Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đại diện là gì, có những loại đại diện nào, chấm dứt đại diện ra sao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.36 KB, 30 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU.
Cuộc sống ngày càng phát triển thì nhu cầu tham gia các giao dịch
dân sự (GDDS) của các chủ thể cũng ngày càng đa dạng và mở rộng.
Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện
GDDS nhưng trong những trường hợp nhất định, do hạn chế về mặt này
mặt kia mà họ không thể tự mình xác lập, thực hiện các GDDS được, vì
thế pháp luật dân sự đã đặt ra chế định đại diện.
Đối với cá nhân, bên cạnh những người có đầy đủ năng lực hành vi
(NLHV) có thể tham gia GDDS theo Điều 122 BLDS thì còn có các đối
tượng khác như: người chưa thành niên, người bị hạn chế NLHV dân sự,
người bị mất NLHV dân sự… những hạn chế về mặt nhận thức, hoàn
cảnh đã cản trở họ, khiến họ không thể tự mình xác lập các giao dịch
được thì chế định đại diện đã giúp họ tiến hành xác lập các giao dịch
theo mong muốn hoặc vì lợi ích của họ. Đối với các chủ thể là pháp
nhân, tổ hợp tác hay hộ gia đình mà quyền lợi mang tính cộng đồng, việc
tham gia GDDS không thể xác lập thông qua tất cả mọi cá nhân thì chế
định đại diện được đặt ra tạo điều kiện và đem lại lợi ích tốt nhất cho các
chủ thể này. Như vậy đại diện là một công cụ pháp lí hữu hiệu để các
chủ thể thực hiện được tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một
cách linh hoạt và hiệu quả nhất.
Vậy đại diện là gì, có những loại đại diện nào, chấm dứt đại diện ra
sao…Bài viết của em xin đề cập về vấn đề đó.

1


B. PHẦN NỘI DUNG.
I. Khái niệm, đặc điểm của đại diện.
1. Khái niệm.
Đại diện là một chế định pháp lí theo đó người đại diện độc lập
thực hiện sự thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lí trực tiếp đối với


người được đại diện. Xét từ góc độ lí luận thì người thực hiện các hành
vi pháp lí đồng thời là người tiếp nhận kết quả của các hành vi đó. Có thể
thấy đại diện là một chế định pháp luật thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo
trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự (GDDS) của các chủ thể.
Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 quy định: Đại diện là việc một
người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người
khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện. So với khoản 1 Điều 148
BLDS 1995 thì khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 bổ sung thêm không lớn
nhưng đã nhấn mạnh được trách nhiệm của người đại diện, phản ánh
đúng bản chất của đại diện, từ đó có cơ sở pháp lý để giải quyết những
trường hợp người đại diện xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự không
xuất phát từ lợi ích của người được đại diện. Ngoài ra Điều 139 BLDS
2005 còn thêm khoản 5 “người đại diện phải có NLHV dân sự đầy đủ,
trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của bộ luật này”
Như vậy đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự. Chủ thể của
quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người
đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với

2


người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là
người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác
lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Quan hệ đại diện là căn cứ để
phát sinh thêm một quan hệ (GDDS) tiếp theo là quan hệ giữa người đại
diện với người thứ ba theo ý chí của người được đại diện. Mọi cá nhân
đều được pháp luật bảo vệ quyền tham gia xác lập và thực hiện GDDS
có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người khác. Tuy nhiên, cá nhân
không được để người khác đại diện cho mình trong trường hợp mà pháp

luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó (thông
thường, đây là những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân – vốn có
đặc tính không thể chuyển giao cho người khác được. Ví dụ : một người
chồng không thể ủy quyền cho một người khác đại diện để “làm chồng”
đối với người vợ của mình !).
2. Đặc điểm của quan hệ đại diện.
* Quan hệ đại diện là một loại quan hệ pháp luật (QHPL) do vậy quan
hệ đại diện cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của QHPL.
- Cũng như QHPL, quan hệ đại diện là loại quan hệ xã hội có ý chí, tức
là xuất hiện do ý chí của con người. Quan hệ đại diện không ngẫu nhiên
hình thành mà phải qua hành vi có ý chí của một hoặc cả hai bên chủ thể.
Có những quan hệ đại diện mà sự hình thành đòi hỏi cả hai bên thể hiện
ý chí (hợp đồng ủy quyền), có những quan hệ đại diện hình thành trên cơ
sở ý chí của nhà nước (đại diện theo pháp luật).

3


- Cũng như QHPL, quan hệ đại diện xuất phát trên cơ sở các quy phạm
pháp luật. Trong BLDS năm 2005 thì các chế định về đại diện được quy
định tại chương VII, từ Điều 139 đến Điều 148.
- Cũng như QHPL, nội dung của quan hệ đại diện được cấu thành bởi
các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự
cưỡng chế nhà nước. Trong quan hệ đại diện khi thực hiện các quyền và
nghĩa vụ phát sinh từ các QHPLDS, các bên không được áp đặt ý chí của
mình để buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ mà tạo cho họ điều kiện lựa
chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất cho
các bên và này luôn phải đảm bảo nguyên tắc là không được trái với
pháp luật.
* Ngoài các đặc điểm của QHPLDS nói chung, quan hệ đại diện còn có

các đặc điểm riêng sau đây:
- Đại diện có 2 quan hệ pháp luật khác nhau là quan hệ bên trong và
quan hệ bên ngoài.
+ Quan hệ hình thành giữa người đại diện và người được đại diện là
quan hệ bên trong. Quan hệ này có thể được hình thành từ hợp đồng hay
theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 21 BLDS thì
mọi GDDS của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp
luật xác lập, thực hiện. Như vậy quan hệ giũa người đại diện và người
được đại diện được xác lập theo pháp luật chứ không phải hợp đồng.
+ Quan hệ hình thành giữa người đại diện và người thứ ba là quan hệ
bên ngoài. Quan hệ bên trong là tiền đề, cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại

4


của quan hệ bên ngoài. Quan hệ bên ngoài thực hiện vì quan hệ bên
trong, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do người đại diện thực hiện trong
phạm vi thẩm quyền đại diện với người thứ ba đều thuộc về người đại
diện. Người đại diện có thể được hưởng những lợi ích nhất định từ người
được đại diện do thực hiện hành vi với người thứ ba, chứ không được
hưởng bất kỳ lợi ích gì với người thứ ba.
- Người đại diện xác lập quan hệ đại diện với người thứ ba là nhân danh
người được đại diện chứ không phải nhân danh chính họ. Do vậy người
được đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lí của mình với người thứ ba
để người này hiểu được hai vấn đề cần thiết trước khi lập giao dịch.
- Mục đích của người đại diện xác lập quan hệ với người thứ 3 là vì lợi
ích của người được đại diện, hay nói cách khác quyền và lợi ích trong
quan hệ với người thứ ba được chuyển cho người đại diện. Trong quan
hệ đại diện theo ủy quyền, họ có thể được hưởng tiền thù lao nếu có thỏa
thuận; còn trong các quan hệ đại diện theo pháp luật thì chỉ có nghĩa vụ

theo pháp luật chứ người đại diện sẽ không có được lợi ích vật chất cụ
thể từ quan hệ đại diện này.
- Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của
họ bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy đinh
của pháp luật nhưng họ vẫn có sự chủ động khi tiến hành các công việc
cần thiết để dạt mục đích và vì lợi ích của người được đại diện. Ví dụ: A
đại diện theo ủy quyền mua ô tô cho B thì A vẫn được thể hiện ý chí của

5


mình qua việc thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng với người thứ
ba nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho B.
II. Phân loại đại diện.
Việc phát sinh quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức : do
pháp luật qui định hoặc theo sự uỷ quyền.
1. Đại diện theo pháp luật.
a. Khái niệm đại diện theo pháp luật.
Theo quy định tại Điều 140 BLDS 2005 thì “ Đại diện theo pháp
luật là đại diện do pháp luật qui định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định”.
Căn cứ để hình thành quan hệ đại diện này là do ý chí của nhà nước,
pháp luật quy định mối quan hệ đại diện dựa trên các mối quan hệ tồn tại
sẵn có chứ không phụ thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể.
Như vậy , đại diện được quy định theo pháp luật chung là đại diện mặc
nhiên, ổn định về người đại diện. Các chủ thể trong quan hệ đại diện có
thể là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc pháp nhân.
Ví dụ : Người đại diện của công ty là người mà công ty đăng ký với vị trí
là “người đại diện theo pháp luật” – thể hiện trong Giấy đăng ký kinh
doanh (thường là giám đốc) do Sở kế hoạch và đầu tư cấp. Đây là trường

hợp đại diện mà pháp luật qui định.
b. Các trường hợp đại diện theo pháp luật.

6


Như đã nói, “đại diện theo pháp luật” là sự đại diện do pháp luật quy
định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Điều 141 BLDS
2005 qui định “người đại diện theo pháp luật” trong một số trường hợp
như sau:
1. Đối với con chưa thành niên (dưới 18 tuổi) - Cha, mẹ là người đại diện
theo pháp luật.
2. Đối với người được giám hộ - Người giám hộ là người đại diện theo
pháp

luật.

3. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự - Người được Toà
án chỉ định là người đại diện theo pháp luật.
4. Đối với pháp nhân- Người đứng đầu pháp nhân theo qui định của điều
lệ pháp nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại diện
theo pháp luật.
5. Đối với hộ gia đình - Chủ hộ là người đại diện theo pháp luật.
6. Đối với tổ hợp tác - Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp
luật.
7. Những người khác theo qui định của pháp luật.
* Trường hợp thứ nhất đó là cha mẹ đối với con chưa thành niên.
- Điều 39 Luật Hôn nhân gia đình năm 200 quy định: “Cha mẹ là người
đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất
năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ

hoặc có người khác đại diện theo pháp luật”. Có thể thấy người chưa
thành niên là người chưa có đủ khả năng nhân thức và điều khiển hành vi

7


của mình nên họ không thể tham gia các giao dịch dân sự một cách độc
lập, trừ những giao dịch nhỏ đảm bảo cho sinh hoạt hàng ngày. Trong
những giao dịch quan trọng mà người chưa thành niên tham gia thì cha,
mẹ của họ sẽ là người nhân danh, và vì lợi ích của họ xác lập và thực
hiện các giao dịch đó với điều kiện cha, mẹ là người có đủ năng lực hành
vi dân sự.
* Trường hợp thứ hai đó là người giám hộ đối với người được giám hộ.
- Điều 58 BLDS năm 2000 quy định: Giám hộ là việc một hoặc nhiều
người (người giám hộ) thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của một hay nhiều người khác (người được giám hộ). Một
người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được
một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha và mẹ hoặc ông
và bà của người được giám hộ. Người giám hộ có thể là cá nhân hoặc tổ
chức; nếu là cá nhân thì có thể là người giám hộ đương nhiên hoặc người
được cử ra; trường hợp không cử được cá nhân giám hộ thì một tổ chức
sẽ được đề nghị đảm nhận việc giám hộ. Cá nhân làm người giám hộ
phải có đủ các điều kiện sau: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tư
cách đạo đức tốt; có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ.
- Pháp luật Việt Nam qui định về người được giám hộ như sau: Người
chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành
vi dân sự, bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có
điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ
có yêu cầu; người mất năng lực hành vi dân sự.


8


*Trường hợp thứ ba là người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn
chế NLHVDS.
- NLHVDS của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những
điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 23 BLDS. Việc hạn chế
NLHVDS phải thông qua Tòa án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp
dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn tới hậu
quả phá tán tài sản. Như vậy có thể thấy người bị hạn chế NLHVDS
không có đầy đủ khả năng nhân thức và làm chủ hành vi của mình. Do là
đối tượng cần được pháp luật bảo vệ bởi bản thân họ không thể trực tiếp
tham gia vào bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật phải quy định sẵn những
chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập và thực
hiện các GDDS nên bắt buộc phải thông qua người đại diện cụ thể.
Khoản 2 Điều 23 BLDS năm 2005 quy định: “Người đại diện theo pháp
luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện
do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày”.
*Trường hợp thứ tư là người đứng đầu pháp nhân theo qui định của
điều lệ pháp nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại
diện theo pháp luật.
- Điều 84 BLDS năm 2005 mô tả: Pháp nhân là một tổ chức thống nhất,
độc lập hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của

9



mình, nhân danh mình tham gia váo các quan hệ pháp luật một cách độc
lập. Như vậy để tham gia vào các quan hệ pháp luật thì pháp nhân phải
thông qua hoạt động của mình như là những chủ thể độc lập tham gia các
quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự nói riêng. Mọi hoạt động
của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi những cá nhân- người
đại diện của pháp nhân. Người đại diện của pháp nhân có quyền nhân
danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì sự hoạt động của
pháp nhân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ quy định (ký kết các hợp
đồng và thực hiện các giao dịch khác).
- Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì đại diện theo pháp
luật của các loại pháp nhân là:
+ Đối với Công ty cổ phần: Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc
hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được
quy định tại Điều lệ công ty, người đại diện theo pháp luật phải thường
trú tại Việt Nam. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được
đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.
+ Công ty hợp danh: Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo
pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động hàng ngày của công ty.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: Chủ tịch hội đồng thành viên hơcj Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty
theo quy định tại Điều lệ công ty, người đại diện theo pháp luật của công
ty phải thường trú tại Việt Nam.
*Trường hợp thứ năm là chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình:

10


- Tuy chưa có một khái niệm thống nhất về hộ gia đình nhưng chúng ta
có thể hiểu hộ gia đình là tập hợp những người trong gia đình có các
quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng và hôn nhân. Để trở thành chủ thể

trong quan hệ dân sự thì hộ gia đình phải có những điều kiện nhất định,
đó là thành viên trong hộ gia đình có tài sản chung. Hộ gia đình hoạt
động với tư cách chủ thể trong quan hệ dân sự phải thông qua đại diện
của hộ gia đình mà pháp luật gọi là “chủ hộ”. Chủ hộ là người đại diện
cho hộ trong các GDDS vì lợi ích chung của hộ ( chuyển quyền sử dụng
đất, mua bán vật tư sản phẩm..). Khi tham gia vào giao dịch dân sự, chủ
hộ đại diện cho hộ gia đình không cần có sự đồng ý của các thành viên
nếu mục đích giao dịch phục vụ lợi ích chung của cả hộ.
* Trường hợp thứ sáu là tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác:
- Theo Điều 111 BLDS, tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng
hợp tác có chứng thực của UBND cấp cơ sở của từ ba cá nhân trở lên,
cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định,
cùng hưởng lợi và chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ pháp
luật dân sự.
- Tổ hợp tác hoạt động thông qua đại diện của tổ. Đại diện của tổ là tổ
trưởng do các tổ viên bầu ra. Theo đó, tổ trưởng sẽ nhân danh tổ xác lập,
thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp vơi mục đích hoạt động của tổ,
trong phạm vi những công việc đã được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả tổ. Tuy nhiên khoản 2 Điều 114
BLDS quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp

11


tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải
được đa số tổ viên đồng ý” thì hành vi của người đại diện mới phát sinh
quyền và nghĩa vụ cho cả tổ. Nhưng xét theo nguyên tắc chung về chủ
thể, cũng như về đại diện theo pháp luật, thì tổ trưởng là người đại diện
cho tổ thì họ có quyền thực hiện các giao dịch mà không cần sự đồng ý
của đa số các thành viên, miễn là giao dịch đó phù hợp với công việc và

lợi ích của tổ.
2. Đại diện theo ủy quyền.
a. Khái niệm:
Có rất nhiều lí do chủ quan hay khách quan khiến các chủ thể
không tự mình xác lập GDDS mà thông qua hành vi của người khác,
pháp luật cho phép họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình
tham gia giao dịch. Ủy quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều
kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của QHDS, bằng nhiều
hình thức khác nhau có thể tham gia vào GDDS một cách thuận lợi nhất,
bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể
quan tâm.
Điều 142 BLDS 2005 quy định: Đại diện theo uỷ quyền là đại diện
được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người được đại diện và người đại
diện. Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp
luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Điều 142
BLDS 2005 có một sửa đổi nhỏ về hình thức ủy quyền. So với khoản 2
Điều 151 BLDS 1995 thì quy định về hình thức uỷ quyền ở Điều 142

12


BLDS 2005 rộng hơn, nó không bắt buộc “Việc uỷ quyền phải được lập
thành văn bản” như khoản 2 Điều 151 BLDS 1995.
Như vậy quan hệ ủy quyền gồm hai bên: bên ủy quyền và bên được ủy
quyền. Khi hai bên (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) thiết lập một
quan hệ ủy quyền đồng thời thiết lập một quan hệ hợp đồng với tính chất
là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên được ủy quyền có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền. Bên ủy quyền phải trả thù
lao nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong quan hệ
ủy quyền, người được ủy quyền thay mặt người ủy quyền thực hiện một

số hành vi nhất định làm phát sinh hậu quả pháp lý liên quan đến quyền
lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng hoặc lợi ích của người đã ủy
quyền trong phạm vi ủy quyền.
Ví dụ: Giám đốc công ty A ủy quyền cho một nhân viên là anh B đi dự
họp tại cơ quan thuế – thì anh B sẽ trở thành người đại diện cho giám
đốc công ty. Đây là trường hợp đại diện theo ủy quyền (do được ủy
quyền mà có tư cách đại diện).
b. Các trường hợp đại diện theo ủy quyền.
Như đã nói, “đại diện theo ủy quyền” là sự đại diện được xác lập theo sự
ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Điều 143 BLDS
2005 qui định “người đại diện theo ủy quyền” trong một số trường hợp
như sau:

13


- Khoản 1 Điều 143 BLDS 2005 quy định “Cá nhân, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự”.
- Khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 quy định “Người từ đủ muời lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ
trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ
mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện” thay cho quy định tại khoản 2
Điều 152 BLDS 1995 “người chưa thành niên, người mất NLHV dân sự
hoặc bị hạn chế NLHV dân sự không được làm người đại diện theo uỷ
quyền”. Từ 2 điều luật trên ta thấy, khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 quy
định những người được làm đại diện theo uỷ quyền, còn khoản 2 Điều
152 BLDS 1995 lại quy định những người không được làm đại diện theo
uỷ quyền.
Điều 143 BLDS 2005 đã mở rộng phạm vi người được đại diện theo uỷ

quyền. Người đại diện theo uỷ quyền không nhất thiết cứ phải là người
đã thành niên như quy định tại Điều 152 BLDS 1995 mà cả những người
chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi trừ trường hợp những giao dịch
dân sự pháp luật quy định bắt buộc phải do người đủ 18 tuổi trở lên xác
lập. Quy định như Điều 143 BLDS 2005 là phù hợp với quy định về
NLHV dân sự của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến vừa đủ 18
tuổi (khoản 2 Điều 20 BLDS 2005).
III. Phạm vi thẩm quyền đại diện.

14


Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện
bởi vậy cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này
là phạm vi thẩm quyền đại diện. Việc xác định phạm vi thẩm quyền có ý
nghĩa sẽ mang lại những ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, đó là: Khi người
đại diện thực hiện hành vi trong phạm vi đại diện thì mới làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của người được đại diện với người thứ ba. Ngoài ra
phạm vi đại diện còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một số giao
dịch do người đại diện xác lập, nếu người đại diện vượt qua thẩm quyền
cho phép thì họ phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Như vậy:
Phạm vi thẩm quyền đại diện là giới hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người
đại diện nhân danh người được đại diện xác lập, thực hiện GDDS với
người thứ ba. Tùy thuộc vào quan hệ đại diện là đại diện theo pháp luật
hay đại diện theo ủy quyền mà phạm vi thẩm quyền đại diện được xác
định khác nhau (Khoản 1, 2 Điều 153 BLDS 2005).
* Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật.
- Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật qui định hoặc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định nên thẩm quyền của người đại diện
theo pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử

người đại diện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập
đại diện này thường không phụ thuộc vào ý chí của người được đại diện.
Khoản 1 Điều 144 BLDS quy định: “Người đại diện theo pháp luật có
quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được
đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Như vậy pháp

15


luật cho phép người đại diện theo pháp luật có quyền chủ động tối đa
trong việc lựa chọn, xác lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến
người được đại diện nhưng phải xuất phát vì lợi ích của người được đại
diện.
- Trong trường hợp đại diện cho người bị hạn chế NLHVDS có một số
nét đặc biệt riêng. Chính người bị hạn chế NLHVDS vẫn trực tiếp tham
gia giao kết hợp đồng, nhưng với sự chấp thuận của người đại diện.
Người đại diện chỉ đống vai trò giám sát, đồng ý hay không đồng ý cho
việc xác lập giao dịch. Nếu giao dịch đó không làm ảnh hưởng đến lợi
ích của chính người đại diện, của những người thân thích trong gia đình
của người bị hạn chế NLHVDS thì người đại diện cho phép người bị hạn
chế NLHVDS xác lập, thực hiện giao dịch.
* Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền.
- Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa
người được đại diện và người đại diện nên “phạm vi thẩm quyền đại
diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền” ( Khoản 2 Điều 144
BLDS 2005) và phụ thuộc vào ý chí của hai bên: bên đại diện và bên
được đại diện. So với phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp
luật thì phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền bị hạn
chế hơn bởi “người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong
phạm vi đại diện” (Khoản 3 Điều 144 BLDS 2005). Phạm vi của người

đại diện theo ủy quyền được xác định trong văn bản ủy quyền và người

16


đại diện theo ủy quyền chỉ được thực hiện phạm vi pháp lý trong khuôn
khổ văn bản ủy quyền quy định.
- Để bảo vệ lợi ích chính đáng cho người thứ ba, là người xác lập GDDS
với người đại diện, pháp luật quy định “Người đại diện phải thông báo
cho người thứ ba trong giao dịch dân sự về phạm vi đại diện của mình”
(Khoản 4 Điều 144 BLDS 2005). Việc có một thông báo rõ ràng về việc
đại diện cũng như phạm vi đại diện sẽ tránh được những rắc rối về sau
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông báo rõ ràng, đầy đủ về có đại
diện trong giao kết là hành lang pháp lý an toàn cho người đại diện cũng
như người uỷ quyền. Ngoài ra pháp luật còn quy định “ Người đại diện
không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc
với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác” (Khoản 5 Điều 144 BLDS
2005). Quy định này nhằm ngăn ngừa và loại trừ những GDDS được xác
lập , thực hiện có thể đem lại hậu quả bất lợi cho người được đại diện
đồng thời làm cho người đại diện không còn cơ hội thự“lộng quyền”,
lạm dụng vị trí để trục lợi.
*Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và hậu quả giao dịch
do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện.
Theo quy định tại Điều 145 BLDS 2005 thì:
- Khi giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực
hiện không làm phát sinh, quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện,
trừ trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. Người

17



giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người
được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn
ấn định; nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người
không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã
giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết
về việc không có quyền đại diện.
- Trách nhiệm cho người đã giao dịch với người không có quyền đại
diện đó là: Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã
xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết
hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch.
*Trường hợp vượt quá thẩm quyền đại diện và hậu quả giao dịch do
người vượt quá thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện.
Điều 146 BLDS 2005 quy định:
- Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện
đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ
trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối;
nếu không được đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối
với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại
diện.

18


So với khoản 1 Điều 155 BLDS 1995, quy định này có một số sửa đổi bổ
sung đó là: Thay cụm từ : “vượt quá thẩm quyền đại diện” bằng cụm từ

“vượt quá phạm vi đại diện” và bổ sung thêm cụm từ “đối với phần giao
dịch thực hiện quá phạm vi đại diện” mà Điều 155 BLDS 1995 không
có. Theo Điều 153 BLDS 1995 và Điều 144 BLDS 2005 thì thẩm quyền
đại diện (hay quyền đại diện) là thẩm quyền (hay quyền) xác lập thực
hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện. Chỉ đối với
đại diện theo uỷ quyền thì người đại diện mới phải thực hiện quyền đại
diện trong phạm vi được uỷ quyền, nên dùng cụm từ vượt quá phạm vi
được uỷ quyền là chính xác.
- Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi
đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại
trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại
diện mà vẫn giao dịch.
Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện
cố ý xác lập thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện và gây
thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
Ví dụ: A là giám đốc do phải đi công tác nước ngoài nên uỷ quyền cho B
một phó giám ký kết hợp đồng với một công ty Hàn Quốc. Trong giấy
uỷ quyền ghi rõ B ký kết mua 10 tấn vải lụa của công ty phía hàn quốc.
Khi tiến hành đàm phán ký kết B đã xuất trình giấy uỷ quyền cho phía

19


bên đối tác kiểm tra. Hai bên thoả thuận mua bán 20 tấn vải lụa. Hợp
đồng được ký và hai bên đã giao nhận hàng và tién hành thanh toán. A
về nước mới vỡ lẽ là B đã mua 20 tấn vải nên xin tuyên bố hợp đồng vô
hiệu và yêu cầu bên công ty hàn quốc nhận lại số hàng mà B ký vượt quá
thầm


quyền.

Trong ví dụ trên ta thấy rõ ràng B đã hành động vượt quá phạm vi thẩm
quyền của mình (chỉ được kí kết hợp đồng mua 10 tấn vải lụa), phía đối
tác Hàn Quốc khi xem giấy uỷ quyền phải biết rõ về việc này hoặc buộc
phải biết thẩm quyền kí hợp đồng mua hàng của B cho nên phần nằm
ngoài phạm vi uỷ quyền mà A uỷ quyền cho B không có hiệu lực ràng
buộc đối với A.
IV. Chấm dứt đại diện.
Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ đại diện không tồn
tại mãi mãi mà nó sẽ chấm dứt khi xảy ra những sự kiện pháp lý nhất
định. Khi chấm dựt đại diện, mọi hậu quả pháp lý phát sinh từ GDDS do
người đại diện xác lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lý đối với
người được đại diện.
a. Đối với cá nhân.
* Theo khoản 1 Điều 147 BLDS 2005 thì đại diện theo pháp luật của cá
nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Người được đại diện đã thành niên hoặc NLHVDS đã khôi phục. Trong
trường hợp này người đại diện đã đầy đủ NLHVDS để tự mình thực hiện

20


quyền, nghĩa vụ và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, quan hệ đại diện
không cần phải tiếp tục tồn tại.
- Người đại diện hoặc người được đại diện chết làm chấm dứt tư cách
chủ thể mọi quan hệ pháp luật của họ, trong đó có quan hệ đại diện.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
* Theo khoản 2 Điều 147 BLDS 2005 thì đại diện theo ủy quyền của cá

nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.
- Người ủy quyền hủy bỏ việc ủy ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ
chối việc ủy quyền . Trong trường hợp này quan hệ ủy quyền chấm dứt
theo ý chí của các chủ thể khi xuất hiện điều kiện để họ hủy hoặc từ chối
việc ủy quyền.
- Người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố
mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS, bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc
tuyên bố chết. Mỗi sự kiện trong số các sự kiện này đều làm cho việc ủy
quyền trở nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải chấm dứt.
Ví dụ: A uỷ quyền cho B tới đàm phán và ký kết hợp đồng về việc
mua bán chiếc xe BMW 3.0 của C. Khi B và C đang đàm phán và chuẩn
bị ký hợp đồng thì đột nhiên A chết do tai lạn giao thông. Ta thấy khi A
chết thì hợp đồng uỷ quyền giữa A và B đương nhiên chấm dứt, nên
cũng sẽ không có hợp đồng nào được giao kết giữa A và C . Ở đây khi
mà A chết thì B giao kết hợp đồng mua bán xe với C sẽ chỉ có hiệu lực
đối với B mà thôi.

21


Ngoài ra, xuất phát từ đặc điểm của đại diện theo ủy quyền là người xác
lập, thực hiện GDDS vì lợi ích của người được đại diện, đem lại hậu quả
pháp lý cho người được đại diện nên khoản 2 Điều 147 BLDS còn quy
định khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người đại diện phải thanh toán
các nghĩa vụ với người được đại diện hoặc với người thừa kế của người
này.
b. Đối với pháp nhân.
* Theo khoản 1 Điều 148 BLDS 2005 thì đại diện theo pháp luật của
pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

- Hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân, giải thể pháp
nhân, pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá
sản. Pháp nhân chấm dứt đồng thời làm chấm dứt đại diện theo pháp luật
của pháp nhân.
* Theo khoản 2 Điều 148 BLDS 2005 thì đại diện theo ủy quyền của
pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:
- Khi hết hạn ủy quyền hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.
- Khi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền
hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền.
- Khi pháp nhân chấm dứt hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án
tuyên bố mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS, mất tích hoặc là đã chết.

22


- Khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, nguời đại diện phải thanh toán
xong các nghĩa vụ tài sản với pháp nhân ủy quyền hoặc pháp nhân kế
thừa.
V. Thực trạng áp dụng.
Đại diện quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá
nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của QHDS, bằng nhiều hình thức
khác nhau có thể tham gia vào GDDS một cách thuận lợi nhất, bảo đảm
thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan
tâm. Mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể về chế định đại diện, bên
cạnh những trường hợp hiểu đúng, áp dụng đúng, đem lại nhiều lợi ích,
thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ đại diện thì vẫn còn có nhiều
trường hợp hiểu sai và áp dụng chưa đúng nhất là khi có tranh chấp xảy
ra dẫn đến việc các bên khởi kiện.
- Trường hợp người đại diện theo pháp luật vì lợi ích của người được đại
diện để khởi kiện, thì trong bản án phải xác định người được đại diện là

nguyên đơn chứ không phải người đại diện là nguyên đơn. Trên thực tế
không ít bản án đã xác định nguyên đơn là người đại diện.
Ví dụ: Bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn C có một con chung là cháu
Nguyễn Thị D sinh năm 1988. Năm 1990 ông C và bà S ly hôn.
Tháng 3/1995 ông C chết. Bảo hiểm tỉnh B đã giải quyết tiền mai táng
phí cho anh Nguyễn Thế A (con riêng ông C và là người trực tiếp lo mai
táng cho ông C) với số tiền bằng 8 tháng lương của ông C là 960.000đ và

23


lập sổ trợ cấp hàng tháng cho cháu Nguyễn Thị D nhưng do anh A đứng
tên trong sổ và lãnh tiền.
Bà S khởi kiện Bảo hiểm xã hội tỉnh B, yêu cầu được nhận số tiến hàng
tháng của ông C mà cháu D được hưởng.
Với vụ án trên, người được hưởng quyền lợi là cháu D con bà S và ông
C. Bà S là người đại diện cho D kiện Bảo hiểm xã hội tỉnh B để đòi
quyền lợi, do đó trong bản án phải xác định cháu D là nguyên đơn do bà
S - mẹ của cháu D là người đại diện. Song bản án sơ thẩm số
01/2004/LĐ-ST ngày 09/12/2004 của Toà án nhân dân tỉnh YB lại xác
định: nguyên đơn là bà S, bị đơn là Bảo hiểm xã hội tỉnh B.
Do xác định sai tư cách đương sự (nguyên đơn) nên bản án đã quyết
định: buộc Bảo hiểm xã hội tỉnh B trả cho bà S số tiền tuất hàng tháng
mà cháu D được hưởng.
Quyết định như trên là không chính xác, vì quyết định như trên bà S sẽ là
người được sở hữu số tiền mà cháu D được hưởng. Trường hợp này cần
phải quyết định: buộc Bảo hiểm tỉnh B trả cho cháu D tiền tuất hàng
tháng của ông C mà cháu D được hưởng đến khi 18 tuổi.
- Trường hợp người đại diện theo pháp luật của tổ chức khởi kiện hay bị
khởi kiện thì bản án cũng phải xác định tổ chức đó là nguyên đơn hay bị

đơn chứ không thể xác định người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó
là nguyên đơn hay bị đơn.
Thực tế, nhiều bản án đã xác định không đúng tư cách đương sự của các
tổ chức khi các tổ chức này tham gia tố tụng.

24


Ví dụ: Bà Lê Thị Huỳnh M làm việc tại công ty dược phẩm y tế Cửu
Long nay là công ty cổ phần Cửu Long từ tháng 10 năm 1979. Năm
1999 bà M xin nghỉ việc 3 tháng để điều trị bệnh. Hết 3 tháng bà M nghỉ
luôn đến năm 2002. Bà M xin trở lại làm việc, nếu không bà xin nghỉ
theo chính sách dôi dư.
Ngày 01/04/2003 Tổng giám đốc công ty cổ phần Cửu Long ra quyết
định số 10/QĐNV cho bà M nghỉ việc theo đơn và được hưởng trợ cấp
nghỉ việc 11,5 tháng lương cơ bản của công ty. Bà M khởi kiện cho rằng
bà đã bị công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật,
vì bà M không có đơn xin nghỉ việc. Bà M yêu cầu được trở lại làm việc.
Với vụ án trên, bản án sơ thẩm số 01/2005/LĐST ngày 22/07/2005 của
TAND thị xã VL và bản án phúc thẩm số 01/2005/LĐPT ngày
29/09/2005 của TAND tỉnh VL đều xác định:
Nguyên đơn: bà Lê Thị Huỳnh M
Bị đơn: ông Nguyễn Văn H - Tổng giám đốc công ty cổ phần dược phẩm
Cửu Long
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Đỗ Thanh P – chuyên viên,
theo văn bản uỷ quyền ngày 26/09/2003.
Việc xác định tư cách đương sự (bị đơn) trong vụ án trên là không đúng.
Dù Tổng giám đốc công ty ra quyết định cho bà M nghỉ việc, xong việc
tranh chấp lao động ở đây là tranh chấp giữa người lao động (bà M) với
người sử dụng lao động (công ty), Tổng giám đốc chỉ là người đại diện

theo pháp luật. Vì vậy phải xác định bị đơn là Công ty cổ phẩn dược

25


×