Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thực trạng và giải pháp Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Ba Tơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.47 KB, 30 trang )

Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu Trường chính
trị tỉnh Quảng Ngãi, Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Ba Tơ, tập thể giáo
viên Trường Chính trị Quảng Ngãi và CBCC Chi cục thuế Ba Tơ đã dành nhiều
sự quan tâm và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong suốt thời gian học tập và
đi nghiên cứu thực tế. Em thật sự rất cảm động trước tình cảm của tất cả các
thầy,cô đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian học tập cũng như cho em những
lời khuyên bổ ích để em có thể hoàn thành tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy các cô trong các khoa nói chung cũng
như các thầy, cô trong khoa Nhà nước và Pháp luật nói riêng đã truyền đạt cho
em những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học vừa qua.
Em xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới thấy Trần Duy Linh là người đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện tiểu luận tốt nghiệp.
Mặc dù em đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện tiểu luận này nhưng với kiến
thức và thời gian có hạn nên bài viết của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót,
em rất mong nhận được sự thông cảm và ý kiến đóng góp của quý thầy, cô
Trường chính trị Quảng Ngãi để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn và kính chúc quý thầy cô có nhiều
sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Ba Tơ, ngày 04 tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Đinh Tấn Hiệp

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
1




Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

PHIẾU NHẬN XÉT
Người chấm thứ nhất:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
................................................................................................................................
Họ, tên. chữ ký của GK I

Người chấm thứ hai:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
..........................................................................................................................
Họ, tên. chữ ký của GK II

Đánh giá chung
Điểm: Bằng số:.............................................................................................
bằng chữ:.........................................................................................

Xếp loại:.......................................................................................................

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
2


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I. Một số vấn đề cơ bản về thuế và quản lý thu thuế ngoài quốc
doanh trên địa bàn huyện Ba Tơ năm 2012
1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế Ngoài quốc doanh nước ta
hiện nay
2. Đặc điểm của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh
Chương II. Thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn huyện Ba
Tơ năm 2012
1. Đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Ba Tơ
2. Thực trạng kinh tế ngoài quốc doanh và quản lý thu thuế ngoài quốc
doanh địa bàn huyện Ba Tơ trong 2012
2.1. Những kết quả đạt được
2.2. Những tồn tại
2.3.Nguyên nhân của thực trạng
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
quản lý thu thuế NQD trên địa bàn huyện Ba Tơ

3.1. Giải pháp về tăng cường quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh
3.2. Những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quản lý thu thuế NQD
trên địa bàn huyện Ba Tơ
KẾT LUẬN

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
3


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế do Nhà nước tổ chức và thực hiện. Đó là sự chuyển dịch một chiều
thu nhập từ phía doanh nghiệp và dân cư (khu vực tư) vào khu vực công. Phía
sau quá trình chuyển dịch này gồm nhiều vấn đề đặt ra như: tương quan giữa số
thuế thu được trong hiện tại và tương lai; ảnh hưởng của thuế đến hành vi kinh
doanh, đến động thái tiêu dùng xã hội; thuế và tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã
hội...Do đó, thuế là một lĩnh vực phức tạp, bởi lẽ không chỉ thể hiện ra những
vấn đề kinh tế mà còn chứa đựng nhiều vấn đề xã hội sâu sắc. Thuế không
những đòi hỏi tính khoa học về mặt lý luận, sự chính xác trong luật định mà còn
cần đến nghệ thuật tinh tế trong hành thu.
"Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN", hàng năm số thu về thuế chiếm
khoảng 80% đến 90% tổng thu NSNN. Điều đó đòi hỏi Nhà nước cần tu chỉnh
các Luật thuế, các văn bản pháp lý khác về thuế nhằm hoàn thiện hệ thống thuế,

đưa thuế ngày càng tiếp cận thực tiễn. Để phản ánh và theo kịp bước chuyển của
nền kinh tế thì quản lý thu thuế cần phải thay đổi và phải được hoàn thiện hơn để
đáp ứng tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như các cam kết quốc tế
trong giai đoạn hiện nay. Qua đó khai thác tối đa những uy lực vốn có của thuế
để kích thích sự phát triển kinh tế - xã hội, phát triển sản xuất kinh doanh của
mọi đơn vị thuộc các thành phần kinh tế và đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ
nộp thuế cho Nhà nước. Đối với khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh(KTNQD),
hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, đều khắp các địa bàn trong
từng địa phương và cả nước. Song chế độ sổ sách kế toán,chứng từ hóa đơn còn
thực hiện tùy tiện, chưa đúng chế độ, hiện tượng khai man trốn thuế, lậu thuế
còn nhiều từ đó tạo ra sự bất bình đẳng và sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các thành phần kinh tế. Vì vậy, quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD phải
tiếp tục cải tiến và hoàn thiện nhằm thực hiện được mục tiêu, yêu cầu của hệ
thống thuế đặt ra.
Ba Tơ là một huyện miền núi, số thu về thuế không nhiều, chưa đủ đáp ứng
nhu cầu chi tiêu của địa phương, nhưng trong đó kinh tế ngoài quốc doanh
(KTNQD) đã đóng góp một phần không nhỏ vào số thu hàng năm của ngân sách
địa phương. Nhiều năm qua Chi cục thuế Ba Tơ đã hoàn thành kế hoạch pháp
lệnh của Nhà nước giao nói chung và thuế KTNQD nói riêng. Nhưng với tính
chất đa dạng và phức tạp của khu vực kinh tế này, công tác quản lý thu thuế ở
Chi cục thuế Ba Tơ cần được khắc phục những mặt hạn chế và tồn tại, đảm bảo
nuôi dưỡng nguồn thu, thu đúng, thu đủ theo quy định của pháp luật.

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
4


Tiểu luận cuối khóa


GVHD: Trần Duy Linh

Việc chọn đề tài "Thực trạng và giải pháp Quản lý thu thuế ngoài quốc
doanh trên địa bàn huyện Ba Tơ năm 2012 " có ý nghĩa thiết thực về mặt lý
luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề về thuế công tác quản lý thu thuế. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có mục đích, đối tượng,
phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và mục tiêu cụ thể khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có một tác giả nào nghiên cứu bàn về quản lý thu thuế
NQD trên địa bàn huyện Ba Tơ. Vì vậy, tiểu luận nghiên cứu là cần thiết, qua đó
chỉ những nguyên nhân còn hạn chế trong quản lý thu thuế NQD, trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp khả thi ở địa bàn huyện B aTơ, nhằm thực hiện được
mục tiêu của hệ thống thuế tại địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và những giải pháp thiết thực
nhằm tăng cường, hoàn thiện quản lý thu thuế NQD trên địa bàn huyện Ba Tơ.
- Nhiệm vụ của tiểu luận:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận của quản lý thu thuế đối với khu vực
KTNQD.
+ Phân tích đánh giá thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn huyện
Ba Tơ.
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng
cường quản lý thu thuế NQD tại huyện Ba Tơ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Vì
vậy, phạm vi của đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý thu thuế khu vực
NQD trong các hoạt động sản xuất kinh doanh - dịch vụ trên địa bàn huyện Ba
Tơ gồm: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Doanh nghiệp tư nhân,
Hộ kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ năm 2012.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh để rút ra
những kết luận cần thiết.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Từ những đánh giá về thực trạng, những ưu điểm, khuyết điểm và nguyên
nhân của những tồn tại của công tác quản lý thu thuế đối với khu vực KTNQD ở
huyện Ba Tơ, tiểu luận đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện
công tác quản lýthu thuế NQD trên địa bàn huyện Ba Tơ hiện nay.
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
5


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tiểu Luận có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho Lãnh đạo và CBCC
Chi cục thuế Ba Tơ trong quá trình lập dự toán, phân tích, đánh giá kế hoạch
thu, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế
ở đơn vị. Đảm bảo sự tinh tế trong hành thu; hạn chế đến mức thấp nhất hiện
tượng thất thu thuế; thực hiện công bằng trong điều tiết thuế ở các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu
luận gồm có 3 chương.


HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
6


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

NỘI DUNG
CHƯƠNG I
1. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế NQD nước ta hiện nay
1.1. Khái niệm - bản chất của thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời
cũng là một phạm trù lịch sử, nó ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời, tồn
tại và phát triển của một nhà nước.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ làm
nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở
chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có thêm
nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày càng
nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời sống, văn
hóa, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với nhiều sắc
thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế.
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở rộng, đòi
hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên. Điều đó,
không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế, đó là Thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và
thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản

phẩm thặng dư.
Tóm lại, qua quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy,
thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất
yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của
Nhà nước. Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và
pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định,
nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
1.2. Vai trò của khu vực kinh tế NQD trong nền kinh tế
Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH,
công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có
hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là
thành phần kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
7


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

xứng với tiềm năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có các chính
sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát huy được vai trò của mình trong
tình hình kinh tế hiện nay.
Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần làm tăng của cải vật chất
cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu. Khu vực kinh
tế NQD là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho quá trình làm tăng của cải
vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như là: khu vực thu hút nhiều
lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế ở
mọi nơi trong nước rút ngắn khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông
thôn, đồng thời góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế như
tài nguyên, sức lao động, thị trường...mà vẫn chưa được khai thác một cách hiệu
quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi
nhuận cao nhất nên khu vực này có khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất
kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường. Vậy khu vực kinh tế NQD là
khu vực có vai trò hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc
thực hiện các chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra.
Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động
Nước ta là nước có dân số hơn 80 triệu dân, do đó đối tượng lao động là rất lớn.
Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu vực kinh tế
Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi lao động
phải có văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm việc trong khu
vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao động không thể
làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là so với 2 khu vực
trên thì khu vực kinh tế NQD có vai trò thu hút nhiều thành phần lao động, từ
những lao động có trình độ cao đến những lao động thủ công, từ những hợp
đồng ngắn hạn đến những hợp đồng dài hạn, theo mùa vụ hoặc theo thời gian
nhất định... Do đó khu vực này góp phần giải quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát
triển cân đối cho nền kinh tế.
Khu vực kinh tế NQD phát triển tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn
định và ngày càng tăng
Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh tế NQD
mới đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước
không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà nước thu thuế của khu vực này mà

không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn
HVTH : Đinh Tấn Hiệp
Trang
8


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

ngày càng tăng và được dùng chủ yếu để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi
nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu
vực này còn tham gia đóng góp tài chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua
các hoạt động tự nguyện hưởng ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát
động như ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, thương binh, gia đình liệt sĩ, xây dựng
trường học, đường xá đóng góp vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy
khu vực kinh tế NQD có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách
Nhà nước rất lớn.
Khu vực kinh tế NQD phát triển góp phần tăng vốn đầu tư cho xã hội
Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm năng
cho sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh tế, nhờ chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực NQD đã hình thành và huy
động một lượng vốn đầu tư lớn cho xã hội. Đây là một nguồn vốn quan trọng,
song khai thác chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khu vực kinh tế NQD càng phát triển
thì nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân
hàng, đóng góp vào sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy
động vốn.
2. Đặc điểm Quản lý thu thuế Kinh tế Ngoài quốc doanh:
Khu vực kinh tế NQD bao gồm các doanh nghiệp NQD (Công ty TNHH,
công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có

hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế NQD là
thành phần kinh tế không thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương
xứng với tiềm năng và đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đòi hỏi Nhà nước phải có các chính
sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát huy được vai trò của mình trong
tình hình kinh tế hiện nay.
Về mục tiêu cơ bản, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chính sách thuế và từng
sắc thuế là:
+ Phải bao quát hết nguồn thu để kiểm kê, kiểm soát và thu đúng, thu đủ
cho NSNN;
+ Góp phần khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển theo định hướng
của Nhà nước trong từng thời kỳ;
+ Đảm bảo tính bình đẳng và công bằng xã hội;
+ Phải rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra;
+ Chi phí hành thu thấp;
+ Thủ tục hành chính thuế đơn giản.
Nội dung cơ bản của một số sắc thuế chủ yếu đối với Kinh tế NQD:
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
9


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

Nhằm bao quát mọi đối tượng phải thu thuế, đảm bảo tính công bằng trong
động viên điều tiết tiền thuế và đáp ứng yêu cầu thu của ngân sách, hệ thống
thuế hiện nay ở nước ta bao gồm các sắc thuế sau:

Thuế GTGT; Thuế TTĐB; Thuế XNK; Thuế tài nguyên; Thuế TNDN;
Thuế thu nhập cá nhân; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế sử dụng đất phi
nông nghiệp; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế môn bài và thu khác
NQD.Trong đó thuế NQD bao gồm các khoản thuế như sau:
Thuế GTGT; Thuế TTĐB; Thuế Tài nguyên; Thuế TNDN;Thuế TNCN;
Thuế môn bài
Mỗi sắc thuế có chức năng, tác dụng, đối tượng nộp khác nhau nhưng có
mối liên hệ chặt chẽ tác động lẫn nhau; giữa thuế trực thu và thuế gián thu để
phát huy tác dụng toàn diện của hệ thống thuế.
Ngoài ra, còn một số khoản thu mang tính chất phí, lệ phí, nhằm động viên
sự đóng góp cho NSNN vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp phí, lệ phí
thực hiện một số thủ tục hành chính.
Ý nghĩa và đặc điểm của quản lý thuế NQD:
Ý nghĩa:
Trong công tác quản lý thu thuế và phí hiện nay, thuế công thương nghiệp
NQD tuy không chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu NSNN chỉ ở mức BQ 27%
nhưng lại là lĩnh vực khó khăn phức tạp hơn cả. Công tác quản lý thu thuế NQD
không chỉ đơn thuần phục vụ cho mục tiêu thu ngân sách mà chính là thực hiện
vai trò quản lý của Nhà nước đối với khu vực KTNQD; thông qua công cụ thuế
thực hiện yêu cầu quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Quản lý thu
thuế NQD có vai trò quan trọng trong việc đưa chính sách, pháp luật vào hoạt
động kinh doanh và phát huy tác dụng của chính sách. Quản lý thu thuế NQD
không chỉ góp phần tăng thu cho ngân sách mà còn góp phần đảm bảo thực hiện
công bằng xã hội và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất kinh
doanh thuộc các thành phần kinh tế. Trên cơ sở quan niệm và tiếp cận KTNQD
từ góc độ thuế, quản lý thu thuế NQD có một số ý nghĩa chủ yếu sau:
+ Thông qua công tác thuế đã góp phần tích cực trong việc tạo môi trường
kinh tế, pháp lý và tạo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh; thực hiện chức
năng kiểm soát, định hướng phát triển của Nhà nước đối với khu vực KTNQD.
+ Công tác thuế đã góp phần quan trọng phát huy mặt tốt của kinh tế thị

trường và hạn chế những mặt trái của nó:
Đất nước ta, nhiều năm qua đã thực hiện mô hình kinh tế thị trường, bên
cạnh những ưu điểm đã bộc lộ rõ những nhược điểm đó là phân hóa thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư, là điều kiện để phát sinh tệ nạn tham nhũng, tha hóa
bản chất đạo đức của con người, do kinh doanh chạy theo lợi nhuận bất chấp cả
luật pháp. Hoạt động quản lý thu thuế đã góp phần hạn chế những mặt trên,
thông qua thu thuế đã góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp
phần thực hiện công bằng xã hội, định hướng cho KTNQD phát triển có lợi cho
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
10


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

nền kinh tế quốc dân và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh
doanh.
+ Quản lý thu thuế NQD còn giáo dục ý thức và trách nhiệm của công dân
trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Thông qua công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật thuế đã làm cho người dân hiểu được những quy định của
Nhà nước và tự giác chấp hành. Các đối tượng nộp thuế thuộc khu vực KTNQD
rất đa dạng, nhiều nơi trình độ dân trí chưa cao, ý thức chấp hành luật pháp của
dân chưa nghiêm, sự hiểu biết về pháp luật và nhận thức về trách nhiệm nghĩa
vụ công dân chưa đầy đủ, thông qua quản lý thu thuế cán bộ, nhân viên ngành
thuế đã truyền đạt chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, giới thiệu, giải
thích chính sách thuế và sự cần thiết của thuế trong sự tồn tại và phát triển của
đất nước cho người dân nói chung và đối tượng nộp thuế nói riêng để mọi công

dân tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước.
Đặc điểm:
+ Trình độ của đối tượng nộp thuế phổ biến thấp, do đó sự hiểu biết pháp
luật cũng như ý thức chấp hành pháp luật kém;
+ Số lượng cơ sở vừa nhỏ, vừa phân tán. Theo số liệu thống kê của Chi cục
thuế Ba Tơ tính đến 31/12/2012 thì số doanh nghiệp được cấp đăng ký kinh
doanh là 30 doanh nghiệp; hộ kinh doanh là 403 hộ, số thu không nhiều, hiện
tượng thất thu thuế còn phổ biến,
+ Nằm rải rác, phân tán nên rất khó cho cơ quan thuế trong quá trình thực
hiện quản lý thu thuế;
+ Nặng tư tưởng thu lợi cá nhân, nên không ít người luôn tìm cách chống
đối thậm chí quyết liệt những cán bộ, nhân viên thuế thực thi nhiệm vụ được
giao.
+ Hệ thống sổ sách, hóa đơn, chứng từ, kế toán... của KTNQD vừa yếu
kém, vừa lỏng lẻo làm cho quản lý thu thuế càng khó khăn, phức tạp, hiệu quả
thấp.

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
11


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

CHƯƠNG II
I. Thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa bàn huyện Ba Tơ.
1. Đặc điểm, tình hình vị trí - địa lý, và kinh tế - xã hội huyện Ba Tơ:

Ba Tơ là một huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi, Tổng diện tích tự nhiên
của huyện là 113.669,52 ha và dân số của huyện là 49.766 người[1], gồm các dân
tộc là Kinh và H're. Phía bắc huyện giáp với các huyện Sơn Hà, Minh Long,
Nghĩa Hành cùng tỉnh, phía nam giáp huyện An Lão (tỉnh Bình Định), phía tây
giáp huyện Kon Plông (tỉnh Kon Tum), đông giáp huyện Đức Phổ cùng tỉnh.
Huyện có 19 xã và 1 thị trấn, bao gồm: Ba Dinh, Ba Điền, Ba Tiêu, Ba Khâm,
Ba Thành, Ba Bích, Ba Ngạc, Ba Vì, Ba Lế, Ba Vinh, Ba Tô, Ba Nam, Ba
Trang, Ba Xa, Ba Động, Ba Chùa, Ba Cung, Ba Liên, Ba Giang và thị trấn Ba
Tơ. Kinh tế của huyện là thuần nông. Huyện lị là thị trấn Ba Tơ, các xã bao
gồm: Ba Bích, Ba Chùa, Ba Cung, Ba Dinh, Ba Giang, Ba Điền, Ba Động, Ba
Lế, Ba Liên, Ba Nam, Ba Ngạc, Ba Thành, Ba Tiêu, Ba Tô, Ba Trang, Ba Khâm,
Ba Vì, Ba Vinh, Ba Xa.
Huyện nổi tiếng về đội du kích Ba Tơ và cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. Di tích
cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng. Bảo
tàng Ba Tơ trưng bày những hiện vật liên quan đến cuộc khởi nghĩa. Huyện còn
có làng dệt thổ cẩm nổi tiếng (làng Teng). Từ đây có quốc lộ 24A đi Tây
Nguyên, Lào và Campuchia. Ba Trang là xã nơi bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã hy
sinh.
Lịch sử phát triển kinh tế của huyện Ba Tơ gắn liền với lịch sử phát triển
của các huyện miền núi nói riêng và cả tỉnh Quảng Ngãi nói chung. Vì vậy, hoạt
động kinh tế chủ yếu của huyện Ba Tơ trong những năm qua là sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp còn kém phát triển, thương mại, dịch vụ nhỏ là chủ yếu.
Bởi lẽ, hậu quả của chiến tranh để lại nặng nề, dẫn đến cơ sở hạ tầng thấp kém,
cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, hơn nữa một thời gian dài trong cơ chế kinh tế kế
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
12



Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp nên kinh tế của huyện không phát triển
được, nông nghiệp thì lại lạc hậu về kỹ thuật, do vậy từ ngày giải phóng
30/4/1975 đến nay Ba Tơ luôn là một huyện nghèo trong cả nước, số thu ngân
sách hàng năm không nhiều, BQ khoảng trên 15 tỷ đồng.
Tuy vậy, trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cấp chính
quyền cùng với tinh thần lao động cần cù chịu khó vốn là đặc tính của người dân
Ba Tơ, hơn nữa Ba Tơ được ưu đãi về đất rừng sản xuất với mô hình Nông Lâm
nghiệp kết hợp, nên người dân BaTơ có thu nhập đáng kể từ mô hình này.

2. Thực trạng quản lý thu thuế NQD địa bàn huyện Ba Tơ trong 2012:
Những năm qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,
các thành phần KTNQD phát triển mạnh. Từ năm 2000, thực hiện Luật doanh
nghiệp mới các hộ kinh doanh chuyển thành doanh nghiệp NQD, từ năm 2000
đến năm 2012 có khoảng 28 doanh nghiệp được thành lập từ hộ kinh doanh.
Khu vực hộ kinh doanh cá thể cũng có sự tăng trưởng đáng kể, có khoảng
473 hộ kinh doanh trong các ngành nghề như: sản xuất cây giống, sản xuất mộc
dân dụng, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, dịch vụ...Tăng trưởng kinh tế là cơ
sở, là gốc của thu ngân sách. Tuy nhiên, trong những năm gần đây thu ngân sách
từ khu vực KTNQD cũng chịu nhiều ảnh hưởng khách quan như:
- Để khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách miễn, giảm thuế, ảnh hưởng làm giảm nguồn thu ngân sách của
khu vực KTNQD. Như kéo dài thời gian miễn giảm thuế đối với những cơ sở
mới thành lập, mở rộng diện được ưu đãi đầu tư, miễn giảm thuế đối với địa bàn
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, miễn thuế buôn chuyến đối với
hàng hóa nông sản.
- Giá cả hàng hóa nhìn chung không tăng, nhiều mặt hàng giá lại giảm, đặc

biệt là hàng hóa nông sản giá cả không tăng, vừa ảnh hưởng đến sản xuất kinh
doanh của các cơ sở vừa làm giảm sức mua trên thị trường đã tác động đến công
tác quản lý thu thuế nói chung mọi cơ sở kinh doanh nói riêng.
- Nhiều doanh nghiệp được ưu đãi về thuế trong lĩnh vực ươm cây giống
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ sở kinh doanh ổn định và phát triển.
Do vậy, nên tỷ trọng thu thuế NQD trong tổng số thu ngân sách huyện Ba
Tơ trong năm 2012 còn thấp, dẫu rằng tỷ trọng hàng năm đều tăng. Cụ thể:
Tỷ trọng thu thuế NQD trong NSNN qua các năm 2010 -2012 trên địa
bàn huyện Ba Tơ:
Năm 2010:
Tổng thu NSNN: 8,3 tỷ
Trong đó NQD: 3,1 tỷ = 37 % tổng thu NSNN.
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
13


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

Năm 2011:
Tổng thu NSNN: 15,5 tỷ
Trong đó NQD: 3,6 tỷ = 23% tổng thu NSNN .
Năm 2012:
Tổng thu NSNN: 22.4 tỷ
Trong đó NQD: 5.4 tỷ = 24% tổng thu NSNN .
Mỗi năm số thu NQD đều tăng trưởng đáng kể; năm 2010 tăng so với 2009
là 40% năm; 2011 khoảng 16%, năm 2012 khoảng 50%.


BẢNG ĐÁNH GIÁ SỐ THU NSNN NĂM 2012
Đơn ví tính ( triệu đồng)
DỰ TOÁN 2012
T
T

CHỈ TIÊU

A

A

B

Thực
hiện
năm
2011

UBN
D tỉnh
giao

1

2

UBND
Huyện

giao

THỰC
Cục
giao

HIỆN

phấn
đấu

2012

% ĐẠT SO VỚI
UBND
tỉnh
giao

3

7

UBND
Huyện
giao

Cục
giao
phấn
đấu


Thực
hiện
năm
2011

8

9

TỔNG THU NS (A+B)

16.242

8.798

12.000

12.510

22.444

255%

187%

179%

138%


Tổng thu trừ tiền SDĐ

13.997

6.798

9.098

9.510

21.021

309%

231%

221%

150%

SỐ THU CÂN ĐỐI

15.529

8.798

12.000

12.510


20.379

232%

170%

163%

131%

THU THUẾ, PHÍ

7.719

8.198

9.100

9.510

11.893

145%

131%

125%

154%


1

DNNN Trung ương

2

DNNN Địa phương

3

207
85

50

50

50

134

268%

268%

268%

158%

Thuế TN cá nhân


327

340

340

375

393

116%

116%

105%

120%

4

Thuế SDĐNN

10,0

5

Thuế nhà đất

57,0


30

30

30

0

1%

1%

1%

1%

6

Phí, lệ phí

330,0

260

260

357

462


178%

178%

129%

140%

7

Tiền thuê đất

18

18

18

18

16

89%

89%

89%

89%


8

Thu tiền SDĐ

2.245

2.000

2.902

3.000

1.423

71%

49%

47%

63%

9

Lệ phí trước bạ

1.033

1.300


1.300

1.300

997

77%

77%

77%

97%

10

Bán nhà SHNN

0

11

Ngoài quốc doanh

3.614

4.200

4.200


4.380

5.477

130%

130%

125%

152%

- Môn bài

B

74

740%

2.710

227,0

240

236

245


310

129%

131%

127%

137%

- TTĐB

1,0

3

3

3

17

567%

567%

567%

1700


- GTGT

3.017

3.497

3.501

3.642

4.132

118%

118%

113%

137%

- TNDN

162

300

300

300


276

92%

92%

92%

170%

- Tài nguyên

142

125

125

150

529

423%

423%

353%

373%


- Thu khác

65,0

35

35

40

213

609%

609%

533%

328%

8.523,0

600,0

2.900,0

3.000,0

10.551,0


1759%

364%

352%

124%

THU KHÁC NS

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
14


Tiểu luận cuối khóa
12
13

GVHD: Trần Duy Linh

Thu khác ngân sách

8.485,0

500

2.800


2.900

10.382

2076%

371%

358%

122%

Thu khác tính cân đối

7.772,0

500

2.800

2.900

8.317

1663%

297%

287%


107%

38,0

100

100

100

169

169%

169%

169%

445%

Các khoản thu tại xã

Qua số liệu trên ta nhận thấy, tổng số thu năm 2012 trong khu vực KTNQD
trên địa bàn huyện Ba Tơ đã tăng 30% so với dự toán tỉnh giao và huyện giao,
tăng 25% so với chỉ tieu phấn đấu và tăng 52% so với cùng kỳ năm 2011.
Điều này chứng tỏ năm 2012 Chi cục thuế Ba Tơ đã hoàn thành kế hoạch
được giao.

- Những tồn tại, hạn chế:

Bên cạnh những thành tích đã đạt được còn một số nguyên nhân tác động
làm ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN :
Nền kinh tế suy giảm do tác động chung của khu vực và thế giới dẫn đến
một số ngành, mặt hàng sản xuất chủ yếu trên địa bàn đình trệ, sản phẩm đầu ra
khó tiêu thụ, lãi suất vay thường xuyên biến động, DN không có khả năng mở
rộng sản xuất.
Về cơ chế chính sách còn nhiều mặt hạn chế,chưa phù hợp với thực tiển,
khó thực hiện, tình trạng kinh doanh trốn thuế trên một số lĩnh vực chưa được
điều chỉnh ( sản xuất chế biến gỗ,vận tải, thuế tài nguyên, phí BVMT) .
Trong công tác phối hợp một số mặt thực hiện có hiệu quả như xử lý nợ
đọng, đôn đốc nộp thuế, kiểm tra xác minh hành vi kinh doanh trốn thuế...tuy
nhiên biện pháp, chế tài xử lý còn nhiều vướng mắc, hiệu quả còn hạn chế.
Một số nguồn thu chưa được quản lý chặc chẽ như Thuế tài nguyên, DN
chế biến gỗ, vận tải bằng ô tô, ... do đặc điểm địa bàn miền núi, điều kiện kinh
tế kém phát triển, giao thông không thuận lợi cho việc kiểm tra, đôn đốc chưa
được thường xuyên; chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương còn nhiều lỏng
lẻo, sự quan tâm chỉ đạo chưa đúng mức trong quản lý về lĩnh vực thuế
Năng lực chuyên môn của một số cán bộ thuế chưa đạt yêu cầu, các quy
trình quản lý chưa được tuân thủ nghiêm túc; quản lý điều hành còn nhiều điểm
bất cập, chậm được khắc phục.
- Biện pháp khắc phục:
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
15


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh


Qua kết quả quản lý thu thuế NQD đã đạt được và những mặt còn tồn tại,
cần thiết phải có những biện pháp nhằm mục tiêu tăng cường quản lý thu thuế
khu vực NQD năm 2012 như sau:
+ Tiếp tục rà soát các hộ cá thể kinh doanh trên địa bàn, đưa hết đối tượng
có thực tế kinh doanh vào diện nộp thuế. Trong công tác quản lý đối tượng nộp
thuế cần chú ý các trường hợp sau:
+ Về quản lý doanh thu: Để quản lý chặt chẽ doanh thu kinh doanh, Chi cục
thuế cần tập trung chỉ đạo đẩy mạnh việc yêu cầu hộ kinh doanh thực hiện chế
độ kế toán, chứng từ hóa đơn và kiểm tra các hộ kinh doanh lập hóa đơn khi bán
hàng. Chi cục thuế căn cứ vào đặc điểm kinh doanh chọn hộ kinh doanh những
ngành nghề, những mặt hàng có giá trị lớn như: điện tử, xe máy, đồ trang trí nội
thất bắt buộc hộ kinh doanh phải mở sổ sách kế toán, lập hóa đơn chứng từ khi
bán hàng và quản lý thuế theo hình thức kê khai. Nắm chắc lượng hàng mua vào,
bán ra để quản lý sát doanh thu, phát hiện và có biện pháp xử lý thích hợp đối
với các trường hợp cố tình gian lận thuế.
Đối với những hộ kinh doanh nhỏ: Chi cục thuế cần phối hợp với các
ngành, Hội đồng tư vấn thuế tổ chức cho các hộ kinh doanh đã hết thời hạn ổn
định thuế tự giác kê khai lại doanh thu kinh doanh, tiến hành chọn mẫu điều tra
và xác định lại tương đối chính xác doanh thu kinh doanh, đối chiếu với tài liệu
kê khai để xác định lại doan
Đối với những hộ kinh doanh thực hiện việc ấn định doanh thu và ổn định
mức thuế: phải điều tra, xem xét lại doanh thu tính thuế để kịp thời tính lại
doanh thu. Trong bước thực hiện các Đội thuế cần tập trung vào những địa bàn
trọng điểm, những ngành hàng đang thất thu nhiều như: ăn uống, kinh doanh
dịch vụ khách sạn, nhà nghỉ.
Khi xem xét tính lại doanh thu của các hộ kinh doanh phải thực hiện
nghiêm túc quy trình quản lý đã đề ra.
+ Đẩy mạnh công tác kiểm tra hộ xin nghỉ kinh doanh, phát hiện và xử lý
kịp thời những hộ có đơn xin nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh

nhằm mục đích tránh thất thu thuế vừa ngăn chặn cán bộ thuế lợi dụng việc
miễn, giảm thuế cho hộ nghỉ kinh doanh để móc ngoặc, tham ô tiền thuế.
+ Tập trung chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán,
chứng từ hóa đơn, đảm bảo 100% doanh nghiệp đều mở đầy đủ các loại sổ sách
kế toán, ghi chép phản ánh chính xác tình hình sản xuất kinh doanh, thực hiện
nộp thuế theo kê khai. Đôn đốc doanh nghiệp nộp báo cáo quyết toán thuế, tổ
chức tốt công tác kiểm tra báo cáo quyết toán thuế để thu ngay số thuế phát sinh
và số thuế còn tồn đọng vào ngân sách, đồng thời phát hiện những trường hợp kê
khai không trung thực để có những biện pháp phù hợp.
Căn cứ vào số lượng doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn cũng như kết
quả kiểm tra báo cáo quyết toán thuế, tiến hành kiểm tra chống thất thu để phát
hiện và chấn chỉnh những doanh nghiệp lập báo cáo quyết toán không sát đúng
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
16


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

với thực tế kinh doanh, cố tình gian lận thuế. Kết hợp với việc kiểm tra quyết
toán thuế với việc kiểm tra trước và sau khi hoàn thuế, xác minh đối chiếu hóa
đơn, chứng từ mua vào bán ra có nghi vấn liên quan đến tính thuế GTGT đầu
vào, đầu ra nhằm phát hiện kịp thời các trường hợp gian lận.
+ Đối với các trường hợp nợ thuế nhưng nay cơ sở đã nghỉ không kinh
doanh phải lập danh sách, phối hợp với Hội đồng tư vấn và các bộ phận chức
năng phân loại từng trường hợp cụ thể để xin ý kiến xử lý chung.
+ Ở những địa bàn cán bộ thuế vẫn phải trực tiếp thu tiền thuế của đối

tượng nộp thuế cần phải quy định cụ thể số tiền thuế được trực tiếp thu và thời
hạn phải thanh toán số tiền thuế phải nộp vào ngân sách. Thực hiện nghiêm túc
việc chấm bộ thuế để phát hiện các trường hợp nợ đọng hoặc cán bộ thuế đã
thanh toán biên lai nhưng chưa nộp tiền vào ngân sách.
Những vấn đề nêu ra ở trên các cơ quan chức năng, ngành thuế nói chung
và Chi cục thuế huyện Ba Tơ nói riêng cần phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra
biện pháp khắc phục nhằm hạn chế sự thất thu thuế ở khu vực này, đảm bảo sự
động viên về thuế công bằng hợp lý ở mọi loại hình kinh doanh trong nền kinh
tế quốc dân.
3. Những nguyên nhân của thực trạng quản lý thu thuế NQD trên địa
bàn huyện Ba Tơ
- Tổ chức bộ máy
Tổ chức bộ máy ngành thuế tuy đã được tăng cường về số lượng, chất
lượng nhưng trình độ nghiệp vụ quản lý thu thuế còn chưa đáp ứng được so với
yêu cầu công tác đa dạng phức tạp trong quản lý thu thuế hiện nay, trong cơ chế
thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Một số cán bộ còn
làm việc theo giờ giấc hành chính, thiếu đi sâu vào các xóm ngõ, tổ đường phố,
cụm dân cư, đặc biệt là giờ sáng sớm, đêm khuya để xác định doanh thu sát với
thực tế kinh doanh. Cá biệt vẫn còn những cán bộ thuế thiếu tu dưỡng rèn luyện
thường xuyên, thiếu kiên quyết đấu tranh chống thất thu, bảo vệ pháp luật thuế.
- Quy trình nghiệp vụ
Việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ và biện pháp quản lý chỉ đạo của
ngành chưa thực sự nghiêm túc. Nhiều nơi, nhiều lúc ngành thuế chưa tham mưu
tích cực cho chính quyền các cấp, và chưa phối hợp tích cực để cùng chỉ đạo làm
tốt công tác quản lý thu thuế.
- Sự hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành luật
Mục tiêu của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc khu vực KTNQD là lợi
nhuận thu được, nhưng cơ quan thuế chưa tận dụng mọi cơ hội thuận tiện, mọi
hình thức sinh động tuyên truyền, giải thích chính sách, từng bước nâng cao
trình độ hiểu biết pháp luật và khơi dậy tinh thần tự giác thực hiện nghĩa vụ với

NSNN của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các vi phạm về không thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ khai báo, thực hiện chế độ hóa đơn chứng từ, sổ sách kế
toán, các hình thức gian lận khác để trốn thuế, cố tình dây dưa chậm nộp tiền
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
17


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

thuế,... có nhiều lúc, nhiều thời điểm chưa được xử lý nghiêm khắc dẫn đến tình
trạng xem thường phép nước hay nói cách khác tính pháp lý cao của các sắc thuế
chưa được thể hiện trong công tác quản lý thu.
- Sự phối hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan chức năng, trong thực thi các
luật thuế
Trong thời gian qua sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan chức
năng liên quan để hoàn thành nhiệm vụ thu thuế đã được cải thiện một bước.
Tuy nhiên, ở một số nơi, một số địa phương sự phối hợp này chưa chặt chẽ còn
mang tính hình thức đã dẫn đến tình trạng thất thu thuế ở một số lĩnh vực nhất là
trong quản lý thu thuế NQD trong lĩnh vực hộ kinh doanh vận tải bằng ô tô.
- Chính sách, chế độ
Về chính sách, chế độ còn một số tồn tại, thiếu đồng bộ, thiếu tính thực tế
gây khó khăn cho công tác quản lý thu thuế. Cơ chế thanh toán không dùng tiền
mặt hiện nay chưa phổ biến ở Việt Nam, do vậy quản lý thu thuế gặp nhiều khó
khăn, nhất là ở khu vực KTNQD trong việc xác định chính xác doanh số thực tế
kinh doanh ở cơ sở làm căn cứ cho việc tính đúng, tính đủ số tiền thuế mà đối
tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ với NSNN.

CHƯƠNG III
Những giải phápvà kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế NQD
trên địa bàn huyện Ba Tơ.
A. Về giải pháp:
1. Một số quan điểm cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế NQD:
Phải coi việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là một trong số nhiệm vụ
trung tâm, thường xuyên của chính quyền địa phương.Tăng cường sự chỉ đạo,
lãnh đạo của chính quyền các cấp (đặc biệt là cấp cơ sở) đối với công tác thuế là
yếu tố quan trọng nhằm quản lý thu thuế đạt hiệu quả đồng thời phát huy hiệu
lực quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở. Chính quyền các cấp có chức năng
quản lý nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo cho hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh ở cơ sở, đảm bảo quyền làm
chủ của nhân dân lao động, động viên mọi công dân làm tròn nghĩa vụ với Nhà
nước. Chính quyền cơ sở có nhiệm vụ tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách
của địa phương, phối hợp với các cơ quan chức năng để đảm bảo thu đúng, thu
đủ, kịp thời các loại thuế và các khoản thu phát sinh ở địa phương. Với tư cách
là chính quyền nhà nước, UBND các cấp có quyền giám sát, kiểm tra các hoạt
động kinh tế - xã hội của mọi thành phần kinh tế để đảm bảo chính sách pháp
luật, giữ gìn pháp chế XHCN và quyền lợi chung của Nhà nước cũng như của
mọi tầng lớp nhân dân. Công tác quản lý thu thuế là một công tác kinh tế, chính
trị tổng hợp liên quan đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, đến mọi tầng lớp
nhân dân; là cuộc đấu tranh gay gắt giữa lợi ích cá nhân cục bộ với lợi ích quốc
gia, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ chức hoạt động kinh
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
18


Tiểu luận cuối khóa


GVHD: Trần Duy Linh

doanh. Vì vậy, không thể tách công tác quản lý thu thuế của ngành thuế ra khỏi
sự lãnh đạo của Đảng, của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Phải coi
việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của địa
phương. Trong việc cấp phát kinh phí bằng nguồn vốn ngân sách cho chính
quyền các cấp cần gắn với nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch thu trên các địa bàn.
Các cấp ủy Đảng cần coi trọng công tác chỉ đạo chấp hành chính sách thuế, hoàn
thành nghĩa vụ thuế là một chỉ tiêu để đánh giá đơn vị cơ sở và Đảng bộ vững
mạnh. UBND các cấp cần chỉ đạo các ban, ngành liên quan, các tổ chức công
đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, mặt trận cùng phối hợp chặt chẽ với cơ quan
thuế để làm tốt công tác quản lý thu thuế, chống thất thu thuế cho ngân sách.
Các cơ quan chức năng trong địa phương cần xác định rõ mối quan hệ với cơ
quan thuế, vừa là phối hợp hỗ trợ nhưng vừa là trách nhiệm cùng cơ quan thuế
để thực hiện tốt các luật thuế.
Cơ quan thuế các cấp phải chủ động, thường xuyên báo cáo cấp ủy Đảng,
UBND các cấp về kết quả thu được, thực trạng quản lý thu trên địa bàn, những
khó khăn vướng mắc, kiến nghị đề xuất các phương án thu, các biện pháp nghiệp
vụ cụ thể để UBND các cấp chỉ đạo các ngành có liên quan phối hợp với cơ
quan thuế tăng cường quản lý thu thuế đạt hiệu quả ngày càng cao hơn. Từ thực
tiễn công tác quản lý thu thuế khu vực KTNQD trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
trong những năm qua đã cho thấy rằng: sự tăng cường chỉ đạo của chính quyền
các cấp đối với công tác thuế là bài học kinh nghiệm để phát huy được sức mạnh
tổng hợp giúp cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ thu, đồng thời phát huy hiệu
lực của chính quyền cơ sở. Những địa bàn chính quyền chưa quan tâm đến công
tác thuế thì kết quả công tác thu ở đó hạn chế và thất thu nhiều.
Đi đôi với cải cách hệ thống hành chính cần phải quy định rõ ràng về quyền
hạn, trách nhiệm của UBND các cấp đối với công tác thuế. Cơ quan thuế phải
thực sự là công cụ quản lý của chính quyền địa phương các cấp đối với nền kinh

tế. Cùng với việc giao nhiệm vụ chỉ đạo quản lý thu thuế cho chính quyền địa
phương, Nhà nước cần nghiên cứu cải tiến chế độ điều tiết ngân sách cho
phường, xã đối với một số khoản thuế để đủ bù đắp các chi phí cần thiết cho
hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, tránh tình trạng UBND các cấp
tự đặt ra các khoản thu không hợp lệ.
2. Bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế:
Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp
luật để cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Do đó, hệ thống thuế cũng phải
được thực hiện thống nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp
cho NSNN giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế,
giữa các tầng lớp dân cư. Các nhà doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập cao phải
nộp thuế nhiều hơn những doanh nghiệp và cá nhân có thu nhập thấp. Hàng tiêu
dùng cao cấp, dịch vụ xa xỉ phải chịu thuế suất cao hơn hàng hóa và dịch vụ
thiết yếu. Qua sự điều chỉnh của thuế góp phần điều tiết thu nhập của các tầng
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
19


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

lớp dân cư, hạn chế sự phân hóa và chênh lệch quá xa về thu nhập, đời sống
trong xã hội. Tuy nhiên, người có kỹ thuật cao, làm ăn giỏi vẫn còn thu nhập cao
sau khi nộp thuế, khuyến khích làm giàu một cách chính đáng, hợp pháp. Với
chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập qua thuế, Nhà nước có nguồn thu
để trợ cấp, giúp đỡ các cơ sở sản xuất kinh doanh có khó khăn, thực hiện xóa đói
giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã hội khác.

Trong thời gian hơn 15 năm, nền kinh tế nước ta từng bước chuyển từ kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, đã thúc đẩy nền kinh tế có những
bước phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, ở thành phần kinh tế nhà nước một số doanh nghiệp nhà nước
đang từng bước sắp xếp, tháo gỡ khó khăn, "để kinh tế nhà nước thực hiện tốt
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế cần thiết phải có những ưu đãi phù hợp.
Nhưng để huy động tối đa nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản
xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau.
Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do
luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức
sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu
dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh có tính chất độc quyền, có nhiều
lợi thế về trang thiết bị, về sản xuất, về tiêu thụ, giá cả,... phải có sự điều tiết cao
hơn, vì thường các cơ sở này có thu nhập cao hoặc rất cao so với các ngành nghề
bình thường.
Nhưng trên thực tế, đây không phải là yếu tố hấp dẫn duy nhất, những vấn
đề mà các nhà đầu tư quan tâm hơn là: tình hình chính trị, luật pháp ổn định,
điều kiện về cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, kinh tế xã hội,.... Ưu đãi về thuế
quá nhiều chưa hẳn đã gây được sự quan tâm của các nhà đầu tư, có khi còn tạo
cho họ hoài nghi môi trường đầu tư và tạo sơ hở để họ lợi dụng hoạt động "núp
bóng" nhằm trốn thuế. Thường thường, môi trường đầu tư tốt được thể hiện trên
các mặt quan trọng về chính sách thuế thống nhất, quyền lực thuế tập trung,
pháp chế thuế được kiện toàn. Về mặt tài chính của NSNN, nhiều cuộc điều tra ở
các nước đang phát triển cho thấy những ưu đãi về thuế thường làm giảm từ 2 13% tổng số thu ngân sách, có khi kết quả mang lại về tài chính - kinh tế - xã hội
cho nước chủ nhà bị suy giảm nhưng lại làm giàu cho tư bản nước ngoài, có điều
kiện khai thác tài nguyên, nhân công rẻ mạt để có thu nhập siêu ngạch. Do đó,
về lâu dài cần phải nghiên cứu, thu hẹp, từng bước xóa bỏ mọi sự phân biệt đối

xử tràn lan về nghĩa vụ nộp thuế đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, bảo đảm sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh với các cơ sở sản xuất
kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trong nước, tạo điều kiện bảo vệ và
thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển lành mạnh, có lợi cho quốc kế dân sinh.

HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
20


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

3. Nuôi dưỡng, phát triển nguồn thu bền vững trên cơ sở hoàn thiện
chức năng của từng sắc thuế và cả hệ thống thuế:
Tất cả các nước trên thế giới đều xây dựng một hệ thống thuế với nhiều loại
thuế khác nhau, qua đó động viên được nguồn thu đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước. Sử dụng nhiều loại thuế nguồn thu sẽ ổn định hơn vì trong trường
hợp có khó khăn nào đó mà bị thất thu loại thuế này sẽ có loại thuế khác gánh
đỡ. Mặt khác, thuế không chỉ nhằm đảm bảo nguồn thu cho NSNN mà còn có
nhiều tác dụng về quản lý điều tiết kinh tế, thực hiện động viên công bằng hợp
lý giữa các tầng lớp dân cư.
Về lý luận cũng như thực tiễn, không một loại thuế nào có thể thỏa mãn
được tất cả các mục tiêu nói trên. Việc áp dụng một hệ thống thuế có nhiều loại
thuế còn tạo môi trường tiếp nhận thuận lợi hơn trong các tầng lớp dân cư, vì
gánh nặng thuế để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của NSNN không tập trung vào một
số đối tượng hạn hẹp mà được dàn trải cho diện chịu thuế rộng lớn. Tuy nhiên,
cũng không thể có hệ thống thuế với quá nhiều loại thuế phức tạp, sẽ gây khó

khăn và tốn kém cho bộ máy thu thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên đảm nhiệm một số
chức năng chủ yếu, nhất định, bảo đảm cho sắc thuế được đơn giản, có hiệu quả
cao. Chẳng hạn, thuế GTGT được áp dụng với đối tượng rộng rãi có thể tạo
được nguồn thu ổn định, quan trọng cho NSNN và thực hiện việc kiểm kê kiểm
soát thường xuyên mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ; thuế TTĐB
động viên thêm một số thu cho NSNN đối với những người tiêu dùng hàng xa
xỉ, hàng có nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe, phong tục tập quán của nhân dân,
hạn chế nhập khẩu hoặc sản xuất những mặt hàng không thật cần thiết cho đời
sống nhân dân, cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước; thuế XNK với
hàng rào thuế quan chặt chẽ và biểu thuế phù hợp sẽ tạo điều kiện hòa nhập với
thị trường quốc tế, bảo vệ sản xuất nội địa và tạo được nguồn thu quan trọng cho
NSNN; thuế TNDN, thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao động
viên sự đóng góp trực tiếp của các tổ chức, cá nhân có thu nhập cao. Giữa các
sắc thuế có mối quan hệ mật thiết, không trùng lắp, không chồng chéo mà bổ
sung cho nhau để đảm bảo các mục tiêu kinh tế - tài chính - xã hội của cả hệ
thống thuế.
4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương
trong quản lý thu thuế:
Quản lý thu thuế được thực hiện trên cơ sở chủ trương của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Do đó, từng cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng các cấp phải có chương
trình và biện pháp cụ thể để lãnh đạo cơ quan chính quyền, chuyên môn, đoàn
thể triển khai tích cực và thực hiện tốt chính sách thuế. Công tác quản lý thu
thuế hiện nay đang thực sự là một công tác lớn của Nhà nước và nhân dân. Đây
đồng thời cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt, bởi nó đụng chạm đến lợi ích
của Nhà nước, của từng đơn vị sản xuất kinh doanh và mỗi người dân trong xã
hội. Trong khi chính sách thuế còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục, hoạt động
của bộ máy ngành thuế còn chưa ổn định, cơ chế quản lý thuế còn nhiều sơ hở,
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang

21


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

giác ngộ về nghĩa vụ thuế của đa số các đối tượng nộp thuế còn thấp, sự phát
triển của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập ngày càng mở mang đa dạng,
phong phú về các phát sinh kinh tế,… tất cả tạo nên sự phức tạp cao độ trong
công tác quản lý thu thuế cho nên nếu không có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ
của Đảng và chính quyền nhà nước các cấp thì hiện tượng thất thu thuế sẽ ngày
càng tăng.
Trong điều kiện hiện nay, chính quyền địa phương có vai trò rất quan trọng
đến
công tác tổ chức quản lý thu thuế. Nhưng để thực hiện tốt vai trò chỉ đạo của
chính quyền các cấp, Trung ương cần quy định chức năng, quyền hạn của chính
quyền địa phương trên cơ sở quán triệt Luật NSNN. Xác định rõ ranh giới giữa
tài chính Trung ương và tài chính địa phương để xây dựng một hệ thống ngân
sách thống nhất. Trên cơ sở đó tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của chính
quyền các cấp đối với công tác quản lý thu thuế; UBND các cấp cần coi việc chỉ
đạo điều hành công tác quản lý thu thuế trong địa phương mình là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước giao phó. Từ nhận thức đó để
bố trí cán bộ theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc việc quản lý thu thuế, cần chỉ đạo để
giúp ngành thuế phối hợp tốt với các ngành tài chính, ngân hàng, kế hoạch, đầu
tư, xây dựng,… để chống thất thu thuế. Cần quy định rõ quyền hạn và trách
nhiệm của UBND các cấp trong tổ chức quản lý thu thuế. Chính quyền địa
phương phải thực hiện quyền thu thuế trên lãnh thổ của mình, giúp cho chính
quyền địa phương là cơ quan thuế. Tránh tình trạng chính quyền thờ ơ với công
tác thuế, coi đó là nhiệm vụ riêng của ngành thuế, đồng thời cũng không được

can thiệp một cách sai trái vào chính sách, pháp luật thuế.
5. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền chính sách thuế:
Xây dựng các Luật thuế, pháp lệnh thuế nhằm cung cấp cho cơ chế quản lý
tài chính những phương tiện quản lý, làm cơ sở và đảm bảo cho việc ban hành
các quyết định phù hợp với đối tượng quản lý. Muốn các quy phạm pháp luật
thuế tác động vào đối tượng nộp thuế, cần khâu tiếp theo đó là việc áp dụng luật
thuế, đảm bảo cho chủ thể quản lý tổ chức thực hiện các quy phạm pháp luật
thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Các quyết định quản lý mang lại hiệu quả
khi nó tác động tới đối tượng quản lý, tới những người chấp hành và thực hiện
nghiêm túc. Điều đó, phụ thuộc vào khâu thực hiện luật thuế, vào tính tự giác
của mỗi công dân, đồng thời phụ thuộc vào hiệu quả của các luật thuế. ở nước ta
hiện nay, việc xây dựng, áp dụng và tổ chức thực hiện Luật thuế còn nhiều hạn
chế. Thể hiện sự coi thường pháp luật của các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc
các thành phần kinh tế. Để khắc phục tình trạng trên, điều quan trọng là phải tiến
hành thường xuyên việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật là điều kiện hàng
đầu để tăng cường pháp chế trong thực hiện các luật thuế. Phải giáo dục những
điều sơ đẳng về chính sách thuế ngay trong ghế nhà trường tiểu học, giáo dục và
phổ cập những điều cơ bản của luật thuế cho mọi công dân hiểu biết và thực
hiện tốt.
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
22


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

Các nhà chức trách, các tổ chức, đặc biệt là cơ quan thi hành pháp luật phải

có biện pháp nâng cao sự hiểu biết và hình thành một ý thức pháp luật trong
quảng đại quần chúng nhân dân. Điều đó, không những là tiền đề mà còn là chỗ
dựa cho việc xây dựng và thi hành các luật thuế. Cần có sự kết hợp chặt chẽ của
các ngành, các cơ quan thông tin báo chí, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ của
ngành giáo dục để tuyên truyền phổ biến luật thuế. Cần tạo ra một sự chuyển
biến sâu sắc trong toàn xã hội từ chỗ khuyến khích chống thuế dưới chế độ cũ
sang hình thức nộp thuế là nghĩa vụ, là biểu hiện nhiệt tình yêu nước của mỗi
người, niềm tự hào về mức đóng góp của mình đối với đất nước. Trốn thuế, lậu
thuế đồng nghĩa với lừa đảo và ăn cắp, không những bị pháp luật trừng trị nặng,
ghi vào hồ sơ cá nhân, không ai muốn thuê mướn sử dụng người đang bị án mà
còn bị xã hội khinh rẽ, phê phán. Phương pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất là
thông qua các cấp chính quyền, cơ quan đoàn thể quần chúng. Cần nhận thức
rằng, Nhà nước Việt Nam là "Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân". Do đó, phải bằng mọi cách làm cho người dân hiểu đúng
pháp luật và chấp hành pháp luật, thực hiện sự kiểm tra của nhân dân đối với cơ
quan thuế.
Ngành thuế và các cấp chính quyền tranh thủ kết hợp trong các cuộc họp,
hội nghị tổng kết của Đảng, chính quyền, đoàn thể, quần chúng để tuyên truyền,
vận động thực hiện chính sách thuế. Việc cung cấp tri thức và giáo dục, tuyên
truyền ý thức về pháp luật cho mỗi công dân không phải sự nghiệp riêng của
ngành thuế mà là nhiệm vụ có tầm chiến lược quốc gia cần đặt dưới sự chỉ đạo
của Trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Kinh nghiệm cho thấy,
trong quá trình tuyên truyền cần phải lưu ý quan tâm đến tâm tư của người nộp
thuế. Người nắm được chính sách thuế thì luôn mong đợi câu trả lời chính xác,
người chưa nắm vững thì mong được nghe trình bày và giải thích rõ hơn. Nếu
làm được như vậy sẽ cải tiến được mối quan hệ giữa nhân dân và người nộp thuế
với các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về thuế. Các địa phương cần đẩy
mạnh công việc thành lập các trung tâm dịch vụ, tư vấn pháp luật về thuế (có thể
thu lệ phí hoặc không thu lệ phí hướng dẫn, tư vấn). Giúp đỡ, hướng dẫn thực
hiện công tác kế toán, sổ sách chứng từ và khuyến khích động viên sự trung thực

trong khai báo và tự giác nộp thuế. Phải đề cao trách nhiệm của Bộ Tư pháp và
các cơ quan tư pháp ở địa phương trong việc phổ biến, tuyên truyền pháp luật
thuế. Hàng năm, cần tiến hành tổ chức tổng kết công tác thuế với đối tượng nộp
thuế trên địa bàn để rút kinh nghiệm. Coi trọng việc biểu dương khen thưởng tổ
chức, cá nhân nộp thuế đúng luật và phê phán những cơ sở trốn thuế, lậu thuế để
có tác dụng giáo dục. "Cần thiết phải tôn vinh và có chế độ khen thưởng phù hợp
ở các đối tượng nộp thuế và doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thực hiện tốt
nghĩa vụ nộp thuế. Ban tuyên giáo, các cấp ủy cần quan tâm hơn nữa đối với
công tác này, phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của mình.
Qua các phiên họp của Hội đồng nhân dân các cấp, cần phải thông báo cụ
thể cho nhân dân biết về tình hình và hiệu quả sử dụng nguồn thu thuế, nhằm
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
23


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

tăng thêm chất lượng trong công tác tuyên truyền. Mở rộng hình thức tuyên
truyền bằng tranh cổ động, áp phích thể hiện các công trình được xây dựng bằng
nguồn thu thuế.
6. Đối với hoạt động thu thuế nợ đọng:
Nhằm tăng cường quản lý và chống thất thu NSNN, đồng thời để quản lý
tốt nguồn thu, thúc đẩy nhanh tiến độ thu, hạn chế tình trạng cơ sở sản xuất kinh
doanh dây dưa nợ đọng tiền thuế, Chi cục thuế cần thiết tham mưu cho UBND
huyện về việc thu tiền thuế thông qua ngân hàng. Cụ thể: Ngân hàng NN&PTNT
Chi nhánh địa bàn huyện có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thuế trong việc

trích tiền từ tài khoản tiền gởi của cơ sở kinh doanh để nộp thuế, nộp phạt vào
NSNN theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan thuế hoặc cơ quan có thẩm
quyền trước khi thu hồi nợ theo quy định của các luật thuế; trường hợp số dư
trên tài khoản của cơ sở sản xuất kinh doanh không đủ để thực hiện lệnh thu
ngân sách thì ngân hàng hồi báo kịp thời cho cơ quan thuế về số dư trên tài
khoản để làm thủ tục trích toàn bộ số tiền hiện có vào NSNN và tiếp tục theo dõi
để làm Lệnh thu tiếp theo khi tài khoản có phát sinh (có số dư) mà đơn vị chưa
nộp; nếu trong tháng ngân hàng không thể thực hiện được. Lệnh thu do tài khoản
của đơn vị không có số dư thì phải thông báo kịp thời cho cơ quan thuế để có
biện pháp phối hợp xử lý.
Phối hợp với Công an huyện theo quy chế phối hợp đã được ký kết, áp dụng
các chế tài nhằm giảm số nợ đọng đến mức thấp nhất.
B. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực
KTNQD:
Thứ nhất, trong tuyển dụng cán bộ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
Theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2001 - 2005 ở Đại hội Đảng lần thứ XI, cải cách hành chính là một công việc
quan trọng quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Tổ chức bộ máy Nhà
nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ
nhân dân. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo yêu cầu ngày càng cao của bộ máy
quản lý thu thuế nhằm tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ thuế cũng như
nâng cao tinh thần trách nhiệm của công chức thuế trong quá trình thi hành công
vụ ngành thuế cần thiết cũng phải có những cải cách phù hợp về công tác đào
tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức ngành thuế, cụ
thể:
Công tác thuế là công tác mang tính kinh tế - chính trị - xã hội tổng hợp, vì
vậy cán bộ thuế một mặt phải là người am hiểu sâu về các chính sách tài chính,
kế toán, các luật thuế, Pháp lệnh thuế đồng thời phải là người am hiểu các chính
sách xã hội. Mặt khác, cũng cần phải có khả năng tuyên truyền, vận động quần
chúng, bên cạnh đó phải là người có bản lĩnh kiên định vững vàng. Do đó, để có

đội ngũ công chức thuế tốt, đủ tư cách đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
24


Tiểu luận cuối khóa

GVHD: Trần Duy Linh

công tác thuế không gây lãng phí cho xã hội, ngành thuế đã đến lúc cần có một
cơ sở đào tạo riêng, không phải chỉ đào tạo mới mà còn đào tạo lại, bồi dưỡng,
tập huấn, phổ biến kinh nghiệm, một trung tâm chuyên ngành có chất lượng cao
phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công tác thuế.
Muốn có được đội ngũ công chức đủ đảm đương công tác thuế trong thời
gian tới, công tác tổ chức cán bộ hàng năm trên cơ sở cân đối tổng thể cả nước
sẽ có chỉ tiêu tuyển dụng để đào tạo thay thế. Vì yêu cầu của mỗi công chức thuế
rất cao đòi hỏi phải nắm vững nhiều kiến thức và có năng lực, có sức khỏe nên
nhất thiết phải qua sơ tuyển. Nội dung đào tạo nhất thiết phải có các giảng viên
là cán bộ thuế có trình độ và kinh nghiệm truyền đạt và phải có nhiều kiến thức
thực hành,... khi ra trường nếu đủ yêu cầu sẽ được tuyển dụng chính thức vào
các vị trí đã được cân đối từ trước. Việc đào tạo có địa chỉ sẽ tạo nên khí thế tự
học tập, tự rèn luyện cho mỗi học sinh, sinh viên mà từ đây chất lượng đội ngũ
cán bộ sẽ được nâng cao.
Đối với một số cán bộ không được đào tạo đúng chuyên ngành thì hàng
năm phải có kế hoạch bồi dưỡng tập trung để nâng cao chất lượng cán bộ; còn
bộ phận cán bộ thuế có chức danh như: thanh tra viên thuế, kiểm soát viên
thuế,... thì nhất thiết hàng năm phải được tập huấn nghiệp vụ đồng thời phổ cập
kiến thức quản lý mới, học tập trao dồi thêm kinh nghiệm nhằm nâng cao trình

độ chuyên môn. Luôn coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, thường xuyên rèn
luyện phẩm chất "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" có như vậy mới có đủ
đội ngũ cán bộ có đức, có tài đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế trong tình hình
mới. Để đánh giá công tác cán bộ hàng năm, từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp, có thể dựa vào tiêu chuẩn để phân biệt phẩm chất và năng lực
của một cán bộ thuế thông qua tinh thần phục vụ các đối tượng nộp thuế.
Thứ hai, về chính sách chế độ:
* Về thuế Môn bài:
Căn cứ Nghị định 107/2012/NĐ-CP ngày 29/10/2010 của Chính phủ quy
định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty,
doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ
chức khác ở Việt Nam có thuê mướn lao động quy định đối với vùng IV là
1.100.000 đồng/ tháng, nhưng hiện nay ngành thuế vẫn áp dụng chính sách thuế
Môn bài theo Nghị định 75/2002/NĐ-CP ngày 30/8/2002 của Chính phủ, Thông
tư số 96/2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính và Thông tư số
96//2002/TT-BTC ngày 24/10/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Nghị định 75/2002/NĐ-CP và Thông tư số 42/2003/TT-BTC ngày 07/5/2003
của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư số 96/2002/TT-BTC quy định mức
thuế Môn bài bậc của Hộ kinh doanh còn bất hợp lý gồm có 6 bậc như sau:
Thuế Môn bài Bậc 1: Thu nhập 1 tháng 1.500.000 đồng Mức thuế Môn bài
cả năm là 1.000.000 đồng ;
HVTH : Đinh Tấn Hiệp

Trang
25


×