Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Vận dụng quan điểm hồ chí minh về mối quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn trong xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức các trường chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.52 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGUYỄN THỊ CẨM HỒNG

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ
VÀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, VIÊN CHỨC CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hồ Chí Minh học

HÀ NỘI – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGUYỄN THỊ CẨM HỒNG

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ
VÀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ, VIÊN CHỨC CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Viết Ngoạn

HÀ NỘI – 2013
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung
thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các
công trình khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Cẩm Hồng

3


LỜI CÁM ƠN
Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình của quý thầy, cô trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà
Nội và trường Đại học Sài Gòn.
Xin chân thành cám ơn PGS. TS Nguyễn Viết Ngoạn đã tận tình
hướng dẫn để em hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cám ơn quý thầy, cô trường Đại học Khoa học
xã hội và Nhân văn Hà Nội và trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện
thuận lợi cho chúng em hoàn thành khóa học cũng như làm luận văn.

4



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

4

1. Tính cấp thiết của đề tài

4

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

9

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

9

6. Đóng góp của luận văn


9

7. Kết cấu của luận văn

10

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ

11

GIỮA PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ VÀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN

1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của con người trong

11

sự nghiệp cách mạng
1.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người

11

1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của con người

12

trong sự nghiệp cách mạng
1.2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm Hồ Chí Minh về mối

18


quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn
1.2.1. Những yêu cầu cơ bản cần có của người cán bộ đối với sự

18

nghiệp cách mạng
1.2.1.1. Về phẩm chất chính trị

18

1.2.1.2. Về trình độ chuyên môn

23

1.2.2. Mối quan hệ giữa các yếu tố phẩm chất chính trị và trình độ
chuyên môn

1

25


1.2.3. Con đường hình thành và phát triển các yếu tố phẩm chất

27

chính trị và trình độ chuyên môn
1.2.3.1. Thông qua hoạt động thực tiễn

27


1.2.3.2. Thông qua giáo dục - đào tạo

31

1.2.3.3. Thông qua sự tự giác rèn luyện của từng cá nhân

33

* Tiểu kết chương 1
Chương 2: VẬN DỤNG VÀ PHÁT HUY QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH

35
37

VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ VÀ TRÌNH ĐỘ
CHUYÊN MÔN TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, VIÊN CHỨC
CÁC TRƯỜNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

2.1. Thực trạng và những vấn đề đặt ra qua thực tiễn xây dựng đội ngũ

37

cán bộ, viên chức các trường chính trị cấp tỉnh trong thời gian qua
(2005 – 2012)
2.1.1. Vài nét về đặc điểm trường chính trị

37

2.1.1.1. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ


37

2.1.1.2. Về cơ cấu, tổ chức bộ máy

38

2.1.1.3. Về nhiệm vụ và quyền hạn của các khoa, phòng

39

2.1.1.4. Đối với giảng viên các trường chính trị

42

2.1.1.5. Về chương trình, nội dung giảng dạy

49

2.1.2. Thực trạng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức các

49

trường chính trị trong thời gian qua (2005 – 2012)
2.1.2.1. Về giáo dục, rèn luyện đạo đức

49

2.1.2.2. Về công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng và phân công


53

công việc cho cán bộ, giảng viên
2.1.3. Những kết quả đạt đựơc qua thực tiễn xây dựng đội ngũ cán
bộ, viên chức ở các trường chính trị tỉnh trong thời gian qua và những
vấn đề đặt ra trong thời gian tới

2

60


2.1.3.1. Những ưu điểm trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán

60

bộ viên chức các trường chính trị
2.1.3.2. Những hạn chế trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán

62

bộ viên chức các trường chính trị
2.1.3.3. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến số lượng và chất lượng đội

64

ngũ cán bộ, giảng viên các trường chính trị chưa đạt yêu cầu hiện nay
2.2. Vận dụng và phát huy quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ

68


giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn trong xây dựng đội
ngũ cán bộ, viên chức các trường chính trị tỉnh trong thời gian tới
2.2.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục phẩm chất chính trị cho cán bộ,

68

viên chức
2.2.2. Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng và phân công công việc

72

hợp lý
2.2.3. Nâng cao ý thức tự rèn luyện vươn lên của từng cá nhân

77

2.2.4. Tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, viên chức có cơ hội nâng

79

cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển toàn diện phẩm chất, năng
lực của bản thân
* Tiểu kết chương 2

82

KẾT LUẬN

83


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở bất cứ thời đại nào, con người cũng luôn đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bởi lẽ, con người không
chỉ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực
cải biến tự nhiên và xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá rất cao vai trò động lực phát triển
xã hội của con người. Dù trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hay
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù trong cải tạo xã hội cũ hay xây dựng xã
hội mới, thì yếu tố con người cũng luôn được Hồ Chí Minh đề cao. Người
khẳng định, mọi thành công, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đều do con
người – do quần chúng nhân dân quyết định.
Đặc biệt trong xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ
nghĩa” [32, tr.66]. Đó là những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa có
đức vừa có tài. Yếu tố phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn ở người
cách mạng luôn được Hồ Chí Minh đề cao, bởi theo Hồ Chí Minh, một người
có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, ngược lại nếu có tài mà
không có đức thì sẽ trở nên vô dụng.
Quán triệt quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, trong từng đường lối,
chính sách, vấn đề con người luôn được Đảng ta đặt vào vị trí trung tâm của
sự phát triển. Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Đảng cũng đã chú ý

đào tạo, bồi dưỡng theo hướng nâng cao chất lượng cả về năng lực và phẩm
chất đạo đức nhằm đạt mục đích cao nhất vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, trên thực tế không phải ở mọi lúc,
mọi nơi, mọi cấp, mọi ngành trong tổ chức Đảng và chính quyền đều đạt được
kết quả như mong muốn.
4


Hơn nữa, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sự nghiệp đổi mới của
nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới, hơn lúc nào hết đòi
hỏi chúng ta cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ “hồng” và “chuyên” để có thể
đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Vì
thế việc trở lại nghiên cứu một cách thấu đáo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan
hệ giữa đức và tài ở người cán bộ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa có
đủ phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn để phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng hiện nay là vấn đề hết sức cần thiết.
Đối với các trường chính trị, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều
quyết tâm và nỗ lực trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức
có đủ phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn nghiệp vụ để hoàn thành
tốt nhiệm vụ chính trị của mình, song kết quả đạt được vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu hiện nay: trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như phẩm chất
chính trị của một số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; công tác tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch còn nhiều bất cập…
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đức và tài ở người
cán bộ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, năng lực
của đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ, viên chức ở các trường
chính trị nói riêng, chúng tôi chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức các trường chính trị” làm đề tài

nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng về con người là nội dung trọng tâm chi phối toàn bộ cuộc đời,
sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này ở nhiều cấp độ và giác độ khác nhau. Liên quan đến đề tài
này đã có các công trình nghiên cứu như sau:
5


- Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm đã nêu lên những
quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện: phát
triển về trí tuệ, đạo đức, thể lực sức khỏe và năng lực thẩm mỹ. Đồng thời
trong tác phẩm cũng đã đề cập đến quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường
hình thành và phát triển con người toàn diện;
- Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trên cơ
sở chỉ ra mối quan hệ giữa văn hóa và việc xây dựng con người Việt Nam phù
hợp thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả đã nêu
lên được những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con
người Việt Nam phát triển toàn diện, về quan niệm và giải pháp xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện trong bối cảnh hiện nay;
- Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra
những cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; trình bày một cách có hệ thống định
hướng chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: tư tưởng và mục tiêu của chiến lược, vấn
đề xây dựng và phát triển đạo đức, trí tuệ, năng lực nghề nghiệp;
- Trần Thị Huyền (2011), “Nhân tố con người trong triết lý phát triển Hồ

Chí Minh”, Đặc san Hồ Chí Minh học (số 4). Bài viết đã nêu được những nét
lớn trong triết lý phát triển của Hồ Chí Minh: khẳng định vai trò to lớn của
con người trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng xã hội
mới; xem con người là nhân tố trung tâm trong sự phát triển; chỉ ra những yêu
cầu của Hồ Chí Minh đối với chiến lược trồng người;

6


- Nguyễn Hữu Cát (2009), “Hồ Chí Minh với công tác giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng”, Tạp chí Lý luận Chính trị (số 6). Bài viết đã trình
bày khá chi tiết quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo
đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên; những nguyên tắc để cán bộ,
đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng; đồng thời tác
giả cũng đã đưa ra những nội dung cơ bản trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Lại Quốc Khánh (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ”, Tạp chí Lý luận Chính trị (số 4). Bài viết khẳng định vị trí, vai trò
quan trọng của đội ngũ cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng, trình bày một
cách chi tiết những phẩm chất cần có của đội ngũ cán bộ: đạo đức cách mạng
(nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm); trung thành, hăng hái, trách nhiệm trong công
việc; có trình độ, năng lực, có ý thức tổ chức kỷ luật, tôn trọng và chấp hành
nghiêm pháp luật; ngoài ra tác giả còn chỉ ra những căn bệnh mà cán bộ cần
phải đề phòng, khắc phục;
- Ngô Văn Hà (2012), “Hồ Chí Minh với việc trọng dụng trí thức - nhân
tài”, Tạp chí Lịch sử Đảng (số 3). Bài viết đã khẳng định trọng dụng nhân tài
là truyền thống quý báu của dân tộc ta, nêu lên những quan điểm cơ bản của
chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của trí thức - nhân tài đối với sự nghiệp
cách mạng, đồng thời tác giả cũng đã chỉ ra nghệ thuật sử dụng nhân tài của
Hồ Chí Minh;

- Lê Kim Việt (2009), “Đạo đức, nhân cách cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận Chính trị (số 6). Bài viết đã khái quát
được những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa đức và tài; cụ thể hóa những yêu cầu về phẩm chất chính trị và trình độ
chuyên môn đối với người cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay.

7


Ngoài ra còn có công trình của các tác giả: Trần Đình Thắng (2012),
“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước theo tinh thần
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI”, Tạp chí Lịch sử Đảng (số 3);
Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội…
Các công trình trên đây đã khái quát được những nét lớn, chủ yếu của
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người: vai trò động lực phát triển xã hội của
con người, vai trò và mối quan hệ của các yếu tố tài, đức của con người đối
với sự nghiệp cách mạng; vấn đề xây dựng và phát triển con người mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả của các công trình nghiên cứu trên đây làm cơ sở để bản thân tôi
tiếp tục nghiên cứu sâu hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa phẩm
chất chính trị và trình độ chuyên môn của người cán bộ, đồng thời vận dụng và
phát huy có hiệu quả tư tưởng đó trong thực tiễn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn
nhằm khẳng định giá trị khoa học của tư tưởng đó và vận dụng nó vào việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức nói chung và cán bộ, viên chức ở các
trường chính trị nói riêng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ làm rõ:

+ Quan niệm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của con người trong sự
nghiệp cách mạng.
+ Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn.
+ Thực trạng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức ở các trường
chính trị trong thời gian qua (từ năm 2005 đến 2012).
8


+ Đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, viên
chức ở các trường chính trị trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn;
thực tiễn xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, viên chức ở các trường
chính trị.
- Phạm vi nghiên cứu: một số trường chính trị trong nước từ năm 2005
đến 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn vận dụng các quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm,
chính sách của Đảng và Nhà nước về mối quan hệ giữa đức và tài trong xây
dựng con người. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các tài liệu, công trình nghiên
cứu có liên quan.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là
phương pháp phân tích-tổng hợp, lôgic-lịch sử, thống kê, so sánh v.v...
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn làm cơ sở cho việc quy hoạch, xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung; đội ngũ
cán bộ, viên chức ở các trường chính trị nói riêng; ngoài ra còn có thể dùng
làm tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh cho các
trường chính trị trong nước.

9


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
này được cấu trúc thành 02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phẩm chất chính
trị và trình độ chuyên môn theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Chương 2: Vận dụng và phát huy quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn trong xây dựng đội ngũ
cán bộ, viên chức các trường chính trị hiện nay.

10


Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẨM CHẤT CHÍNH TRỊ
VÀ TRÌNH ĐỘ CHUYÊN MÔN
1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của con người
trong sự nghiệp cách mạng
1.1.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh về con người
Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hòa của các quan
hệ xã hội từ hẹp đến rộng. Người từng khẳng định: “Chữ Người, nghĩa hẹp là

gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng
nữa là cả loài người” [25, tr.130]. Hồ Chí Minh không bao giờ xem xét con
người một cách trừu tượng mà luôn xuất phát từ hoàn cảnh con người hiện
thực cụ thể trong các quan hệ xã hội với nhiều bình diện, nhiều chiều khác
nhau. Đặc biệt ở Hồ Chí Minh, bên cạnh những khái niệm phổ quát như giai
cấp công nhân, giai cấp vô sản, nhân dân lao động, chúng ta đã thấy xuất hiện
thêm các khái niệm mới: “Người nô lệ mất nước”, “Người cùng khổ”. Theo
nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, đấy là những khái niệm xuất hiện đầy ấn
tượng và là một cách tiếp cận riêng của Hồ Chí Minh trong quan niệm về con
người. Có thể khẳng định: cách tiếp cận cơ bản nhất của Hồ Chí Minh vẫn là
đặt con người trong mối quan hệ với cộng đồng dân tộc. Bởi vì, hơn bất cứ ai,
Hồ Chí Minh luôn luôn ở trong lòng nhân dân, mang cùng một truyền thống
anh hùng, gắn bó với con người, với nhân dân từ trong khối óc, khát vọng và
con tim, trọn vẹn suốt cuộc đời.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn quan niệm con người, trong cấu trúc nhân
cách, là một hệ thống bao gồm tổng hoà nhiều yếu tố hợp thành như: thể xác
và tâm hồn, thể lực và trí tuệ, cái sinh vật và cái xã hội... Con người ai cũng
11


có chỗ hay chỗ dở, ai cũng có tính tốt tính xấu, có thiện có ác. Vấn đề là làm
sao cho phần xấu mất dần đi, phần tốt nảy nở như hoa mùa xuân; con người ta
sinh ra, ai cũng lớn lên, già đi rồi chết; người ta ai cũng muốn sung sướng,
mạnh khoẻ... Cách quan niệm như thế cho phép Hồ Chí Minh đạt tới cái nhìn
toàn diện về con người; là cơ sở để Hồ Chí Minh hiểu, cảm thông, lo lắng cho
con người. Đây là tư tưởng chủ đạo, bao trùm và xuyên suốt, vừa có ý nghĩa
như tiền đề xuất phát, đồng thời lại là mục đích trong hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của con người

trong sự nghiệp cách mạng
Nhân tố con người là vốn quý nhất, quyết định thắng lợi được Hồ Chí
Minh đề cập ở ba cấp độ đó là: nhân dân nói chung; công nhân, nông dân, trí
thức, bộ đội, cán bộ; mỗi một con người cụ thể - tức là nhân dân lao động. Hồ
Chí Minh nói: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân”; “cán bộ là gốc của công việc”; “muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hoặc kém”; “chúng ta phải biết quý trọng con người, nhất là
công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội”...
Tư tưởng “Dân vi bản”, “Dân vi quý” đã được bàn nhiều trong lịch sử
mà tiêu biểu nhất là trong Nho giáo. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng “Dân
vi bản”, “Dân vi quý” đã thể hiện một sắc thái mới, với tư thế mới. Nói đến
“Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nói đến toàn thể nhân dân, nói đến dân
chủ. Điều này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm “Dân vận” (15-10-1949),
Người viết:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
12


Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã tới chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [25, tr.232].
Như vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn đặt nhân dân vào địa vị cao nhất, địa vị
làm chủ trong những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội: lợi ích,
quyền hạn, công việc, trách nhiệm, chính quyền, đoàn thể (tức là Đảng),
quyền hành và lực lượng đều nhằm vào mục tiêu: vì dân, của dân, do dân, ở
nơi dân. Nó xác định vai trò dân chủ: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra. Dân vừa là chủ nhưng dân vừa thực hiện công việc làm chủ, vừa là chủ
thể, vừa là khách thể, vừa là lực lượng, động lực vừa là mục tiêu của cách
mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu
từ vốn con người, từ việc phát huy nhân tố con người. Nếu khinh dân, xem
khinh việc sử dụng và phát huy nhân tố con người sẽ là một sai lầm rất to, rất
có hại, có quan hệ mật thiết đến thành hay bại của sự nghiệp cách mạng.
Vai trò con người chính là vai trò của quần chúng nhân dân, người sáng
tạo chân chính ra lịch sử chứ không phải "vài ba cá nhân anh hùng nào", thể
hiện qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất: Lao động sản xuất, đấu tranh
chính trị - xã hội và sáng tạo các giá trị văn hóa - tinh thần.
Hồ Chí Minh cho rằng: Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do quần
chúng nhân dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội
mới sống còn phát triển, ngoài ra quần chúng còn là người sáng tác ra các giá
trị văn hóa - tinh thần. Người giải thích cơ sở khoa học cho vai trò đó xuất
phát từ chỗ lực lượng dân chúng nhiều vô cùng. “Kinh nghiệm trong nước và
13


các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó
khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì cũng làm không xong. Dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra" [24, tr.335].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người đóng vai trò là động
lực to lớn, quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tư
tưởng “dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả” cho thấy trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhân tố con người là nguồn lực quan trọng nhất, nguồn lực của mọi
nguồn lực. Vai trò ấy được Người kế thừa từ tư tưởng: “Chở thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân” của Nguyễn Trãi để rồi khái quát ở tầm chân lý.
Trong quá trình giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa động lực và mục

tiêu, Hồ Chí Minh chú ý đến mức độ mục tiêu đạt được trong điều kiện cụ thể
của từng giai đoạn cách mạng. Mà mục tiêu tổng quát là: giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người. Mục tiêu đó biểu hiện thành các mục
tiêu cụ thể:
Giai đoạn trước khi giành được chính quyền thì mục tiêu cao nhất là độc
lập dân tộc. Người nói: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn
hết thảy". Sau khi giành được chính quyền, thì mục tiêu: Ăn, mặc, ở, học
hành lại được ưu tiên hơn. Ngày 10-1-1946, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban
Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh yêu cầu: "Chúng ta phải thực
hiện ngay.
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành". [23, tr.175].
14


Sau năm 1954, miền Bắc đi vào khôi phục nền kinh tế, hoàn thành cải
cách ruộng đất, từng bước phát triển kinh tế tập thể. Giai đoạn này, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh vào việc phải "nâng cao dần mức sống của nhân dân... đồng
thời giảm nhẹ sự đóng góp của nông dân". Bước sang năm 1958, kết thúc thời
kỳ khôi phục kinh tế, mở đầu thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960),
Hồ Chí Minh nói nhiều về chủ nghĩa xã hội những mục tiêu cơ bản nhằm giải
phóng con người. Trong bối cảnh tập trung mọi nhân tài, vật lực cho phát
triển kinh tế và tiến hành đấu tranh vũ trang giải phóng miền Nam, Hồ Chí
Minh vẫn luôn quan tâm đến con người. Tại Hội nghị của Bộ Chính trị, Đảng
Lao động Việt Nam ngày 30-7-1962, Hồ Chí Minh đặt vấn đề: Ta phải tính
cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng, để giải quyết vấn đề ăn
và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống
căng thẳng quá. Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng cần

có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần
chúng. Làm tất cả là do con người... Làm cho quần chúng hiểu chủ nghĩa xã
hội đúng hơn.
Vào thời điểm đó, cách đặt vấn đề như vậy cho thấy chiều sâu mục tiêu
con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ
bước vào giai đoạn quyết liệt, thì mục tiêu "Không có gì quý hơn độc lập, tự
do" lại ở bậc cao của thang giá trị dân tộc. Mục tiêu con người gắn chặt với
chủ quyền dân tộc. Tại kỳ họp Quốc hội khóa III, ngày 10-4-1965, Hồ Chí
Minh kêu gọi: Lúc này, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất
của mọi người Việt Nam yêu nước. Ngay trong thời điểm lịch sử vô cùng khó
khăn đó, phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị lần thứ 12, khóa III Ban Chấp
hành TW Đảng, tháng 12-1965, Hồ Chí Minh lưu ý: "Chúng ta phải hết sức
chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là đời sống của các cháu, của các gia
đình thương binh, liệt sỹ, đời sống của nhân dân ở các vùng bị bắn phá
nhiều... những gia đình thu nhập thấp, đông con".
15


Bản Di chúc của Người cũng nêu công việc đầu tiên là đối với con
người. Điều đó cho thấy cái "bất biến" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tất cả vì
con người để ứng với cái "vạn biến" của lịch sử đặt ra. Theo Hồ Chí Minh, tất
cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát
khỏi áp bức, bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ
cộng sản. Nhưng để đi đến mục đích ấy, mỗi nước phải tùy theo điều kiện
thiết thực của mình mà tiến dần.
Mục tiêu giải phóng con người về mặt chính trị-xã hội cũng được Hồ Chí
Minh chú ý, nhấn mạnh. Giá trị và chiều sâu tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ở
chỗ đã nhìn nhận và đánh giá vai trò của văn hóa-đạo đức-truyền thống trong
tiến trình thực hiện mục tiêu phát triển con người.
Xét ở một khía cạnh nào đó, văn hóa-đạo đức-truyền thống là những yếu

tố cấu thành đời sống tinh thần, tâm linh con người. Con người không chỉ tồn
tại bằng đời sống vật chất, mà còn tồn tại cả trong đời sống tinh thần. Con
người không chỉ chịu sự chi phối của các quy luật vật chất khách quan, mà
còn chịu sự chi phối của các quy luật tình cảm, của văn hóa-đạo đức-truyền
thống. Giải phóng con người về mặt chính trị-xã hội là điều kiện tiên quyết,
nhưng mới chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ. Con người tồn tại
hài hòa trong môi trường đã được nhân tạo hóa dưới dạng: đạo đức, pháp luật,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... gọi chung là văn hóa-đạo đức-truyền thống.
Bản chất của nó được thể hiện trong các giá trị vật chất, tinh thần, tập trung
nhất ở nhân cách và lối sống con người.
Lý tưởng mà suốt đời Hồ Chí Minh theo đuổi là mưu cầu độc lập cho
dân tộc, người dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Một xã
hội mới theo Hồ Chí Minh quan niệm là một xã hội trong đó con người được
tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Con người có sự phát triển toàn diện về đức, trí,
16


thể, mỹ, có những quan hệ với tự nhiên, xã hội... trong sự biểu hiện cao nhất
về văn hóa-đạo đức-truyền thống. Do đó, Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa
xã hội là một xã hội lý tưởng, không chỉ ở thể chế chính trị dân chủ, cơ cấu
kinh tế, kỹ thuật hiện đại, mà còn là một cơ cấu có giá trị văn hóa-đạo đức
nhân bản. Sự phát triển kinh tế nếu không chú ý đến văn hóa-đạo đức thì
không đạt tới sự phát triển bền vững. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc nhấn
mạnh: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã
hội chủ nghĩa, muốn có những con người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, tức là con người có thể được phát triển sớm hơn so với sự
phát triển kinh tế-xã hội. Xây dựng con người không chỉ bồi dưỡng về chính
trị, văn hóa, chuyên môn kỹ thuật mà đặc biệt là đạo đức. Sự tiến bộ xã hội,
sự tiến bộ của con người có thể dựa vào tiêu chí tiến bộ về văn hóa-đạo đức,
coi như trình độ người trong phát triển. Ưu tiên văn hóa-đạo đức trong phát

triển xã hội "là sự phát triển rút ngắn", nhằm đạt tới mục tiêu con người, trong
đó "phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất
cả mọi người". Con đường phát triển rút ngắn, theo Hồ Chí Minh, không chỉ
là "cơ cấu lại" hệ thống các chuẩn mực văn hóa-đạo đức khách quan, mà ở
chỗ, nó hướng vào sự tự nhận thức, tự đánh giá, tự hoàn thiện về lối sống,
nhân cách của mỗi người. Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân, cải tạo cái cá nhân để từ đó cải tạo xã hội đồng thời với quá trình cải tạo
xã hội để tạo điều kiện cho cải tạo cá nhân.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự nhất quán coi con
người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng Việt Nam theo tinh
thần cách mạng và khoa học. Vấn đề con người gắn liền với cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa; mục tiêu giải phóng con người
gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Hồ Chí Minh kết luận phải

17


đem hết sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân; phải dựa vào lực lượng của
dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân và Chủ nghĩa xã hội là
nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự
xây dựng lấy.
1.2. Những nội dung cơ bản trong quan điểm Hồ Chí Minh về mối
quan hệ giữa phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn
1.2.1. Những yêu cầu cơ bản cần có của người cán bộ đối với sự
nghiệp cách mạng
Xuất phát từ vị trí, vai trò hết sức quan trọng của con người trong sự
nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu để hoàn thành tốt vai trò của mình,
người cán bộ cách mạng phải có đầy đủ những phẩm chất cần thiết và phải
luôn tự giác rèn luyện để không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Theo Hồ Chí Minh,

những yêu cầu cơ bản cần có đối với người cán bộ cách mạng là:
1.2.1.1. Về phẩm chất chính trị
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng,
là nội dung quan trọng của phẩm chất chính trị, đạo đức. Người nói: “Chính
trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị
thì chỉ còn cái xác không hồn, phải có chính trị trước rồi có chuyên môn”.
“Chính trị là đức, chuyên môn là tài” [31, tr. 269]. Đã là người cán bộ cách
mạng thì phải có đạo đức cách mạng. Giữ được đạo đức cách mạng mới có
thể trở thành người cán bộ cách mạng chân chính. Bởi vì: Mọi việc thành
công hay thất bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng
hay không.
Những nội dung cơ bản trong quan điểm của Hồ Chí Minh về phẩm chất
chính trị của người cán bộ cách mạng có thể được khái quát như sau:
18


Trung với nước, hiếu với dân:
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện
mới. Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ
nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm
châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân,
vì lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi
ích đều vì dân”... Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là
người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”.
Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành
với Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với
dân”. Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải

thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi
của người làm chủ đất nước, làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
Hiếu với dân là mỗi cán bộ, Đảng viên phải biết chăm lo cho cuộc sống
của dân ngày càng tốt hơn. Người nhấn mạnh: việc gì có lợi cho dân phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Chính quyền phải có trách
nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có
chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan
điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng,
đất nước.
Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình:
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
19


loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội. Tình yêu thương con người thể
hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân, những người lao động
bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu
thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức mạnh của mỗi người,
đoàn kết để phấn đấu đạt được mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành”. Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì
chặt chẽ, nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con
người lên, kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ. Yêu thương con người

phải dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn, hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là
phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống
không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư:
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ
Chí Minh, là mối quan hệ “với tự mình”. Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm,
liêm, chính là bốn đức tính của con người, như trời có bốn mùa, đất có bốn
phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
20


nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta. “Cần là luôn luôn cố gắng,
luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi
dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho lâu dài” [25, tr.120]. Lười
biếng là kẻ địch của chữ Cần và cũng là kẻ địch của dân tộc.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ,
không hoang phí, không bừa bãi” [25, tr.122].
Nhưng theo Hồ Chí Minh tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Người viết:
"Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc
đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn
bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đáng là kiệm. Việc đáng tiêu mà
không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là kiệm" [25, tr.123].
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong

công tác.
Liêm là trong sạch, là luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân, không tham
địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham
là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Hồ Chí Minh đã chỉ ta những hành vi trái với chữ liêm, đó là: “Cậy
quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư” [25,
tr.126]. “Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là
trộm). Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật
uý lao. Gặp giặc mà rút ra không dám đánh là tham sinh uý tử” [25, tr.127].
Chính: “ Nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn” [25, tr.129].
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: “Chớ nịnh hót người trên. Chớ xem khinh người dưới. Thái độ
phải chân thành, khiêm tốn, phải thật thà, đoàn kết, phải học người và giúp người
21


×