Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè của Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO (Lấy ví dụ Công ty Đầu tư Phát triển chè Nghệ An)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 125 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là thành viên của WTO và đã thực hiện những cam kết về mở
cửa thị trường cũng như được hưởng những ưu đãi trong tổ chức này. Việc
gia nhập WTO tạo ra các cơ hội phát triển lớn cho nông nghiệp Việt Nam nói
chung và ngành chè nói riêng khi các rào cản thương mại đuợc dỡ bỏ, cơ hội
thâm nhập thị trường quốc tế trở nên rõ ràng hơn. Do đó, việc tận dụng cơ hội
để phát triển ngành chè Việt Nam là việc làm cần thiết.
Hiện nay, Việt Nam hiện đang đứng thứ 7 về xuất khẩu và chiếm 6%
sản lượng xuất khẩu chè của thế giới. Năm 2006, xuất khẩu chè của cả nước
đạt 111 triệu USD, sản lượng xuất khẩu đạt 105 nghìn tấn, tăng 14% về kim
ngạch và 19,3% về lượng so với năm 2005. Tuy vậy, ngành chè đang đứng
trước những thách thức lớn cần phải xem xét và giải quyết. Hệ thống phân
phối sản phẩm chè trên thị trường nước ngoài không hợp lý, sản phẩm không
đảm bảo chất lượng, thiếu vùng nguyên liệu, sản xuất nhỏ lẻ là những bất cập
mà ngành chè đang gặp phải, và là nguyên nhân gây ra tình trạng hàng loạt lô
hàng chè xuất khẩu Việt Nam bị trả về, giá xuất khẩu chỉ bằng một nửa các
nước trong khu vực, khả năng cạnh tranh thấp, tình trạng mất thị trường
thường diễn ra. Nếu không khắc phục được tình trạng đó, mặt hàng chè Việt
Nam khó có khả năng cạnh tranh khi Việt Nam là thành viên WTO.
Với mục tiêu trong trong giai đoạn 2010-2015, xuất khẩu chè đạt trên
200 triệu USD hàng năm, Việt Nam cần phải có các giải pháp nhằm thúc đẩy
xuất khẩu chè. Vì vậy, việc chọn đề tài “Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè của
Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO (Lấy ví dụ Công ty Đầu tư Phát triển
chè Nghệ An)” có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.


2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay có một số đề tài có nghiên cứu về ngành chè: Luận văn (2003)
“Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mặt hàng chè Việt Nam
sang thị trường Mỹ” của Lý Thị Thu Hiền đề cập tới các đặc điểm của ngành
chè Việt Nam và nhu cầu của thị trường Mỹ từ đó đưa ra các giải pháp thúc
đẩy xuất khẩu chè sang thị trường này; Luận văn (2004) “Một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng chè Việt Nam sang thị trường
EU giai đoạn hiện nay” của Trần Thị Ngọc đề cập các giải pháp tăng cường
xuất khẩu chè sang thị trường EU; hay đề tài nghiên cứu (2003) “Một số giải
pháp tài chính nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất
chè trong điều kiện hiện nay” của Nguyễn Thị Minh Hạnh, đề cập đến khía
cạnh tài chính trong việc tăng cường năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp
chè Việt Nam. Những đề tài này đều không xem xét vấn đề gia nhập WTO của
Việt Nam và cũng chưa nghiên cứu tổng hợp các vấn đề liên quan đến thúc đẩy
xuất khẩu mặt hàng chè Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm đánh giá tình hình thúc đẩy xuất khẩu mặt
hàng chè Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu
mặt hàng này trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO.
Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ: (1) Hệ thống hoá
những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và
tổng kết kinh nghiệm một số nước về thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè làm
bài học đối với Việt Nam, (2) Đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt
hàng chè của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, (3) Nghiên cứu xu hướng thị
trường chè thế giới và chiến lược phát triển ngành chè, từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu chè Việt Nam khi gia nhập WTO.


3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt
hàng chè Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO. Đề tài nghiên cứu sâu
trường hợp Công ty Đầu tư Phát triển chè Nghệ An trong lĩnh vực xuất khẩu
nhằm tìm ra giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè Việt
Nam từ năm 1995 đến nay từ khía cạnh chính sách và lấy Công ty Đầu tư
Phát triển chè Nghệ An làm trường hợp nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đề
tài còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, đặc biệt
là phương pháp nghiên cứu tình huống để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp của đề tài
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá, tổng kết kinh nghiệm các nước về xuất khẩu chè đề làm bài học cho
Việt Nam.
Phân tích thực trạng thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chè Việt Nam, đánh
giá những thành công và hạn chế của hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng
chè Việt Nam hiện nay.
Dự báo xu thế chung của thị trường chè thế giới, từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè Việt Nam trong điều kiện
gia nhập WTO.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
danh mục chữ viết tắt, luận văn được trình bày trong 3 chương:


4

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hoạt động thúc đẩy xuất

khẩu hàng hoá và kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu mặt
hàng chè của một số nước
Chương 2: Thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (Trường hợp Công ty
Đầu tư Phát triển chè Nghệ An)
Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chè của Việt Nam
trong điều kiện gia nhập WTO


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ KINH NGHIỆM THÚC ĐẨY
XUẤT KHẨU MẶT HÀNG CHÈ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.1. Khái quát về hoạt động xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm và vai trò
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là sự trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa
các chủ thể kinh tế trên các quốc gia khác nhau. Sự trao đổi, mua bán này
được thực hiện thông qua sự thoả thuận tự nguyện giữa các chủ thể kinh tế
với nhau, lấy tiền tệ làm môi giới, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá và
được xác nhận bằng hợp đồng mua bán ngoại thương. Hàng hoá được mua
bán trao đổi có thể là hàng hoá hữu hình hoặc hàng hoá vô hình.
Hoạt động xuất khẩu không chỉ diễn ra khi các chủ thể mua bán là ở
trên các quốc gia khác nhau và đối tượng mua bán phải được dịch chuyển qua
biên giới của ít nhất một quốc gia mà theo quan niệm mới, hoạt động xuất
khẩu bao gồm cả hoạt động trao đổi buôn bán với khách hàng nước ngoài
hiện diện ngay tại nước xuất khẩu (không hoàn toàn dịch chuyển qua biên
giới), tức là xuất khẩu tại chỗ, và đồng tiền thanh toán là ngoại tệ.

Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng, quyết
định đến sự phát triển nền kinh tế xã hội của một quốc gia. Hoạt động này cho
phép một nước mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của mình. Nó cho phép
tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn khả năng sản xuất trong
nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không trao đổi buôn bán hàng hoá.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của một
quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất


6

lớn vào lĩnh vực kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng
ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, kích thích
đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng
cao mức sống của người dân.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã nhận thức được vai trò quan trọng của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, đặc biệt là của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong sự phát triển
kinh tế nói chung và trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nói riêng.
Từ thực tế đổi mới và kinh nghiệm của một số nước trong khu vực, Đảng
ta đã quyết định thay thế chiến lược công nghiệp hoá “thay thế nhập khẩu” bằng
chiến lược công nghiệp hoá “hướng về xuất khẩu”, trong đó chú ý đến xuất khẩu
sản phẩm nông nghiệp, một thế mạnh của Việt Nam trong buôn bán quốc tế.
Vai trò của xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau đây:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ cho công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường
tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của Việt Nam.
Để thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá đòi hỏi phải có vốn rất lớn để nhập

khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến mà nguồn vốn quan
trọng nhất là từ xuất khẩu, xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của
nhập khẩu.
- Xuất khẩu góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng
mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng
phát triển của kinh tế thế giới là một tất yếu đối với Việt Nam.


7

Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản
phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa, nếu như vậy thì quy mô xuất
khẩu thấp và tăng trưởng chậm chạp. Hai là coi thị trường thế giới là hướng
quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện ở:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận
lợi. Trong nền kinh tế, ngành sản xuất này luôn là đầu ra cho một hay nhiều
ngành sản xuất khác và cũng là đầu vào cho một số ngành sản xuất nhất định.
Do đó, khi sản phẩm của ngành này được xuất khẩu thì cũng đồng nghĩa với việc
ngành sản xuất nguyên liệu của ngành đó sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản
xuất phát triển và ổn định. Nhờ có hoạt động xuất khẩu mà thị trường tiêu thụ của
các sản phẩm không còn bó hiẹp trong phạm vi của thị trường trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra tiền đề kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản
xuất trong nước hay nói cách khác xuất khẩu tạo thêm vốn, kỹ thuật, công
nghệ tiên tiến từ bên ngoài nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nước ta.

+ Thông qua xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, qua đó đòi hỏi chúng
ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp.
- Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống của nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm nhiều mặt, trước hết,
sản xuất hàng xuất khẩu thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động. Mặt khác, xuất khẩu tạo nguồn vốn để
nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được
hoặc sản xuất chưa đủ đáp ứng nhu cầu.


8

- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại và phụ
thuộc lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và công
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng
vận tải quốc tế và chính các quan hệ đối ngoại nói trên lại tạo tiền đề mở
rộng xuất khẩu.
1.1.2. Một số lý thuyết liên quan đến xuất khẩu
1.1.2.1. Lý thuyết truyền thống
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được hình thành trên cơ sở lý
thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith và lợi thế so sánh của David Ricardo.
Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, mỗi quốc gia có
lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên hay trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản
xuất ra những sản phẩm nhất định mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so
với các nước khác. Đầu ra dư thừa phải được xuất khẩu để đổi lại nhập khẩu.
Những hoạt động hàng hoá mà quôc gia này có một bất lợi tuyệt đối, từ đó có
thể thấy lợi ích của việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhu là được

tiêu dùng nhiều hơn khả năng sản xuất của mình. Tuy nhiên, lý thuyết tuyệt
đối của Adam Smith chỉ lý giải được sự trao đổi giữa các quốc gia có lợi thế
tuyệt đối về một mặt hàng nào đó và thường là các quốc gia phát triển với
nhau, lý thuyết này không lý giải nổi vì sao các nước kém phát triển vẫn có
thể tham gia vào buôn bán hàng hoá với các nước phát triển.
Để trả lời câu hỏi này, David Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so
sánh (lợi thế tương đối). Theo lý thuyết này, một quốc gia kém hữu hiệu hơn
quốc gia khác trong từng dây chuyền sản xuất các loại sản phẩm vẫn cần phải
tham gia vào hoạt động xuất khẩu vì nó có thể tạo ra những lợi ích không nhỏ
mà nếu bỏ qua quốc gia đó sẽ mất cơ hội để phát triển. Nói cách khác, trong
điểm bất lợi còn có những điểm có lợi để khai thác. Khi tham gia vào hoạt


9

động xuất nhập khẩu, quốc gia có hiệu quả thấp mà họ hưởng lợi thế tương
đối lớn nhất (hoặc bát lợi trong tương đối quá thấp) và nhập về hàng hoá mà
việc sản xuất nó gặp bất lợi nhiều nhất, từ đó tiết kiệm được nguồn lực của
mình và thúc đảy sản xuất trong nước.
Như vậy, có thể nói hoạt động xuất khẩu là một hoạt động có tính tất yếu,
đặc biệt là với xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá như hiện nay trên thế giới,
khi mà biên giới kinh tế giữa các quốc gia đang dần dần bị xoá nhoà. Sự chuyên
môn hoá sản xuất những sản phẩm có lợi để xuất khẩu và từ đó nhập khẩu
những sản phẩm bất lợi hơn sẽ giúp cho việc sử dụng tốt nhất, hiệu quả nhất
nguồn lực của mọi quốc gia. Bên cạnh đó, nó còn làm tăng sản lượng và chất
lượng sản phẩm, tạo điều kiện mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi quốc gia.
1.1.2.1. Lý thuyết mới
a. Lý thuyết về khả năng cạnh tranh
Nhằm thúc đẩy xuất khẩu một mặt hàng, cần phải nghiên cứu sự liên
quan của các vấn đề như nhu cầu tiêu thụ trên thị trường, các yếu tố phục vụ

sản xuất mặt hàng, cơ chế chính sách của Nhà nước cũng như yếu tố cạnh
tranh trên thị trường. Qua đó sẽ giúp một ngành hay một công ty đưa ra được
các biện pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh từ đó thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu. Vấn đề này được phân tích qua lý thuyết về khả năng cạnh tranh
của Michael Porter.
Lý thuyết này do Michael Porter đưa ra vào những năm 1990. Mục đích
là giải thích tại sao một số quốc gia lại có vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất
một số sản phẩm. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lập luận rằng khả
năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả
năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó.
Theo lý thuyết này, khả năng cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự
liên kết của bốn nhóm yếu tố: điều kiện về các yếu tố sản xuất; điều kiện về
cầu; các ngành công nghiệp có liên quan và các ngành công nghiệp bổ trợ; và


10

chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành. Cả bốn yếu tố này tác
động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh của một quốc
gia. Ngoài bốn yếu tố trên còn có một yếu tố cực kỳ quan trọng nữa là yếu tố
tác động của Chính phủ và cơ hội kinh doanh. Đây là yếu tố có thể chi phối cả
bốn yếu tố cơ bản trên đây.
Hình 1.1: Các điều kiện quyết định lợi thế cạnh tranh
Chính phủ

Chiến lược, cơ cấu và
cạnh tranh nội bộ ngành

Điều kiện về cầu


Điều kiện về các
yếu tố sản xuất

Các ngành công nghiệp
bổ trợ

Cơ hội

- Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Được phân thành hai nhóm là nhóm
các yếu tố cơ bản và nhóm các yếu tố tiên tiến. Nhóm các yếu tố cơ bản bao
gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, nguồn lao động chưa
qua đào tạo hoặc đào tạo đơn giản và nguồn vốn. Nhóm các yếu tố tiên tiến
bao gồm cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc viễn thông, kỹ thuật số hiện đại,
nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong hai nhóm yếu tố đó, mô hình chú trọng
và đề cao nhóm yếu tố thứ hai và coi đây là nhóm yếu tố cốt lõi quyết định
đến khả năng cạnh tranh quốc gia. Việc hình thành nhóm yếu tố tiên tiến chủ
yếu thông qua các hoạt động đào tạo và cơ chế khuyến khích sự sáng tạo, đổi
mới và phát triển.
- Điều kiện về cầu: thể hiện trực tiếp ở tiềm năng của thị trường. Thị
trường là nơi quyết định cao nhất khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Thị


11

trường trong nước có những đòi hỏi cao về sản phẩm sẽ là động lực thúc đẩy
các công ty thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm. Cũng tương tự như
vậy, thị trường nước ngoài đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với các sản phẩm
và dịch vụ đòi hỏi các công ty muốn thành công trên thị trường nước ngoài
phải có cách ứng xử thoả đáng.
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ: Khả năng cạnh tranh của một ngành

nói riêng và khả năng cạnh tranh của một quốc gia nói chung phụ thuộc rất
lớn vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan.
Ngành công nghiệp hỗ trợ thường là các ngành cung cấp các đầu vào cho
ngành có khả năng cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh của các ngành hỗ trợ sẽ tạo
lợi thế tiềm tàng cho các doanh nghiệp như cung cấp trong thời gian ngắn và
với chi phí thấp. Hơn nữa, ngành hỗ trợ là chất xúc tác truyền tải thông tin và
đổi mới từ doanh nghiệp này đến doanh nghiệp khác, đẩy nhanh tốc độ đổi
mới trong toàn nền kinh tế.
- Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành: Khả năng
cạnh tranh còn được quyết định bởi các yếu tố như mục tiêu, chiến lược và
cách tổ chức doanh nghiệp. Hơn nữa, tình hình cạnh tranh trong nước có vai
trò rất lớn trong quá trình đổi mới và thành công trên thị trường thế giới.
Ngoài bốn nhóm yếu tố trên, cơ hội và vai trò của chính phủ cũng là
những nhân tố tác động rất quan trọng đến khả năng cạnh tranh. Chính phủ có
thể thông qua những chính sách (tỷ giá hối đoái, trợ cấp, lãi suất, thuế và các
công cụ khác) để tác động tới các ngành. Chẳng hạn Chính phủ Trung Quốc
thường có chính sách khuyến khích xuất khẩu thông qua các biện pháp như
thưởng xuất khẩu, giảm giá đồng tiền trong nước, thành lập các trung tâm xúc
tiến thương mại, giảm bớt mức độ kiểm soát ngoại tệ… góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Trung Quốc trên thị
trường thế giới.


12

Các cơ hội là những sự kiện xảy ra ít liên quan đến tình trạng hiện tại
của quốc gia và thường nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của các Công ty (và
thường cả của chính phủ). Những cơ hội đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến
lợi thế cạnh tranh như sự thay đổi bất ngờ về công nghệ (như công nghệ sinh
học, công nghệ điện tử); thay đổi chi phí đầu vào; thay đổi đáng kể trên thị

trường chứng khoán thế giới, tỷ giá hối đoái; tăng mạnh của cầu thế giới hay
khu vực; quyết định chính trị của các Chính phủ nước ngoài.
b. Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Các phát minh có thể ra đời ở các nước giàu, nhưng điều đó không có
nghĩa là quá trình sản xuất sẽ chỉ được thực hiện ở các nước đó mà thôi. Theo
Vernon (1966) các nhân tố cần thiết việc sản xuất một sản phẩm mới sẽ thay
đổi tùy theo vòng đời của sản phẩm đó.
Đầu tiên khi một sản phẩm mới được giới thiệu việc sản xuất và tiêu
thụ còn mang tính chưa chắc chắn và phụ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp
nhân công lành nghề và khoảng cách gần gũi với thị trường. Lúc đó sản phẩm
sẽ được sản xuất (với chi phí cao) và xuất khẩu bởi các nước lớn và giàu có
(chẳng hạn như Mỹ).
Khi sản phẩm trở nên chín muồi, công nghệ sản xuất dần dần trở nên
chuẩn hóa và được phát triển rộng rãi. Thị trường tiêu thụ mở rộng tạo điều
kiện cho việc tổ chức sản xuất trên quy mô lớn với chi phí thấp. Các quốc gia
khác, thường là những nước dồi dào tương đối về vốn (Tây Âu, Nhật Bản), có
thể bắt chước công nghệ sản xuất, và do đó lợi thế so sánh được chuyển từ
nước phát minh sang các quốc gia này. Nước phát minh khi đó có thể chuyển
đổi vai trò từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Cuối cùng, khi công nghệ trở nên hoàn toàn được chuẩn hóa, quá trình
sản xuất có thể được chia ra thành nhiều công đoạn khác nhau và tương đối
đơn giản. Lợi thế so sánh được chuyển tới những nước đang phát triển, nơi có


13

lực lượng lao động dồi dào và mức lương thấp, và những nước này trở thành
nước xuất khẩu ròng. Để tạo được lợi thế trong cạnh tranh qua đó thúc đẩy
họat động xuất khẩu, các ngành cần duy trì và tận dụng được ưu thế về sự dồi
dào về lao động với mức lương thấp.

c. Lý thuyết thương mại chiến lược
Lý thuyết thương mại chiến lược cho thấy rằng sự can thiệp của chính
phủ vào thị trường có một số ít các thương nhân có thể thúc đẩy lợi ích của
một quốc gia tham gia vào thương mại tự do. Cuộc khảo sát đã đánh giá
những minh chứng liên quan đến khả năng này. Một kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra rằng trong khi nhiều thị trường nông sản và thực phẩm quốc tế được
đặc trưng bởi độc quyền nhóm, số tiền ngoài giá thành sản phẩm để bù đắp
chi phí và có lãi có xu hướng nhỏ và lợi ích thu được do sự can thiệp này ở
mức trung bình tốt nhất. Sự can thiệp của chính phủ như trợ cấp xuất khẩu
nông sản nhìn chung không phải là tối ưu xét trên khía cạnh thương mại chiến
lược. Minh chứng này cho thấy rằng bản thân độc quyền nhóm không phải lý
do để không tham gia thương mại tự do trên thị trường quốc tế.
Lý thuyết thương mại chiến lược rất khác so với những lý thuyết khác
về thương mại tự do. Một cơ sở của lý thuyết này là việc tranh luận về khái
niệm “thương mại”, trong đó một hạn chế thương mại có thể mang lại lợi ích
cho một quốc gia riêng rẽ đủ lớn để ảnh hưởng đến giá quốc tế.
Những cơ sở lý luận này đều có những hạn chế riêng và lý thuyết
thương mại chiến lược cũng vậy nhưng điểm khác biệt của lý thuyết thương
mại chiến lược là sự nhấn mạnh của nó đến độc quyền nhóm trên thị trường
quốc tế như một sơ sở lý luận cho việc can thiệp của chính phủ.
Nội dung chiến lược của việc phân tích này nhấn mạnh đến các doanh
nghiệp cố gắng giữ vững quan niệm của mình. Lập luận chủ yếu dựa trên sự
cam kết vững chắc là ủng hộ các doanh nghiệp trong nước. Sự cam kết này có
thể dưới dạng trợ cấp, thuế quan, quota, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, tài trợ
nghiên cứu, xây dựng năng lực hoặc bất kỳ một công cụ chính sách nào có thể


14

thay đổi kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Sự cam kết này thường có dạng

điển hình là can thiệp của chính phủ.
Trong thực tế, động lực dẫn đến sự can thiệp của chính phủ thường xuất
phát từ một số lượng nhỏ những nhóm lợi ích tham gia ngành. Tuy nhiên, hầu
hết các mô hình đều đặc trưng cho chính sách tối ưu như tổi đa hóa lợi ích
kinh tế quốc gia. Điều này hoàn toàn có thể với những giả thiết nhất định. Ví
dụ, tiêu dùng nội địa của một sản phẩm có thể bị xem nhẹ để tập trung vào
việc cạnh tranh để thu được lợi nhuận trên thị trường quốc tế. Trái với mô
hình thương mại cạnh tranh truyền thống, lợi ích thu được từ tiêu dùng không
có vai trò gì cả. Do chưa kể đến các nhân tố tác động khác, chi phí cận biên
của mỗi doanh nghiệp cũng là chi phí xã hội về những nguồn lực mà nó sử
dụng. Do đó, lợi ích quốc gia có thể được định nghĩa là lợi ích mà mỗi doanh
nghiệp thu được, trừ đi bảo hộ từ chính phủ.
Việc bảo hộ sẽ hạ thấp chi phí của doanh nghiệp nước nhà và khiến
doanh nghiệp muốn xuất khẩu nhiều hơn mức xuất khẩu của các đối thủ cạnh
tranh. Do sản phẩm nước nhà và nước ngoài là những sản phẩm có khả năng
thay thế lẫn nhau, doanh nghiệp nước ngoài phải giảm sản lượng bình quân
của mình. Khi trợ cấp xuất khẩu trong nước tăng lên, sản lượng cũng tăng lên,
giá giảm và lợi nhuận của doanh nghiệp nước nhà tăng trong khi lợi nhuận
của nước ngoài giảm. Kết quả là lợi nhuận được chuyển từ doanh nghiệp
nước ngoài về doanh nghiệp nước nhà.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thúc đẩy xuất khẩu
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá nông
sản, trong đó nhóm những yếu tố cơ bản nhất bao gồm:
- Môi trường tự nhiên và sự phát triển của vùng nguyên liệu
Môi trường tự nhiên bao gồm các yếu tố như vị trí địa lý, khí hậu, đất
đai, tài nguyên thiên nhiên sông biển, tài nguyên rừng luôn là yếu tố quan trọng
hàng đầu ảnh hưởng tới kết quả sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên, muốn khai


15


thác triệt để các lợi thế của môi trường tự nhiên phục vụ cho sản xuất nông sản
xuất khẩu thì còn phải có định hướng vè phát triển vùng nguyên liệu.
- Chất lượng và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu.
- Năng lực tổ chức sản xuất, chế biến và xuất khẩu.
- Thị trường tiêu thụ.
- Chính sách của nhà nước về hoạt động xuất khẩu.
1.2. Một số chính sách thúc đẩy xuất khẩu
1.2.1. Chính sách tỉ giá hối đoái
Khi tỉ giá hối đoái tăng lên, có nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm
xuống so với đồng ngoại tệ, tác động bất lợi đến hoạt động nhập khẩu nhưng
lại có lợi cho xuất khẩu. Trong trường hợp này, tỷ giá tăng lên có tác động
khuyến khích xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu có
thể đổi được nhiều hơn đồng nội tệ, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh tranh trên
thị trường quốc tế, Chính phủ có thể tăng tỷ giá hối đoái để thúc đẩy xuất
khẩu khi cần thiết.
1.2.2. Chính sách xúc tiến xuất khẩu
Có nhiều cách quan niệm về hoạt động xúc tiến xuất khẩu song nhìn
chung đây là một bộ phận của xúc tiến thương mại. Theo quan điểm của
Sernghau và Rosson năm 1990 thì xúc tiến xuất khẩu được hiểu là những
công cụ của chính sách nhằm thúc đẩy trực tiếp hoặc gián tiếp đến các hoạt
động xuất khẩu ở cấp độ doanh nghiệp, một ngành công nghiệp hay cấp độ
quốc gia. Chung quy đó là các hoạt động được thiết kế để tăng xuất khẩu của
một quốc gia hay một công ty. Các hoạt động này bao gồm:
- Việc tham gia vào các hội chợ thương mại, cử các phái đoàn thương
mại ra nước ngoài, tiến hành quảng cáo..
- Thiết lập chiến lược phát triển nhấn mạnh đến mở rộng xuất khẩu
thông qua các chính sách hỗ trợ xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh của



16

đất nước. Đặc biệt khi các chính sách trong nước khác tạo ra những lệch lạc
bất lợi cho xuất khẩu.
Xúc tiến xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh
nghiệp, đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu của đất nước.
Xúc tiến xuất khẩu thường được thể hiện và kết hợp chặt chẽ ở quy mô
quốc gia và ở các doanh nghiệp.
- Ở cấp độ quốc gia, hoạt động xúc tiến xuất khẩu thường bao gồm:
+ Xây dựng chiến lược, định huớng xuất khẩu.
+ Ban hành các biện pháp, chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
+ Lập các Viện nghiên cứu cung cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu.
+ Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà xuất khẩu.
+ Lập các cơ quan Nhà nước ở nước ngoài để nghiên cứu tại chỗ tình
hình thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách của chính phủ nước sở tại.
- Ở cấp độ doanh nghiệp, hoạt động xúc tiến xuất khẩu gồm:
+ Tiến hành quảng cáo để bán hàng ra nước ngoài.
+ Tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài.
+ Cử các đoàn cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hoá,
thương hiệu và chính sách nhập khẩu của nước mua hàng.
+ Lập văn phòng đại diện ở nước ngoài hay ở các trung tâm thương
mại quốc tế lớn.
1.2.3. Chính sách trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu chính là những ưu đãi mà Chính phủ một số nước
dành cho các doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Trợ cấp xuất khẩu bao gồm phạm vi rất rộng như: Chính phủ trực tiếp
cấp vốn, cho vay, góp cổ phần, đảm bảo tín dụng; Chính phủ bỏ qua hay
không thu các khoản thu mà doanh nghiệp phải nộp; Chính phủ cung cấp
hàng hoá hay dịch vụ nói chung hoặc thu mua hàng vào; Chính phủ đóng góp



17

tiền vào một cơ chế tài trợ, hay giao hoặc ra lệnh cho một cơ quan tư nhân
thực thi một hay nhiều công việc trên đây; hỗ trợ thu nhập hoặc trợ giá khi
xuất khẩu…
Mục đích của trợ cấp xuất khẩu là giúp người xuất khẩu tăng thu nhập
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá, do đó đẩy mạnh được xuất khẩu.
Có hai hình thức trợ cấp xuất khẩu, thể hiện:
- Trợ cấp trực tiếp là việc Nhà nước trực tiếp dành cho doanh nghiệp
những thuận lợi khi xuất khẩu hàng hóa như: Trực tiếp cấp tiền (cấp vốn, cho
vay ưu đãi hoặc góp cổ phần) hoặc Chính phủ bảo lãnh các khoản vay. Chính
phủ miễn những khoản tiền đáng lẽ phải đóng, áp dụng thuế suất ưu đãi đối
với hàng xuất khẩu. Cho các nhà xuất khẩu được hưởng các giá ưu đãi cho
các đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu như điện, nước, trợ giá xuất khẩu. Từ đó
trực tiếp làm giảm giá thành tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu.
- Trợ cấp gián tiếp là Nhà nước gián tiếp hỗ trợ cho các doanh
nghiệp gia tăng xuất khẩu như: giới thiệu, triển lãm, quảng cáo, đào tạo,
giúp đỡ kỹ thuật…
Đối với trợ cấp xuất khẩu: Trợ cấp trong WTO được chia thành 3 nhóm
là nhóm “hộp đỏ”, “hộp vàng” và “hộp xanh”. Nhóm “hộp đỏ” là trợ cấp bị
cấm sử dụng bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thế nhập khẩu để
khuyến khích sử dụng đầu vào trong nước, khuyến khích nội địa hoá. Nhóm
“hộp vàng” là trợ cấp riêng biệt cho một ngành hoặc một vùng, gây lệch lạc
thương mại mặc dù nhóm này không bị cấm sử dụng nhưng nếu sử dụng,
chúng ta có thể bị đánh thuế chống trợ cấp… Nhóm “hộp xanh” là trợ cấp
được coi là ít gây lệch lạc cho thương mại và được phép áp dụng là trợ cấp
chương trình nghiên cứu và phát triển, trợ cấp phát triển vùng khó khăn.
1.2.4. Chính sách tín dụng xuất khẩu

1.2.4.1. Nhà nước bảo lãnh tín dụng xuất khẩu
- Nhà nước bảo lãnh trước ngân hàng cho nhà xuất khẩu


18

Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thuộc các nước
đang phát triển khi thực hiện các thương vụ đều phải vay vốn các ngân hàng
thương mại. Nhưng muốn ngân hàng cấp tín dụng cần phải thế chấp hoặc có
sự bảo lãnh. Trong trường hợp này nhà nước đứng ra bảo lãnh cho doanh
nghiệp vay, nếu có rủi ro gì đối với khoản tín dụng đó nhà nước sẽ chịu.
- Nhà nước bảo lãnh trước khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu thực hiện
cấp cho nhà nhập khẩu.
Để khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn xuất khẩu hàng hoá bằng cách
bán chịu hoặc trả chậm, Nhà nước đứng ra bảo lãnh, đền bù nếu bị mất vốn.
1.2.4.2. Bảo hiểm tín dụng
Mặc dù có đủ điều kiện được các ngân hàng cho vay, nhưng nhiều
doanh nghiệp còn lo lắng khi xuất khẩu sang một số thị trường có nhiều biến
động, dễ gặp rủi ro. Nhà nước sẽ khuyến khích thông qua nghiệp vụ bảo hiểm
tín dụng. Nếu có rủi ro gì trong quá trình đi vay hay bán chịu, sẽ được các cơ
quan bảo hiểm đền bù theo mức phí mà doanh nghiệp mua.
1.2.4.3. Nhà nước cấp tín dụng xuất khẩu
- Nhà nước cấp tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu
thường là rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn cả trước và sau
khi giao hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhiều khi người xuất khẩu
cũng cần có thêm vốn để kéo dài các khoản tín dụng ngắn hạn mà họ dành
cho người mua nước ngoài. Đặc biệt, khi bán hàng theo phương thức bán
hàng chịu, thu tiền hàng xuất khẩu sau, thì việc cấp tín dụng xuất khẩu trước
khi giao hàng hết sức quan trọng.

Nhiều chương trình phát triển xuất khẩu không thể thiếu được việc cấp
tín dụng của Chính phủ theo những điều kiện ưu đãi.


19

Lãi suất tín dụng xuất khẩu là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến sức cạnh
tranh của người xuất khẩu. Vì vậy, nhiều nước đã cấp tín dụng theo lãi suất
ưu đãi thấp hơn lãi suất thương mại để người xuất khẩu có thể bán được giá
thấp có sức cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Lãi suất càng thấp thì chi phí
xuất khẩu càng giảm và khả năng cạnh tranh của người xuất khẩu càng mạnh.
- Nhà nước cấp tín dụng cho nước ngoài
Nhà nước trực tiếp cho nước ngoài vay tiền với lãi suất ưu đãi để sử
dụng số tiền đó mua hàng của nước cho vay. Nguồn vốn này thường lấy từ
ngân sách nhà nước. Việc cho vay này thường kèm theo các điều kiện kinh tế
và chính trị có lợi cho nước cho vay.
1.3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất và kinh doanh mặt hàng chè
1.3.1. Đặc điểm sản xuất, kinh doanh
- Chè là sản phẩm uống thiên nhiên cơ bản của con người. Chè có
nhiêu vitamin, có giá trị dinh dưỡng và bảo vệ sức khoẻ, có tác dụng giải
khát, bổ dưỡng và kích thích hệ thần kinh trung ương, giúp tiêu hoá các chất
mỡ, giảm được bệnh béo phì, chống lão hoá, do đó, nước chè đã trở thành thứ
nước uống của nhân loại. Ngày nay, hầu hết các dân cư trên thế giới đều dùng
nước chè làm nước uống hàng ngày.
Chè có giá trị sử dụng và là hàng hoá có giá trị kinh tế cao, là một sản
phẩm xuất khẩu có giá trị, trên thị trường thế giới, thị trường trong nước đòi
hỏi vè chè ngày càng nhiều với yêu cầu chất lượng ngày một cao. Chè là cây
có hiệu lực khai thác vùng đất đai rộng lớn của trung du và miền núi, phủ
xanh đất trốn, đồi núi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái. Cây chè sử dụng lao
động sống quanh năm và tương đối nhiều, tạo công ăn việc làm không những

cho lao động chính mà cả lao động phụ nên có tác dụng điều hoà lao động từ
vùng đồng bằng lên vùng trung du, miền núi thưa thớt.


20

- Sản phẩm chè ít co giãn về mặt cung cầu.
Các loại sản phẩm chè là loại phục vụ trực tiếp cho nhu cầu cơ bản của
cuộc sống con người, tuy nhiên, không vì sản phẩm trên thị trường nhiều và
rẻ mà người tiêu dùng cần nhiều sản phẩm hơn mà do những giới hạn về sinh
lý nên mỗi người cũng chỉ tiêu thụ mỗi loại với số lượng nhất định, không
phải có nhu cầu tiêu dùng lớn và đắt giá mà người sản xuất muốn cung ngay
một khối lượng lớn cho thị trường được vì sản xuất sản phẩm chè đòi hỏi phải
có thời gian, mà thời gian sản xuất lại tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật
của sản phẩm.
Cho nên, xét về khía cạnh cung cầu của sản phẩm chè cho thị trường thì
nó ít co giãn về cung cầu. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu để góp phần ổn định
và phát triển thị trường sản phẩm chè, một mặt phải nghiên cứu được nhu cầu
để đẩy mạnh sản xuất, tăng cung, đáp ứng nhu cầu một cách chủ động, mặt
khác, phải chủ động có những giải pháp để điều hoà cung cầu một khi có biến
động lớn trên thị trường bằng các biện pháp như bảo hộ, bảo hiểm.
- Sản phẩm chè có tính thời vụ trong sản xuất nhưng tiêu dùng quanh năm.
Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là có tính thời vụ cao, nhất là
đối với ngành trồng trọt mà cung và cầu sản phẩm chè trên thị trường không
cân bằng về thời gian và không gian thông thường. Ngay sau vụ thu hoạch, do
nhu cầu tiêu dùng để thực hiện quá trình tái sản xuất tiếp theo buộc người sản
xuất bán nông sản ra thị trường không kể giá thị trường cao hay thấp. Hơn
nữa, hàng loạt người sản xuất cùng thu hoạch và có cùng yêu cầu tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường đã làm cho khối lượng cung tại thời điểm đó vượt quá
cầu và giá thường giảm nhiều, thậm chí có lúc giảm thấp hơn giá vốn sản

xuất. Nhưng vào thời kỳ chè đến, người sản xuất bán ra ít, khối lượng cung
nhỏ hơn cầu của xã hội dẫn đến giá thị trường tăng lên. Song không vì thế mà
người sản xuất có thể tăng cung ngay để thu nhiều lợi nhuận vì đất trống vốn


21

đã có giới hạn và cây trồng cũng cần có thời gian sinh trưởng tự nhiên. Do
vậy, sản phẩm chè có tính thời vụ trong sản xuất nhưng sản phẩm chè lại là
nước uống được mọi người dùng hàng ngày nên để hạn chế sự biến động của
sản phẩm chè theo thời vụ thì:
+ Về phía người sản xuất: phải tạo ra được các giống trái vụ, thay đổi
cơ cấu mùa vụ để thay đổi động thái cung, đáp ứng tốt hơn, kinh tế hơn cho
thị trường.
+ Về phía người kinh doanh: phải biết phát triển công nghiệp chế biến
dự trữ hoặc nhập khẩu để điều hoà cung cầu.
+ Về phương diện Nhà nước: phải có sự can thiệp để điều hoà cung
cầu, nhất là đối với sản phẩm nông nghiệp thiết yếu có tác động tói sự ổn định
đời sống dân cư bằng hệ thống chính sách bảo trợ hàng nông sản.
+ Sản xuất, kinh doanh chè phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên,
môi trường và lợi thế sản xuất nông nghiệp.
Nhu cầu về sản phẩm chè của con người rất đa dạng, cả về số lượng,
chất lượng và chủng loại. Nhưng xét trên góc độ của thị trường thì người ta
chỉ chấp nhận mức giá trị tối thiểu hợp lý. Trong khi đó, xét về khía cạnh
cung, mỗi loại sản phẩm chè chỉ có thể phát triển thích hợp nhất với các điều
kiện tự nhiên, cho nên mỗi vùng, mỗi quốc gia chỉ có thể sản xuất và đem ra
thị trường những sản phẩm mà họ có ưu thế hay lợi thế so sánh thực sự. Đặc
biệt, trong nền kinh tế thị trường, việc khai thác lợi thế so sánh đã buộc sản
xuất nông nghiệp chỉ có thể cung cấp cho thị trường những sản phẩm chè mà
thị trường cần và điều kiện sản xuất cho phép, bởi vì sản phẩm chè là cây

trồng chỉ có thể sinh trưởng, phát triển và cho sản phẩm kinh tế trong những
môi trường tự nhiên nhất định mà thôi. Chính vì vậy, thị trường sản phẩm chè
hình thành nguồn cung theo luồng hay khu vực và có thể phát sinh tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo, trong khi đó, bất kỳ người sản xuất nào cũng
muốn đưa ra thị trường những sản phẩm của mình.


22

Bởi vậy, cùng một loại sản phẩm, muốn cạnh tranh thắng lợi trên thị
trường thì con đường duy nhất là các cơ sở sản xuất, các quốc gia phải biết
tận dụng lợi thế của mình về đất đai, thời tiết, khí hậu, lao động cũng như phải
biết ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và công nghệ
vào sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng, năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm để đảm bảo sự thành công trên thị trường.
+ Tiêu dùng sản phẩm chè gắn liền với giá trị văn hoá, tập quán xã hội
của từng quốc gia.
Từ lâu, chè đã trở thành thức uống phổ biến, gắn liền với đời sống của
người dân. Ở một số nước, uống chè trở thành tập quán và đã tạo ra được một
nền văn hoá nguyên sơ là “Văn hoá trà”. Trong dân gian Việt Nam ngày xưa có
câu: “Trà tam, tửu tư”, ấm trà, chén rượu rất quen thuộc đối với Việt Nam và
nó giúp cho con người giải toả được những lo toan thường nhật, làm phong phú
thêm đời sống tinh thần và làm tăng thêm ý nghĩa văn hoá cho những sinh hoạt
đời thường. Nhưng tuỳ theo từng vùng, từng quốc gia có giá trị văn hoá và
phong tục tập quán khác nhau mà sản phẩm chè được tiêu dùng khác nhau. Ví
dụ như đối với người Nhật Bản, họ có một truyền thống rất lâu đời, đó là nghệ
thuật pha trà và thưởng thức trà, do đó, lúc nào họ cũng cần rất nhiều chè,
thường họ rất thích dùng chè xanh dẹt, chè sản xuất theo công nghệ Nhật Bản.
+ Trong sản xuất, chất lượng chè phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ
sau thu hoạch (chế biến, bảo quản) ngoài yếu tố điều kiện sản xuất công nghệ

chế biến và bảo quản được chú trọng cả về nhà xưởng, thiết bị và công nghệ.
Nhà máy có sạch đẹp, đảm bảo vệ sinh công nghiệp, các dây chuyền sản xuất
hiện có được duy tu, bảo dưỡng tốt thì chất lượng sản phẩm chè xuất khẩu
mới được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng.
1.3.2. Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu chè
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ ra một cách sâu sắc
rằng: chỉ có mở rộng ngoại thương, hội nhập thương mại quốc tế mới cho


23

phép chúng ta đánh giá đúng kỹ năng, trình độ sự phát triển của nền kinh tế
Việt Nam. Sự tăng lên của quá trình tham gia vào ngoại thương nói riêng và
thương mại quốc tế nói chung sẽ mở ra hướng phát triển mới cho nền kinh tế
Việt Nam. Hoạt động xuất khẩu nói chung đã đóng vai trò rất quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, xuất khẩu chè nói riêng cũng đã đóng góp một
phần quan trọng vào hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Xuất khẩu chè đối với thương mại của một quốc gia làm phát triển
ngành kinh tế, cụ thể là phát triển ngành chè. Xuất khẩu chè sang thị trường
quốc tế còn giúp cho ngành chè hiểu được mình nên chú trọng vào mặt hàng
nào. Cần nâng cao chất lượng, đổi mới mẫu mã bao bì và hạ giá thành cho
phù hợp nhất với thị hiếu của thị trường quốc tế, để từ đó thu được lợi nhuận
tối đa xuất khẩu chè của Việt Nam, đóng góp vào GDP ngày một tăng, năm
1999 xuất khẩu đạt 41 nghìn tấn, thu về 58 triệu USD. Năm 2000 xuất khẩu
chè đạt 55 nghìn tấn, thu về 63 triệu USD. Năm 2001 xuất khẩu chè đạt 67
nghìn tấn, thu về 78 triệu USD. Năm 2002 xuất khẩu chè đạt 74 nghìn tấn, thu
về 82 triệu USD. Theo số liệu thống kê, xuất khẩu chè của Việt Nam năm
2006 đạt 105,63 nghìn tấn, với trị giá 110,43 triệu USD, tăng 20,15% về
lượng và tăng 13,92% về giá trị so với năm 2005. Trong năm tháng đầu năm
2007, xuất khẩu chè của nước ta đạt 37.073 tấn, với trị giá trên 34,5 triệu

USD, tăng 11,57% về lượng và tăng 7,76% về trị giá với cùng kỳ năm 2006.
Thông qua hoạt động xuất khẩu chè góp phần chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp nông thôn. Phát triển cây chè phá vỡ thế độc canh của cây lúa tồn tại
trong nhiều năm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng
cân đối hơn, đa dạng ngành nghề, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến,
phát triển nông nghiệp mang tính hàng hoá làm cho gí trị chung của ngành
nông nghiệp tăng lên, tăng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và quan trọng
nhất là nâng cao được mức sống của người nông dân.


24

Xuất khẩu chè tạo việc làm, ổn định đời sống nông dân nông thôn và
giúp phần xoá đói giảm nghèo. Với tỷ lệ hiện nay là 6,7 vạn ha cần 14,74 vạn
lao động thì diện tích hiện nay là 10,8 vạn ha, thu hút 323,76 vạn lao động.
Khả năng mở rộng diện tích trong tương lai là 14 vạn ha, có khả năng thu hút
được trên 30 vạn lao động. Ở các vùng trồng chè thì thu nhập chính của người
dân là từ chè, do đó, việc phát triển cây chè có ý nghĩa rất lớn với rất nhiều
người. Hàng năm, ngành chè đã bỏ ra một lượng tiền lớn để mua nguyên liệu
cho người dân và khoản thu nhập này đủ để giữ người nông dân ở lại đồi chè.
Xuất khẩu chè góp phần thúc đẩy các ngành phụ trợ (dịch vụ kỹ thuật,
sản xuất, chế biến, vận tải) phát triển. Để tạo ra được nhiều sản phẩm chè thì
phải trải qua rất nhiều công đoạn, mất rất nhiều thời gian mới có thể được. Do
vậy, để có số lượng chè xuất khẩu thì nó phải có mối quan hệ với rất nhiều
ngành phụ trợ khác nhau như: dịch vụ kỹ thuật, sản xuất, chế biến, vận tải thì
mới có thể đáp ứng được nhu cầu trong xuất khẩu và thông qua đó góp phần
làm cho các ngành phụ trợ này phát triển.
Xuất khẩu chè góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp. Sản
xuất chè đòi hỏi một lượng lớn lao động, do đó xuất khẩu chè giúp chuyển
dịch lao động từ các ngành nông nghiệp khác sang sản xuất và chế biến chè.

1.3.3. Những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hoạt động thúc đẩy xuất khẩu chè
1.3.3.1. Các yếu tố thuộc về sản xuất
Các nhân tố thuộc về sản xuất ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu chè
là: giống chè, đất đai, khí hậu thời tiết, kỹ thuật trong sản xuất. Các nhân tố
này ảnh hưởng một cách trực tiếp tới chất lượng và năng suất chè sản xuất ra,
do đó làm biến động thị trường xuất khẩu chè, cụ thể như sau:
- Giống chè: là tiền đề năng suất và chất lượng. Do vậy, nếu giống tốt
thì sẽ cho sản phẩm có năng suất chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thị
trường, kích thích hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu cơ cấu, chủng loại


25

giống chè không tốt thì sản phẩm chè sản xuất ra có chất lượng kém, không
đáp ứng được nhu cầu chung làm cản trở hoạt động xuất khẩu.
- Đất đai: là một nhân tố đặc biệt quan trọng, vì nếu có giống tốt
nhưng không phù hợp với đất thì cũng như không. Khối lượng hàng hoá xuất
khẩu tuy được sản xuất từ các vùng sản xuất tập trung chuyên canh nhưng chế
độ canh tác và thâm canh của các hộ không đồng đều, trên các vùng thâm
canh và chuyên canh do hạn chế đầu tư làm cho nhiều vùng vượt quá khả
năng cung cấp các dịch vụ phục vụ như: tưới tiêu nước, thu mua, chế biến.
- Khí hậu, thời tiết: là nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng
rất lớn tới quá trình sản xuất chè. Khi gặp thời tiết xấu, hạn hán kéo dài sẽ
gây ra sự biến động về sản xuất và xuất khẩu chè, làm cho hoạt động xuất
khẩu chè gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn hàng. Thời tiết, khí hậu
luôn chứa đựng những bất trắc có thể chưa nhận biết được, như các hiện
tượng Elnino, Lanino.
- Kỹ thuật trong sản xuất: các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh
sản xuất còn thiếu, không đồng bộ về các yếu tố sản xuất, kỹ thuật chưa cao,
còn lạc hậu làm hạn chế năng suất sản phẩm cũng như chất lượng sản phẩm,

giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.
1.3.3.2. Chất lượng chế biến, công nghệ sau thu hoạch
Chất lượng chế biến và công nghệ sau thu hoạch đã được quan tâm
nhưng nhìn chung còn kém phát triển.
- Trình độ công nghệ chế biến bảo quản: nhìn chung công nghệ thu
hoạch đang ở trong tình trạng cũ, lạc hậu và tổn thất sau thu hoạch khá lớn,
đặc biệt là trong khâu chế biến, tiêu hao nguyên liệu cao mà chất lượng sản
phẩm chế biến thấp, chủ yếu là sơ chế. Mức độ đáp ứng thị trường còn tháp,
việc bảo quản chè còn gặp nhiều khó khăn do máy móc trang thiết bị kỹ thuật
cũng như cơ sở hạ tầng của ngành chè còn thấp kém, do vậy nó làm hạn chế
khả năng khai thác và phát huy các tiềm năng và lợi thế so sánh.


×