Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.7 KB, 10 trang )

A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung đa dạng,
có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế cần phải xác định được
chúng gồm những nguyên tắc cơ bản nào, cần phải phân loại chúng một cách
khoa học để xác định được vị trí, vai trò của từng nguyên tắc trong quản lý hành
chính nhà nước, từ đó xây dựng và áp dụng hệ thống các nguyên tắc một cách có
hiệu quả vào thực tiễn quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được biểu hiện cụ thể trong hoạt
động tổ chức, nó bao gồm hai mặt: tổ chức chính trị và tổ chức kỹ thuật. Dựa
trên những cơ sở khoa học về quản lý nhà nước ta chia các nguyên tắc trong
quản lý hành chính nhà nước thành hai nhóm là nhóm những nguyên tắc chính
trị-xã hội và nhóm những nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về
nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước thì em đã chọn đề tài sau : “ Phân tích
nguyên tắc tập trung dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong
quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.


B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1.Những biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước :
a. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp:
Hiến pháp của Nhà nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Người dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua hệ
thống các cơ quan quyền lực nhà nước do chính họ bầu ra để thay mặt họ trực tiếp
thực hiện quyền lực đó. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 ( sửa đổi, bổ sung năm 2001 )
đã quy định : “ Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.
Để thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của


đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương
đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước
luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong
việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp.
Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở
địa phương, các ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực
hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác trong
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đề do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp
hoặc gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Trong hoạt động, các


cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp.
Bên cạnh đó, yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực
nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong
việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực
nhà nước; bên cạnh đó còn tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan hành
chính nhà nước hoàn thiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
b. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương:
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực
để chỉ đạo, giám sát cho hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục
tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương
và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự
phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, sự
phục tùng này ở đây không phải là sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng
những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời cấp trên,
trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về về công tác tổ
chức, hoạt động và về các vấn đề khác nhau của quản lí hành chính nhà nước; phải

tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo để hoàn
thành tổ nhiệm vụ được giao.
c. Việc phân cấp quản lí:
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới
nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí, đã có sự phân định rõ chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp


quản lí có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết
để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm
quyền được giao, mỗi cấp quản lí được phép tiến hành những hoạt động nhất định
nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình.
Phân cấp quản lí giữa các cấp trong bộ máy quản lí hành chính nhà nước là
công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc độ khác
nhau. Do đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lí phải có sự cân
nhắc, tính toán kĩ lưỡng, hợp lí, tránh đưa ra các quyết định mang tính chung, tùy
tiện.
d. Hướng về cơ sở:
Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân
chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị
kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của
nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo
hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh,
đồng thời cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về vật chất, tinh thần. Các đơn
vị văn hóa – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở luôn được Nhà nước quan
tâm,cung cấp những trang bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần
nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị này hoạt động có hiệu quả.
e. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương:
Sự phụ thuộc này thể hiện ở hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể.
Ở địa phương, UBND các cấp trước hết phụ thuộc vào HĐND cùng cấp
(mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính


nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Luật tổ
chức HĐND và UBND (sửa đổi) quy định UBND do HĐND cùng cấp bầu ra…
Kết quả bầu các thành viên của ủy ban nhân dân phải được chủ tịch ủy ban nhân
dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả bầu các thành viên của UBND cấp tỉnh
phải được thủ tướng chính phủ phê chuẩn và UBND chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước HĐND cùng cấp và UBND cấp trên. UBND cấp tỉnh chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp và Chính phủ. Mối phụ thuộc
ngang tạo điều kiện cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa
phương để hoàn thành nhiện vụ mà cấp trên đã giao phó.
2. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc quản lí hành chính
nhà nước:
- Muốn cho nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí, quyền
lực của nhân dân, trở thành nhà nước của nhân dân, do dân và vì nhân dân,
đảm bảo cho dân chủ là “ Dân làm chủ và dân là chủ” ( Hồ chí Minh ) thì
phải tập trun dân chủ trong quản lý.
- Từ yêu câu thực hiện hai chức năng cơ bản của Nhà nước là chuyên chính và
tổ chức xây dựng xã hội mới. Muốn đảm bảo thực hiện chuyên chính với kẻ
thù của nhân dân để thực hiện dân chủ của nhân dân, cho nhân dân thì phải
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo , muốn thực hiện
đường lối, nghị quyết của đảng, muốn thể chế hóa các đường lối đó để đưa
vào cuộc sống có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân và toàn xã hội thì phải
thực hiện tập trung dân chủ trong quản lí điều hành, kiểm tra, giám sát từ
trên xuống dưới, đảm bảo cho hoạt động của nhà nước, của xã hội có tổ chức
, có nề nếp , kỉ luật, ăn khớp nhịp nhàng như 1 bộ máy.



- Tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị của đản cộng sản , nguyên tắc tổ
chức hoạt động của đảng. Nhà nước chịu sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với nhà nước được biểu hiện 1 các trực tiếp và thực tiễn thông
qua tổ chức đảng, và các đảng viên của đảng hoạt động trong các cơ quan
nhà nước (đặc biệt là các đảng viên có chức có quyền). Do đó, đương nhiên
tập trung dân chủ từ một nguyên tắc lãnh đạo chính trị trở thành một nguyên
tắc trong quản lý, điều hành.
- CNXH là sự nghiệp sáng tạo có tổ chức, khoa khọc cao, đầy tính tự giác,
chủ động, tích cực của quần chúng. Chỉ có áp dụng tập trung dân chủ trọng
quản lý của nhà nước thì mới đảm bảo cho quần chúng nhân dân có điều
kiện tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát ngày một sâu rộng, có hiệu quả đối
với các hoạt động, các công việc của nhà nước.
- Chỉ có áp dụng tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý nhà nước thì chế
độ nhà nước mới thực sự phát triển thành một chế độ dân chủ.
- Quản lý nhà nước về mọi mặt, đặc biệt là quản lý kinh tế, chính sách phát
triển kinh tế gắn liền với chính sách xã hội… phải đảm bảo bằng tập trung
dân chủ sao cho sự phát triển đạt được 1 cách lành mạnh, thực hiện được
nguyên tắc công bằng xã hội, kỉ cương, trật tự được giữ vững, pháp luật
được tôn trọng. CHỉ có tập trung dân chủ trong quản lí mới đảm bảo cho
nhà nước kiểm soát được tình hình và những diễn biến của nó trên quy mô
cả nước để kịp thời có những điều chỉnh và có những quyết sách đúng. Có
những vấn đề quan trọng ở tầm quốc gia, có ảnh hưởng đén kế hoạch phát
triển tổng thể và lâu dài đến cuộc sống của dân cư cả nước va quan hệ
quốc tế. Tất cả đều phải do cơ quan đầu não từ trun ương quyết định như
phương hướng, ké hoạch, ngân sách đầu tư và chính sách ưu tiên… Nó
đảm bảo tập trung sự chỉ đạo thống nhất từ một trung tâm. Nó đòi hỏi mọi
cấp mọi địa phương, mọi ngành phải tuân thủ nghiêm ngặt các mệnh lệnh,



quyết định, chủ trương chính sách từ trung ương. Mặt khác, trung ương
tiến hành phân cấp quản lý cho các ngành, các địa phương để đảm bảo
tính chủ động, sáng tạo và đề cao trách nhiệm của các ngành các cấp trong
hoạt động quản lý. Tập trung dân chủ làm cho hoạt động quản lý của nhà
nước có được hiệu quả thực tế, đặc biệt là phát huy được tác dụng trong
thời kì triển khai các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, văn hóa, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


C-KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của
cấp trên với việc mở rộng dân chủ rộng rãi để phát huy tính chủ động, sáng tạo của
cấp dưới nhằm đạt mục đích và hiệu quả cao trong quản lí nhà nước. Điều 6 của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ “Quốc hội, hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải bảo đảm
thực hiện dân chủ hóa các hoạt động của nhà nước; thực hiện chế độ bầu cử đối với
tất cả các đại diện từ trung ương đến cơ sở và thực hiện chế độ báo cáo định kì
thường xuyên của các đại biểu dân cử với cử tri cũng như cơ quan nhà nước trước
nhân dân, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, các quyết định của cấp trên có giá trị
và bắt buộc phải thực hiện đối với cấp dưới; kết hợp sự chỉ đạo tập trung, thống
nhất của cấp trên với việc mở rộng và phát huy tính năng động, sáng tạo của cấp
dưới, nhưng phải bảo đảm sự phân công, phân cấp rành mạch, rõ ràng về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi trách nhiệm của mỗi cấp. Cấp trên phải
thường xuyên kiểm tra cấp dưới trong việc thực hiện các quyết định và chỉ thị của
cấp trên; thực hiện chế độ thông tin và báo cáo thường xuyên giữa cấp trên và cấp
dưới; phải bảo đảm kỉ luật nghiêm minh trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của

các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội và các đoàn thể quần chúng khác
trong xã hội


Danh mục tài liệu tham khảo

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2009.
2. Khoa Luật-Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb. Đại học
quốc gia, Hà Nội, 2005.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2009.
4. www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/


MôC LôC



×