sở hữu như Cổ phần hóa, chia tách,
sáp nhập, bán…; hoặc thay đổi chủ sở hữu;
- Thay đổi về cơ cấu hoạt động, cơ cấu tổ chức;
- Có dấu hiệu mất đoàn kết nội bộ, xuất hiện các vụ kiện cáo từ nội bộ
doanh nghiệp;

Vũ Thị Hà Thu

17

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

- Thái độ làm việc của nhân viên giảm sút; khó khăn về nhân sự, người
có năng lực rời bỏ doanh nghiệp;
- Chủ doanh nghiệp sắp đến tuổi nghỉ hưu hoặc có hành động khác
thường như lẩn tránh, nghiện rượu, đam mê cờ bạc, liều lĩnh…;
- Lãnh đạo doanh nghiệp và người nhà có doanh nghiệp riêng, thường
được ưu tiên các phi vụ làm ăn thuận lợi, béo bở;
- Gia đình trị trong doanh nghiệp;
- Tạo hiện trường giả lừa cán bộ ngân hàng;
- …
3. Mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
- Biểu hiện sự thiếu hợp tác và không đáp ứng các yêu cầu hợp lý của
Ngân hàng;

- Các cuộc họp do phía Ngân hàng đề nghị thường xuyên bị trì hoãn;
- Chậm cung cấp các thông tin tài chính/ chậm nộp các báo cáo tài chính;
- Cung cấp thông tin tài chính không đầy đủ, thiêu trung thực;
- …
Nhóm 2: Dấu hiệu cảnh báo tài chính:
1. Kéo dài thời hạn thanh toán các khoản phải trả; chậm thanh toán các
khoản nợ (nợ ngân hàng, nợ bạn hàng, nợ CBCNV, nợ NSNN,…);
2. Liên tục yêu cầu ngân hàng tăng hạn mức cho vay, nhu cầu vay vốn gia
tăng bất thường, cao hơn tốc độ phát triển kinh doanh ( Doanh thu/…);
3. Các ngân hàng khác có hiện tượng thu hồi nợ trước hạn;
4. Tiếp tục vay vốn ngắn hạn khi đã hết mùa vụ;
5. Vốn vay ngắn hạn đê tài trợ cho các chi phí dầu tư dài hạn;
6. Hệ số thanh toán nhanh rất thấp/ xấu đi, khan hiếm tiền mặt;
7. Kỳ thu tiền bình quân tăng; tỷ lệ các khoản phải thu khó đòi/ tổng các
khoản phải thu tăng;

Vũ Thị Hà Thu

18

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

8. Hàng tồn kho lớn, cơ cấu không phù hợp; chu kỳ hàng tồn kho tăng (hoặc
vòng quay hàng tồn kho giảm); tỷ lệ các khoản tồn kho, kém chất lượng/
tổng hàng tồn kho tăng;

9. Nguồn vốn chủ sở hữu giảm;
10.Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu gia tăng;
11.Chi phí trả trước (ngắn hạn, dài hạn) tăng đột biến;
12.Chí phí quản lý chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí;
13.Tốc độ tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận giảm hoặc biến động bất
thường;
14.Tốc độ tăng chi phí cao hơn nhiều so với tốc độ tăng doanh thu. Thua lỗ
triền miên kéo dài hơn 2 năm liên tiếp;
15.Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh/ doanh thu thuần thấp;
16.Báo cáo tài chính không trung thực, có khuyến cáo của cơ quan kiếm
toán nhưng không được thực hiện hoặc không được làm rõ;
17.Xuất hiện các giao dịch chuyển tiền lớn;
18.Bán tài sản cho các bên liên quan.
1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng
Khi rủi ro tín dụng nảy sinh, tùy theo mức độ mà nó gây ra những ảnh hương
nghiêm trọng không chỉ với hệ thống ngân hàng, với người vay, mà còn cả
với nền kinh tế và xã hội.
Đối với ngân hàng.
• Giảm lợi nhuận: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ
khó thu hồi. Ảnh hưởng trước mắt của nó đến hoạt động ngân hàng là
sự ứ đọng vốn dẫn đến làm giảm vong quay vốn của ngân hàng. Mặt
khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó đòi hoặc không thu hồi được
sẽ lại phát sinh các khoản chi phí quản lý, giám sát, thu nợ…Các chi
phí này còn cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất các khoản nợ

Vũ Thị Hà Thu

19

Lớp: CQ46/15.02



Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

quá hạn bởi vì thực ra đây chi là những khoản thu nhập ảo, thực tế ngân
hàng rất khó có khả năng thi hồi đầy đủ được chúng. Bên cạnh đó, ngân
hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được trong khi một
bộ phận tài sản của ngân hàng không thu được lãi cũng như không
chuyển được thành tiền để cho người khác vay và thu hồi lãi. Kết quả là
lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm sút.
• Giảm khả năng thanh toán: Ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối
dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho vay, đầu tư mới…) và dòng
tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho vay…) tại các thời
điểm trong tương lai. Khi các món vay không được thanh toán đầy đủ
và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền. Các khoản
tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn
trong khi các khoản tiền vay của khách hàng lại không được hoàn trả
đúng hẹn. Nếu ngân hàng không đi vay hoặc bán các tài sản của mình
thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu và hạn chế, ngân hàng
sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
• Giảm uy tín: Nếu tình trạng mất khả năng chi trả tái diễn nhiều lần hay
những thông tin về rủi ro tín dụng của ngân hàng bị tiết lộ ra ngoài
công chúng, khách hàng mất long tin vào ngân hàng, uy tín của ngân
hàng trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút.
• Phá sản ngân hàng: Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng gặp khó khăn
trong việc hoàn trả, nhất là những món vay lớn thì có thể dẫn đến
khủng hoảng trong hoạt động của chính ngân hàng. Ngân hàng nếu
không chuẩn bị kịp thời cho những tình huống như vậy, mà thậm chí dù

có cũng không có khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền quá lớn, sẽ nhanh
chóng mất khả năng thanh toán, dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng nếu

Vũ Thị Hà Thu

20

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Ngân hàng Trung Ương không can thiệp kịp thời hoặc không thể can
thiệp.
Lịch sử hoạt động của các NHTM trên thế giới đã chứng kiến không ít các
ngân hàng lớn bị phá sản, và hậu quả cua nó thậm chí không giới hạn trong
một quốc gia mà còn lây sang nhiều nước trong khu vực, thậm chí là cả
châu lục.
Đối với khách hàng vay vốn
Lãi vay ngân hàng được hạch toán vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Khi để phát sinh nợ quá hạn với lãi suất lớn(=150%) lãi suất trong hạn thì
chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Doanh nghiệp đã đang gặp khó khăn
trong tinh hình tài chính, giờ lại càng thêm khó khăn gấp bội, người đi vay
có thể mất nguồn tài trợ từ các ngân hàng. Nguy cơ không có đủ tiền để trả
nợ cho ngân hàng là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến việc phát mại tài
sản thế chấp, đôi khi dẫn đến tình trạng phá sản cho khách hàng.

Đối với nền kinh tế

Khi ngân hàng gặp khó khăn thì việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp,
nền kinh tế bị ngừng trệ. Do một lượng vốn lớn nằm tồn đọng trong các
khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, ngân hàng không có đủ vốn để cho vay các
dự án hiệu quả, mở rộng và phát triển sản xuất. Trong khi đó, tiền cho vay
của ngân hàng lại hoạt động không có hiệu quả mà ngân hàng lại không
kiểm soát nổi. Kết quả là sản xuất đình đốn, nền kinh tế không phát triển,
xã hội bị rối loạn.
Bên cạnh đó khi rủi ro tín dụng xảy ra chứng tỏ người vay vốn đã không
thực hiện được nghĩa vụ của bản thân, hiệu quả đầu tư không đạt yêu cầu
như đã đặt ra khi vay vốn của NHTM. Do đó lợi ích kinh tế xã hội nhận

Vũ Thị Hà Thu

21

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

được qua các khoản thuế, lệ phí…đã không có; sản xuất và lưu thông hàng
hóa sẽ đình trệ, do một “mắt xích” bị đứt, chức năng làm công cụ điều tiết
cho nền kinh tế sẽ bị suy yếu. Quyền lợi của người gửi tiền sẽ không được
đảm bảo.
Như vậy, rủi ro tín dụng xảy ra dù ở mức độ nào cũng gây ảnh hưởng đến
sự phát triển của ngân hàng nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói
chung. Vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là
trách nhiệm của riêng các ngân hàng mà là của toàn nền kinh tế. Việc

phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các nhà quản trị ngân
hàng quan tâm đặt lên hàng đầu trong công tác quản trị rủi ro ngân hàng.
1.2.6. Chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
 Chỉ tiêu định tính
* Tuân thủ các quy định pháp lý về cho vay
Quy định pháp lý về cho vay là các quy định điều chỉnh quan hệ phát sinh
giữa các chủ thể tham gia hoạt động cho vay của ngân hàng. Các quy định
này có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt độn cho vay của ngân hàng vì nó quy định
tính chất quy mô phạm vi giao dịch trong hoạt động cho vay của ngân hàng,
nó có vai trò rất lớn đối với trạng thái rủi ro và an toàn trong hoạt động ngân
hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng.
-

Quy định về nguyên tắc vay vốn và điều kiện vay vốn.

-

Quy định về lãi suất.

-

Quy định về giới hạn cho vay.

-

Quy đinh về hạn chế cho vay.

-

Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay.


-

Quy định về phân loại nợ và trích lập quỹ dự phòng rủi ro.

* Kết cấu dư nợ tín dụng

Vũ Thị Hà Thu

22

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Dựa vào kết cấu dư nợ tín dụng có thể xác định mức độ rủi ro tín dụng của
ngân hàng là cao hay thấp. Nếu kết câu dư nợ quá tập trung vào một số doanh
nghiệp hoặc thành phần kinh tế chuyên sản xuất kinh doanh trong một hoặc
một số lĩnh vực nhất định sẽ có mức độ rủi ro lớn do tập trung vốn nhiều. Dựa
vào kết cấu dư nợ tín dụng (theo thành phần, đối tượng, ngành nghề, thời hạn)
kết hợp với việc phân tích các yếu tố liên quan đến khách hàng, thị trường của
ngân hàng và của khách hàng thì có thể đánh giá được mức độ rủi ro tín dụng
là cao hay thấp.


Chỉ tiêu định lượng


* Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất để đo lường rủi
ro tín dụng của các NHTM hiện nay, được tính theo công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn= ( Dư nợ quá hạn*100%)/ Tổng dư nợ.
Hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp đều muốn tránh khỏi tình trạng
nợ quá hạn. Về phía doanh nghiệp đi vay vốn, nếu quá hạn không trả được nợ
sẽ mất uy tín, phải chịu một lãi suất quá hạn cao hơn lãi suất trong hạn. Đối
với ngân hàng, trong hoạy động cho vay, nợ quá hạn gia tăng sẽ làm tăng tỷ lệ
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này gián tiếp cho thấy quy mô của
các khoản vay của ngân hàng có vấn đề. Nếu tỷ lệ này quá lớn chứng tỏ chất
lượng tín dụng của ngân hàng kém, ngân hàng phải xem xét, đánh giá lại các
khoản cho vay của mình, đánh giá lại quy trình thủ tục cho vay, đặc biệt là
xem xét lại khả năng thực hiện nhiệm vụ của các cán bộ tín dụng.
Tuy nhiên, nợ quá hạn không phải là tổn thất thực tế của ngân hàng, chỉ tiêu
này được coi là chỉ tiêu gián tiếp, cho phép đánh giá khái quát tình hình chất
lượng tín dụng trong hoạt động của ngân hàng.
* Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/ Dư nợ quá hạn

Vũ Thị Hà Thu

23

Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Tỷ lệ nợ quá hạn có khả năng tổn thất/ Dư nợ quá hạn là chỉ tiêu trực tiếp

phản ánh rủi ro. Nó cho thấy trong một đồng nợ quá hạn thì có bao nhiêu
đồng bị tổn thất. Nói một cách khác, chỉ tiêu này phản ánh mức độ có thể gây
ra rủi ro trong số nợ của ngân hàng.
Nợ quá hạn có khả năng tổn thất thường bao gồm những khoản nợ quá hạn
có thời gian quá hạn lớn (6 tháng trở lên). Đối với ngân hàng, việc duy trì các
chỉ tiêu này cao trong các báo cáo tài chính là điều khó chấp nhận. Ngân hàng
luôn tìm cách giảm chỉ tiêu này xuống và biện pháp duy nhất là tích cực thi
các khoản này đến mức độ tối đa. Những khoán nào thật sự không thu hồi
được phải hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng và sử dụng quỹ dự
phòng rủi ro (đã được trích lập từ trước) để bù đắp.
* Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu:
Tỷ lệ nợ xấu = ( Dư nợ xấu * 100%) / Tổng dư nợ
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 theo quy chế phân loại nợ của
ngân hàng. Đây là những khoản nợ có khả năng thu hồi đúng hạn thấp, xác
suất rủi ro cao. Tỷ lệ này dùng để đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu phản
ánh các khoản cho vay của ngân hàng được đánh giá là có khả năng tổn thất
một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi, trong tổng dư nợ của ngân hàng thì có bao
nhiêu phần dư nợ đó là nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì khả năng bảo toàn
vốn của ngân hàng càng thấp và ngược lại. Thông thường các ngân hàng tiên
tiến trên thế giới, tỷ lệ nợ xấu được khống chế ở mức dưới 3%.
* Tỷ lệ nợ xóa
Trên cơ sở phân loại nợ, các ngân hàng thực hiện trích lập dự phòng rủi ro.
Hàng năm, các ngân hàng vẫn sử dụng dự phòng rủi ro để xóa nợ đối với
những khoản nợ khó đòi, khả năng thu nợ thấp.
Tỷ lệ nợ xoá = (Nợ đã xóa* 100%)/ Tổng dư nợ

Vũ Thị Hà Thu

24


Lớp: CQ46/15.02


Học viện Tài chính

Luận văn cuối khóa

Tỷ lệ nợ xóa cho thấy trong tổng dư nợ của ngân hàng thì có bao nhiêu phần
số nợ đó đã được xử lý bằng dự phòng rủi ro.
* Khả năng bù đắp rủi ro
Khả năng bù đắp rủi ro = ( Dự phòng rủi ro * 100%) / Nợ xấu
Dự phòng rủi ro là số tiền các ngân hàng đã trích lập dựa trên kết quả phân
loại nợ. Mục đích là để phòng ngừa và hạn chế tổn thất cho ngân hàng khi có
rủi ro xảy ra. Khả năng vù đắp rủi ro cho thấy khả năng bù đắp tổn thất của
ngân hàng nếu khách hàng không trả được nợ. Tỷ lệ này càng cao thì khả
năng bù đắp rủi ro của ngân hàng càng tốt. Tỷ lệ này tốt nhất đối với ngân
hàng là lớn hơn hoặc bằng 1.
1.3.KINH NGHIỆM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA MỘT SỐ
NGÂN HÀNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC VỚI VIỆT NAM.
1.3.1. Kinh nghiệm từ NHTM Mỹ
Tháng 8/2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New century Financial
Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu
của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi
tiền ở các tổ chức tín dụng nãy đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút
tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng
hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra.
Vào ngày 15/9/2008, định chế tài chính 158 tuổi Lehman Brother chính thức phá
sản khi chỉ 1 năm trước còn là ngân hàng lớn thứ tư nước Mỹ với số nhân viên lên tới
hơn 12 nghìn để lại rất nhiều bài học cho các định chế tài chính khác trên toàn thế
giới. Thiệt hại mà ngân hàng này phải gánh chịu là kết quả của việc biến các khoản

cho vay mua bất động sản thành các gói trái phiếu có gốc bất động sản đầy rủi ro
cũng cấp cho thị trường.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay

Vũ Thị Hà Thu

25

Lớp: CQ46/15.02


×