Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Xây dựng cơ cấu vốn mục tiêu cho công ty TNHH một thành viên G.Home

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.74 KB, 68 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là luận văn do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả
trong luận văn là hoàn toàn trung thực và xuất phát từ tình hình thực tế của
Công ty TNHH MTV G.HOME.

Sinh viên

Nguyễn Ngọc Anh


MỤC LỤC
Trang bìa............................................................................................................ i
1.1.2.4. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn...............................................8


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài:
Trong điều kiện nền kinh tế đang trên đà phát triển và hội nhập, sự

cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, một công ty để tồn tại và phát triển bền
vững cần phải biết tiếp thu và phát triển những lý thuyết kinh tế hiện có.
Phần đông các công ty ở Việt Nam nhìn nhận về tỷ lệ nợ của mình một
cách khá đơn giản, thường thì các nhà quản trị tự nhẩm tính khi thiếu vốn thì
đi vay nợ để kinh doanh, vay càng nhiều càng tốt, trong trường hợp không
vay được thì huy động thêm vốn từ các chủ sở hữu để mở rộng kinh doanh.
Tuy vậy, nếu chúng ta biết rằng, việc xác định một cấu trúc vốn đạt hiệu quả
cao nhất cho một doanh nghiệp là một vấn đề lớn rất quan trọng trong tài
chính doanh nghiệp hiện đại.


Được nêu ra từ những năm 60 của thế kỷ 20, việc xây dựng cấu trúc
vốn tối ưu cho doanh nghiệp đã trở thành một trong những vấn đề trọng tâm
của tài chính doanh nghiệp hiện đại, được rất nhiều công ty cũng như tập
đoàn lớn trên thế giới nghiên cứu. Hiện nay nhiều công ty ở Việt nam bắt đầu
quan tâm đến việc đưa lý thuyết vào thực tiễn.
Đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thương trường, để
nâng cao tính cạnh tranh của mình, công ty TNHH một thành viên G.Home đã
thực hiện khá nhiều biện pháp đổi mới khác nhau. Tuy nhiên việc xem xét cơ
cấu vốn hiện tại chưa được quan tâm, chính vì vậy đề tài “Xây dựng cơ cấu
vốn mục tiêu cho công ty TNHH một thành viên G.Home” được lựa chọn để
đáp ứng nhu cầu lý luận và thực tiễn đó.
2.

Mục đích nghiên cứu luận văn:
Nghiên cứu cơ cấu vốn hiện tại của công ty, đề xuất giải pháp, kiến

nghị đổi mới cơ cấu vốn và nâng cao hiệu quả kinh doanh tai công ty TNHH
một thành viên G.Home.


3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu những vấn đề lý luận

cơ bản về cơ cấu vốn của công ty.
Phạm vi nghiên cứu: Cơ cấu vốn của công ty TNHH một thành viên G.Home.
Giai đoạn nghiên cứu : Từ năm 2010 -2012.
4.


Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,

các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn: Phương
pháp phân tích và tổng hợp, các phương pháp diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, so
sánh và cả công cụ thống kê, khảo sát thực tế.
5.

Những đóng góp khoa học:
• Hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về cơ cấu vốn của công ty.
• Phân tích, đánh giá thực trạng cơ cấu vốn của công ty.
• Đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu vốn mục tiêu của công ty.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về cơ cấu nguồn vốn.
Chương 2: Thực trạng cơ cấu nguồn vốn của công ty TNHH một thành
viên G.Home.
Chương 3: Giải pháp xây dựng cơ cấu nguồn vốn mục tiêu cho công ty
TNHH một thành viên G.Home.

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU VỐN


1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về vốn
Trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào, một doanh nghiệp muốn tiến
hành được hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất
định. Vốn là điều kiện tiên quyết giúp doanh nghiệp hình thành nên các yếu tố
lao động là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Thông qua

sự kết hợp của ba yếu tố này mà hàng hóa, dịch vụ mới được tạo ra. Do vậy,
vốn không chỉ là điều kiện tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp mà còn là
cơ sở để doanh nghiệp có thể hoạt động và phát triển trong tương lai.
Để có một cái nhìn tổng quan về vốn, chúng ta có thể hiểu vốn qua các
khía cạnh sau:
- Nguồn gốc sâu xa của vốn chính là một bộ phận của thu nhập quốc
dân dùng để tái đầu tư, để phân biệt với vốn đất đai và vốn nhân lực.
- Vốn của doanh nghiệp thường xuyên vận động và chuyển hóa từ
hình thái ban đầu là tiền sang hình thái vật chất và cuối cùng trở về hình thái
ban đầu là tiền. Sự vận động như vậy gọi là sự tuần hoàn của vốn.
- Vốn có mối quan hệ với các nhân tố khác của quá trình sản xuất
kinh doanh, điều này đòi hỏi nhà quản trị phải xem xét vốn trong mối quan hệ
với các nhân tố khác để làm thế nào có hiệu quả nhất.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể rút ra kết luận: Vốn của
doanh nghiệp là biểu hiện của số tiền ứng trước để mua sắm các yếu tố đầu
vào nhằm thực hiện việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế thị trường, vốn được coi là quỹ tiền tệ đặc biệt không thể thiếu của
doanh nghiệp và mang những đặc trưng sau:
Thứ nhất, vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực tế của các tài
sản dùng để sản xuất ra một lượng giá trị của các sản phẩm. Vốn chính là biểu


hiện về mặt giá trị của các tài sản như: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,
hàng hóa… trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cần phải
chú ý rằng, chỉ có những tài sản có giá trị và giá trị sử dụng phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới được coi là vốn.
Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời. Ban đầu vốn được biểu hiện bằng
một lượng tiền nhất định, trong quá trình vận động vốn tồn tại dưới nhiều
hình thức vật chất khác nhau. Tuy nhiên, điểm xuất phát và điểm cuối cùng
của quá trình tuần hoàn vốn đều phải được biểu hiện giá trị bằng tiền. Muốn

đạt được hiệu quả sử dụng vốn thì số vốn cuối kỳ phải lớn hơn số vốn đã bỏ
ra ở đầu kỳ.
Thứ ba, vốn được tập trung tích tụ thành một lượng nhất định mới có
thể phát huy được tác dụng, mới có thể giúp doanh nghiệp mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải biết vận dụng và
khai thác mọi nguồn lực có thể huy động để đầu tư vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình.
Thứ tư, vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong nền kinh tế thị trường
như hiện nay thì điều này thể hiện khá rõ. Vốn của doanh nghiệp biểu hiện
dưới giá trị tiền tệ mà bản thân tiền có giá trị thời gian do đó vốn cũng có đặc
trưng này. Hơn nữa, vốn còn chịu tác động của các yếu tố như lạm phát, biến
động giá cả, tiến bộ khoa học công nghệ,… nên giá trị của vốn tại thời điểm
khác nhau là khác nhau.
Thứ năm, vốn phải gắn liền với chủ sở hữu. Mỗi loại vốn bao giờ cũng
có một chủ sở hữu riêng, người sử dụng vốn chưa chắc đã là người sở hữu
vốn do có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Điều này quyết
định đến sự khác biệt về bản chất của các loại vốn và đặt ra yêu cầu người sử
dụng vốn phải có trách nhiệm với động vốn mà mình nắm giữ.


Thứ sáu, Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản hữu
hình có hình thái vật chất cụ thể, mà còn là biểu hiện của các loại tài sản vô
hình như: lợi thế thương mại, bằng phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ,
quyền sử dụng đất… Để sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất, chúng ta không
những cần phải nắm rõ bản chất của vốn mà cần có một phương pháp phân
loại khoa học để dễ dàng quản lý và đánh giá hiệu quả từng loại vốn.
1.1.2. Phân loại vốn
1.1.2.1. Căn cứ vào quyền sở hữu
Nếu dựa theo tiêu chí là quyền sở hữu chúng ta có thể chia vốn thành
hai bộ phận là nợ và vốn chủ sở hữu.

• Vốn chủ sở hữu: là các nguồn vốn thuộc về chủ sở hữu của doanh
nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong công
ty cổ phần. Đối với các doanh nghiệp, VCSH có thể bao gồm các hình thức
như vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, vốn từ việc phát hành cổ phiếu…
Đặc điểm của vốn chủ sở hữu:
VCSH không có thời hạn xác định, chỉ khi doanh nghiệp hết thời hạn
hoạt động hoặc bị phá sản thì chủ sở hữu mới có thể nhận lại phần vốn góp.
Chủ sở hữu là người được hưởng lợi nhuận do doanh nghiệp tạo ra
nhưng ở thứ tự sau cùng, khi các chủ nợ và những người nắm giữ cổ phiếu ưu
đãi trong công ty cổ phần đã nhận phần của họ. Như vậy, khác với chủ nợ và
cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi, chủ sở hữu nhận số lợi nhuận tùy thuộc vào
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thu nhập của chủ sở hữu không được tính vào chi phí hợp lý khi tính
thuế thu nhập doanh nghiệp, nó được lấy từ lợi nhuận sau thuế để chi trả.
• Nợ phải trả: là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ các
giao dịch và sự kiện trong quá khứ mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các
nguồn lực của mình. Đây là một loại vốn thuộc sở hữu của người khác, doanh
nghiệp có quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Nợ phải trả bao gồm


các khoản nợ vay và các khoản phải trả. Nợ vay được hình thành từ các khoản
vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Sử dụng khoản nợ này doanh
nghiệp phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng hẹn. Các khoản phải trả bao gồm:
phải trả người bán, phải trả công nhân viên, thuế và các khoản phải nộp khác.
Đặc điểm của nợ phải trả
Người tài trợ cho doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu của doanh
nghiệp. Khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn có thể đi vay hoặc chiếm dụng
của bên thứ ba. Đối với nguồn tài trợ này, chủ sở hữu không bị mất quyền
kiểm soát doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải trả lãi cố định cho chủ nợ, cuối kỳ hạn phải thanh

toán đầy đủ gốc và lãi. Nếu doanh nghiệp không trả được nợ sẽ dẫn đến nguy
cơ mất khả năng thanh toán, lâm vào tình trạng phá sản.
Chi phí lãi vay là chi phí hợp lý khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Cơ cấu giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu sẽ tác động đến rủi ro tài chính
của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp biết sử dụng nợ một cách hợp lý sẽ làm
tăng tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, không nên lạm dụng nhiều vì
khi đó sẽ làm tăng rủi ro cho doanh nghiệp.
Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn của doanh nghiệp được hình
thành từ vốn bản thân hay từ các nguồn ngoại sinh. Từ đó có các quyết định
trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động một cách hợp lý, đảm bảo
an toàn về tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thông thường các
doanh nghiệp luôn có các cách sử dụng kết hợp cả hai loại này.


1.1.2.2. Căn cứ vào phương thức chu chuyển
Vốn vận động liên tục trong quá trình sản xuất và biểu hiện bằng những
hình thái vật chất khác nhau. Sự khác nhau đó dẫn đến vốn được chia thành
hai loại là vốn cố định và vốn lưu động:
• Vốn cố định: là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố
định mà đặc điểm là luân chuyển từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và
hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Vốn cố định có hình thái vật chất là tài sản cố định, việc quản lý, đánh
giá hiệu quả của vốn cố định chính là hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
• Vốn lưu động: là bộ phận của vốn được biểu hiện bằng tiền của
toàn bộ giá trị TSNH trong doanh nghiệp. Những tài sản này đảm bảo quá
trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện, do đó vốn lưu
động tham gia vào quá trình sản xuất dưới nhiều hình thức khác nhau. Đặc
điểm của vốn lưu động là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và
toàn bộ giá trị sẽ chuyển dịch vào giá trị thành phẩm sản xuất ra.
1.1.2.3. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn

Về cơ bản nguồn vốn có hai loại: Nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn
dài hạn.
• Nguồn vốn ngắn hạn: là những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể
huy động đưa vào sử dụng trong một khoảng thời gian ngắn, thường là dưới
một năm. Nguồn vốn này thường được doanh nghiệp đưa vào đầu tư vào tài
sản lưu động của doanh nghiệp.
• Nguồn vốn dài hạn: là những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể
sử dụng trong khoảng thời gian dài, thường là trên một năm. Nhu cầu về vốn
dài hạn trước hết xuất phát từ nhu cầu đầu tư cho các dự án và một vài tài sản
lưu động của doanh nghiệp. Nguồn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp bao gồm:
nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn.


Cách phân loại trên giúp cho nhà quản trị xem xét, huy động các nguồn
phù hợp với thực tế của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và tổ
chức nguồn vốn. Mặt khác đây cũng là cơ sở để lập kế hoạch quản lý và sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả lớn nhất với chi phí nhỏ nhất.
1.1.2.4. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn
Dựa vào tiêu thức này thì nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành
nguồn vốn bên trong doanh nghiệp và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
• Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy
động từ bản thân các hoạt động của doanh nghiệp như tiền khấu hao tài sản cố
định, lợi nhuận để lại tái đầu tư, các khoản dự phòng…
• Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn mà doanh
nghiệp có thể huy động từ việc vay ngân hàng, vay tổ chức tín dụng, phát
hành trái phiếu, cổ phiếu…
Cách phân loại này giúp nhà quản lý tài chính nắm bắt được tỷ trọng
của từng nguồn vốn theo phạm vi huy động, để từ đó có hoạch định những
chính sách huy động vốn hợp lý tạo lập được một cơ cấu vốn tối ưu nhất.
1.2. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp:

1.2.1. Khái niệm cơ cấu vốn và các hệ số tài chính đo lường:
Cơ cấu vốn là thể hiện tỷ trọng của các nguồn vốn trong tổng giá trị
nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động, sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Quyết định về cơ cấu vốn là một quyết định tài chính cực kỳ quan trọng
đối với một doanh nghiệp, bởi lẽ cơ cấu vốn là một trong những yếu tố quyết
định đến chi phí sử dụng vốn bình quân, nó ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận
vốn chủ sở hữu và rủi ro tài chính của doanh nghiệp.


Để đạt tới cơ cấu vốn tối ưu, thì cơ cấu vốn khi sử dụng nợ phải thỏa
mãn được ba mục đích của nhà đầu tư là:
- Tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu,
- Tối thiểu hóa rủi ro,
- Tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn.
Khi nói đến cơ cấu vốn của một doanh nghiệp, người ta quan tâm đến
mối quan hệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Cơ cấu vốn của doanh
nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Tổng nợ
Tổng nguồn vốn
Hệ số nợ phản ánh trong tổng tài sản của doanh nghiệp thì có bao nhiêu
Hệ số nợ =

phần trăm được hình thành bằng vốn vay tức bằng nguồn nợ phải trả.
Bên cạnh chỉ tiêu hệ số nợ, cơ cấu vốn còn có thể xem xét thông qua hệ
số vốn chủ sở hữu:
Hệ số vốn

Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn

chủ sở hữu
Tương tự hệ số nợ, hệ số vốn chủ sở hữu thể hiện vốn chủ sở hữu
=

chiếm bao nhiêu phần trăm trong nguồn vốn của doanh nghiệp.
Nhìn vào tổng thể ta thấy tổng nguồn vốn bao gồm hai bộ phận là nợ
phải trả và vốn chủ sở hữu, do đó có thể xác định:
Hệ số nợ = 1 – Hệ số vốn chủ sở hữu
Cơ cấu vốn còn được phản ánh qua hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu:
Hệ số nợ trên

Tổng nợ
Vốn chủ sở hữu
vốn chủ
1.2.2. Tác động của cơ cấu vốn đến giá trị doanh nghiệp:
=

Bất cứ doanh nghiệp nào trong quá trình hoạt động đều có những mục
tiêu nhất định. Thông thường về ngắn hạn mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa
hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, theo nguyên lý đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận,
lợi nhuận càng lớn đồng nghĩa với rủi ro càng cao. Do đó, về dài hạn, mục
tiêu của doanh nghiệp không chỉ đơn giản là lợi nhuận mà là tối đa hóa giá trị


doanh nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này doanh nghiệp cần có một cơ cấu
vốn hợp lý, bởi lẽ, cơ cấu vốn trong doanh nghiệp có ảnh hưởng quyết định
đến khả năng thực thi các chiến lược kinh doanh, hiệu quả kinh tế và sự phát
triển bền vững của doanh nghiệp.
Cơ cấu vốn có tác động mạnh mẽ đến giá trị doanh nghiệp. Trước khi
xem xét cơ cấu vốn tác động đến giá trị doanh nghiệp như thế nào, theo chiều

hướng ra sao, ta sẽ xem xét tác động của nó tới các yếu tố cụ thể trong doanh
nghiệp như sau:
1.2.2.1. Tác động của cơ cấu vốn đến rủi ro tài chính của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp chắc chắn phải đối mặt với
nhiều loại rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau, có thể là rủi ro kinh doanh, rủi ro
hoạt động, rủi ro tài chính hay rủi ro pháp luật… Tuy nhiên, khi nói về tác động
của cơ cấu vốn đến rủi ro, ta sẽ quan tâm đến rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
Rủi ro tài chính là sự dao động hay tính khả biến tăng thêm của tỷ suất
lợi nhuận vốn chủ sở hữu hay thu nhập trên một cổ phần và làm tăng thêm
xác suất mất khả năng thanh toán khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay và các
nguồn tài trợ khác có chi phí cố định tài chính.
Để xem xét tác động của việc sử dụng nợ, người ta chú ý đến khái niệm
đòn bẩy tài chính. Đòn bẩy tài chính thể hiện mức độ sử dụng vốn vay trong
nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm hi vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ
sở hữu hay thu nhập trên một cổ phần.
Khi doanh nghiệp sử dụng nợ vay có nghĩa là doanh nghiệp đã sử dụng
đến đòn bẩy tài chính. Sở dĩ sử dụng đòn bẩy tài chính khuếch đại được tỷ
suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu là vì khi sử dụng nợ vay, doanh nghiệp phải trả
lãi vay, đây là một khoản chi phí tài chính cố định. Khi doanh nghiệp tạo ra
được khoản lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT) càng lớn, trong khi chi phí
lãi vay không đổi, thì sau khi trừ lãi vay và nộp thuế, phần lợi nhuận còn lại


dành cho chủ sở hữu càng nhiều. Như vậy, đối với doanh nghiệp sử dụng đòn
bẩy tài chính, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE) nhạy cảm hơn trước sự
biến động của EBIT.
Để đánh giá ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính đến ROE (hay EPS)
người ta sử dụng thước đo là mức độ tác động của đòn bẩy tài chính DFL:
DFL


= Tỷ lệ thay đổi của tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu ROE (hay EPS)
Tỷ lệ thay đổi của lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT)
Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính phản ánh khi lợi nhuận trước lãi

vay và thuế tăng lên hay giảm đi 1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay
EPS) sẽ tăng lên hay giảm đi bao nhiêu phần trăm.
Công thức có thể rút ra như sau:
DFL

Q(P-V) – F

=

Q(P-V) – F – I

DFL

=

EBIT
EBIT – I

Hay:

Trong đó:

Q:

sản lượng sản phẩm tiêu thụ.


P:

giá bán 1 sản phẩm.

V:

chi phí biến đổi cho một đơn vị sản phẩm.

F:

tổng chi phí cố định kinh doanh.

EBIT: lợi nhuận trước lãi vay và thuế.
I:

lãi tiền vay phải trả.


Nhìn vào công thức trên ta có thể thấy, khi doanh nghiệp sử dụng nợ vay
càng nhiều, chi phí lãi vay phải trả càng lớn thì giá trị của DFL càng cao, tức
một sự thay đổi nhỏ của EBIT sẽ cho một sự biến động lớn của ROE (hay EPS).
Tuy nhiên, việc sử dụng đòn bẩy tài chính cũng giống như sử dụng
“con dao hai lưỡi”. Ta sẽ nhận thấy điều này qua phân tích sau:
Ta có:
NI
(EBIT − I) × (1 − t)
=
E
E


ROE =
=

(ROA E × (D + E) − D × i) × (1 − t)
E

=

ROA E × E + D × (ROA E − i)
× (1 − t)
E



ROE = (ROA E +

Vậy:

D

× (ROA E − i)  × (1 − t)
E


Trong đó:
ROE: tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu.
NI:

lợi nhuận sau thuế.


ROAE: tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản.
E:

vốn chủ sở hữu.

D:

vốn vay.

i:

lãi suất vốn vay.

t:

thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.

Nhìn vào công thức trên ta thấy (1-t) là hằng số, do vậy tỷ suất lợi
nhuận vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản, lãi
suất vốn vay và mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp.


Có 3 trường hợp cần lưu ý:
- Trường hợp 1: ROAE >i, khi đó doanh nghiệp sử dụng càng nhiều
vốn vay sẽ càng gia tăng được tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, sử
dụng nhiều nợ vay sẽ khiến doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn.
- Trường hợp 2: ROAE =i, lúc này doanh nghiệp sử dụng nợ vay
nhiều hay ít hay không sử dụng, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu đều không
bị ảnh hưởng, chỉ có mức độ rủi ro là khác nhau.
- Trường hợp 3: ROAE

dụng càng nhiều nợ vay, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu càng bị sụt giảm,
đồng thời rủi ro tài chính càng lớn.
Qua phân tích trên ta có thể thấy mức độ sử dụng nợ, hay chính là cơ
cấu vốn của doanh nghiệp có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến rủi ro tài
chính mà doanh nghiệp phải đối mặt. Nó ảnh hưởng đến phần lợi nhuận mà
chủ sở hữu doanh nghiệp được nhận. Do đó, hoạch định một cấu trúc vốn hợp
lý trong từng thời kỳ là một vấn đề cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa đối với
một doanh nghiệp.
1.2.2.2. Tác động của cơ cấu vốn đến chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp

Khái niệm chi phí sử dụng vốn
Để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp có thể huy động sử dụng nhiều nguồn tài trợ khác nhau như vay vốn,
phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường đối với công
ty cổ phần, dùng lợi nhuận để lại tái đầu tư… Để có quyền sử dụng những
nguồn vốn này, công ty phải trả một khoản thu nhập nhất định cho người cung
cấp hay chủ sở hữu vốn. Đó chính là cái giá mà doanh nghiệp phải trả cho việc
sử dụng nguồn tài trợ để thực hiện đầu tư cũng như hoạt động kinh doanh nói
chung của công ty và được gọi là chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Đứng trên góc độ của công ty là người sử dụng vốn, thì chi phí sử dụng
vốn là tỷ suất sinh lời tối thiểu cần phải đạt được khi sử dụng nguồn tài trợ đó


cho đầu tư hay hoạt động kinh doanh để đảm bảo cho tỷ suất lợi nhuận trên
VCSH không bị sụt giảm. Mỗi nguồn tài trợ mà công ty sử dụng có đặc điểm
và chi phí sử dụng khác nhau. Ở đây là công ty TNHH một thành viên, nguồn
vốn công ty có thể sử dụng chỉ bao gồm vốn vay và vốn đầu tư của chủ sở
hữu, nên ta sẽ tập trung xem xét chi phí sử dụng hai nguồn vốn này.

Chi phí sử dụng vốn vay

Để đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động, công ty có thể sử dụng vốn vay
như vay vốn từ các tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu… Khi sử dụng vốn
vay, công ty phải trích ra khoản lợi nhuận tối thiểu bằng số tiền lãi vay phải
trả cho chủ nợ thì mới đảm bảo thu nhập vốn chủ sở hữu không bị sụt giảm.
Do vậy, chi phí sử dụng vốn vay là tỷ suất sinh lời tối thiểu mà công ty cần
phải đạt được từ việc sử dụng vốn vay để sao cho tỷ suất lợi nhuận vốn chủ
sở hữu không bị sụt giảm.
Một trong những ưu thế khi sử dụng vốn vay là lãi vay được coi là
khoản chi phí hợp lý và được trừ vào thu nhập chịu thuế của công ty, do đó,
khi xem xét chi phí sử dụng vốn vay cần phân biệt chi phí sử dụng vốn vay
trước thuế và chi phí sử dụng vốn vay sau thuế.
- Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế:
Chi phí sử dụng vốn vay trước thuế là tỷ suất sinh lời tối thiểu công ty
phải đạt được khi sử dụng vốn vay chưa tính đến ảnh hưởng của thuế thu
nhập mà công ty phải nộp để tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu không bị sụt
giảm.


Công thức xác định:
n

Vt = ∑
t =1

Tt

( 1 + rdt )

t


Trong đó:Vt: là số tiền vay thực tế công ty được sử dụng.
Tt : số vốn gốc và lãi công ty phải trả ở năm thứ t.
rdt: chi phí sử dụng vốn vay trước thuế.
n: số năm vay vốn.
Chi phí sử dụng vốn vay sau thuế
Công thức xác định:

rd = rdt × (1 − t)

 Chi phí sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu
Công ty có thể dùng một phần lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư, hoặc
chủ sở hữu trực tiếp bỏ vốn vào công ty, đây là nguồn vốn chủ sở hữu nội
sinh của công ty.
Xét về mặt kế toán, khi sử dụng nguồn vốn này, công ty không phải trả
chi phí sử dụng, tuy nhiên trên góc độ tài chính phải tính đến chi phí cơ hội
của nguồn vốn này.
Nếu công ty quyết định sử dụng lợi nhuận để lại tái đầu tư hay chủ sở
hữu trực tiếp bỏ vốn đầu tư thì công ty phải đảm bảo đạt được tỷ suất sinh lời
tối thiểu bằng tỉ suất sinh lời mà chủ sở hữu có thể thu được khi dùng số tiền
đó đầu tư vào nơi khác có mức độ rủi ro tương đương với mức độ rủi ro hiện
tại của công ty. Do đó, chi phí sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu hay lợi
nhuận để lại tái đầu tư là tỷ suất sinh lợi tối thiểu công ty cần phải đạt được
từ việc sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu sao cho tỷ suất sinh lời vốn chủ sở
hữu không bị sụt giảm.
Việc đánh giá chính xác chi phí sử dụng vốn đầu tư của chủ sở hữu
không phải là việc làm đơn giản, bởi nó phụ thuộc vào các yếu tố khách quan
bên ngoài doanh nghiệp. Thường khi xem xét chi phí sử dụng nguồn vốn này,


doanh nghiệp phải thu thập được thông tin từ thị trường, phân tích, so sánh,

đánh giá để đưa ra một mức chi phí sử dụng hợp lý.
 Chi phí sử dụng vốn bình quân
Chi phí sử dụng vốn bình quân là một chỉ tiêu hết sức quan trọng đối
với công ty, là cơ sở để quản lý nguồn vốn cũng như ra quyết định đầu tư.
Chi phí sử dụng vốn bình quân được xác định theo công thức:
WACC =

E
D
× rE + × rdt × (1 − t)
V
V

Trong đó:
WACC: chi phí sử dụng vốn bình quân.
E: Vốn chủ sở hữu.
D: Vốn vay.
V: tổng nguồn vốn của công ty
Tác động cơ cấu vốn đến chi phí sử dụng vốn bình quân:
Như đã biết, khi sử dụng vốn vay, lãi vay là một khoản chi phí hợp lý,
được tính trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, điều này làm cho chi
phí sử dụng vốn vay thấp hơn chi phí sử dụng các nguồn vốn khác. Do đó, khi
sử dụng nhiều vốn vay, khoản lợi về thuế nhìn chung sẽ làm cho chi phí sử
dụng vốn bình quân của doanh nghiệp giảm đi. Tuy nhiên sự tác động này
không đơn thuần một chiều như vậy mà nó là sự tác động hai chiều.
Khi tăng sử dụng nợ, tác động của tiết kiệm thuế từ sử dụng vốn vay
làm chi phí sử dụng vốn bình quân của công ty giảm thấp. Tuy nhiên, sử dụng
nợ càng nhiều thì rủi ro tài chính càng tăng lên, mà theo nguyên tắc đánh đổi
giữa rủi ro và lợi nhuận, khi rủi ro lớn các nhà đầu tư sẽ yêu cầu một tỷ suất
sinh lời cao tương đương với mức rủi ro họ phải đối mặt. Do đó, khi hệ số nợ

tăng đến một giới hạn mà làm cho rủi ro quá lớn sẽ khiến người chủ sở hữu
doanh nghiệp đưa ra một tỷ suất sinh lời đòi hỏi cao tới mức vô hiệu hóa tác


dụng tiết kiệm thuế của việc sử dụng vốn vay, và lúc đó, chi phí sử dụng vốn
bình quân tăng lên.
1.2.2.3. Tác động của cơ cấu vốn đến giá trị doanh nghiệp
Mục tiêu của các doanh nghiệp trong quá trình tồn tại và hoạt động là
làm sao để tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Có nhiều yếu tố tác động tới giá trị
một doanh nghiệp, điển hình là các yếu tố như sau:
-

Khả năng sinh lời của doanh nghiệp và xu thế tăng trưởng trong

tương lai: Chỉ có xu thế tăng trưởng của lợi nhuận mà doanh nghiệp tạo ra
trong tương lai cao hơn mức lợi tức hiện tại mới hấp dẫn được nhà đầu tư. Vì
vậy, nếu doanh nghiệp có tỷ suất sinh lời cao thì hấp dẫn nhiều nhà đầu tư
hơn. Như vậy sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp.
-

Tình hình tài chính của doanh nghiệp: Một doanh nghiệp có tình

hình tài chính lành mạnh sẽ làm giảm rủi ro của đồng vốn đầu tư, hay nói
cách khác, nhà đầu tư đánh giá cao các cơ hội đầu tư an toàn.
- Mức độ tin cậy của BCTC: Nếu BCTC của doanh nghiệp khi tuyên
bố không đảm bảo được tính tin cậy, chính xác sẽ làm doanh nghiệp mất uy
tín trên thị trường và ảnh hưởng rất lớn tới quyết định đầu tư của nhà đầu tư
vào doanh nghiệp.
-


Tài sản hữu hình của doanh nghiệp: Như ta đã biết, TSHH của

doanh nghiệp bao gồm cả nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị cũ, mới… vì
vậy, khi giá trị TSHH của doanh nghiệp càng lớn thì giá trị của doanh nghiệp
càng cao. Mặt khác, TSHH của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến việc
sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ hiện tại và tương lai cũng như khả năng
cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Điều này sẽ quyết định
đến thị phần của doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kỳ vọng
của nhà đầu tư.


Ngoài những yếu tố ở trên, giá trị doanh nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi
nguồn nhân lực, trình độ quản lý, vị trí địa lý hay các chiến lược đầu tư, chiến
lược kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, để nâng cao giá trị, trước hết,
doanh nghiệp phải tìm cách tăng khả năng sinh lời, nâng cao mức tăng trưởng
trong tương lai và duy trì một tình hình tài chính ổn định, an toàn, hạn chế tối
đa các rủi ro. Muốn làm được điều đó, doanh nghiệp phải xây dựng được một
cơ cấu vốn hợp lý, bởi cơ cấu vốn là yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả
năng sinh lời cũng như rủi ro của doanh nghiệp. Ta sẽ nhận thấy rõ điều này
khi xem xét về một công ty cổ phần.
Đối với công ty cổ phần, giá trị của công ty được thể hiện qua giá của
cổ phiếu công ty trên thị trường. Tối đa hóa giá trị công ty chính là làm cách
nào để nâng giá cổ phiếu của công ty trên thị trường đến mức cao nhất. Giá cổ
phiếu trong trường hợp cổ tức tăng trưởng đều đặn qua các năm được xác
định như sau:

P0 =

d 0 × (1 + g)
WACC − g


Ta lại có:



g = ROE x K =  ROA E +
WACC =

D

× (ROA E − i)  × (1 − t) × K
E


E
D
× rE + × rdt × (1 − t)
V
V

Nhìn vào công thức ta thấy rõ ràng cơ cấu vốn hay chính là tỷ lệ nợ và
vốn chủ trong tổng nguồn vốn có tác động mạnh mẽ đến giá cổ phiếu của
công ty trên thị trường. Công ty càng sử dụng nhiều vay nợ, giả sử tỷ suất
sinh lời kinh tế của tài sản ROA E công ty tạo ra lớn hơn lãi suất vay i, thì tốc
độ tăng trưởng cổ tức g càng lớn. Bên cạnh đó, sử dụng nhiều nợ còn giúp chi


phí sử dụng vốn bình quân WACC thấp nhờ lợi ích của tấm lá chắn thuế. Và
như vậy, giá cổ phiếu của công ty sẽ càng tăng khi sử dụng càng nhiều nợ vay
(do g tăng, WACC giảm).

Tuy nhiên, trong trường hợp công ty có tỷ suất sinh lời kinh tế của tài
sản nhỏ hơn lãi suất vốn vay hoặc khi sử dụng quá nhiều nợ làm rủi ro tăng
cao, tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư cao làm vô hiệu hóa lợi ích tấm lá
chắn thuế của vốn vay, WACC vượt qua điểm gãy và tăng lên thì giá cổ phiếu
của công ty sẽ bị giảm (vì khi đó g giảm, WACC tăng).
Như vậy, cơ cấu vốn là yếu tố cốt lõi quyết định đến giá trị của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp muốn theo đuổi mục tiêu lâu dài là tối đa hóa giá trị
doanh nghiệp thì phải xây dựng được một cơ cấu vốn hợp lý để theo đuổi khi
đưa ra các quyết định huy động, đầu tư… trong quá trình hoạt động của mình.
1.3. Cơ cấu vốn tối ưu
1.3.1. Khái niệm cơ cấu vốn tối ưu
Một cơ cấu vốn phù hợp là quyết định quan trọng với mọi doanh
nghiệp không chỉ bởi nhu cầu tối đa hóa lợi ích thu được từ các cá nhân và tổ
chức có liên quan tới công ty mà còn bởi tác động của các quyết định này tới
năng lực kinh doanh của công ty trong môi trường cạnh tranh. Cơ cấu vốn tối
ưu là cơ cấu vốn làm cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, qua đó tối đa hóa
được giá trị công ty.


1.3.2. Tóm lược các lý thuyết về cơ cấu vốn tối ưu
1.3.2.1. Lý thuyết về cơ cấu vốn theo quan điểm truyền thống
Cơ cấu vốn có tác động đến chi phí sử dụng vốn và giá trị doanh
nghiệp, hay nói cách khác có một điểm tối ưu ở đó chi phí sử dụng vốn trung
bình của doanh nghiệp là nhỏ nhất và giá trị doanh nghiệp cao nhất.
1.3.2.2. Lý thuyết về cơ cấu vốn theo quan điểm hiện đại
a. Lý thuyết về cấu trúc vốn theo quan điểm của Modigliani và Miller
Mô hình này nhằm phân tích tác động vủa thuế và chi phí sử dụng vốn
lên sự thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
• Trường hợp không có thuế:
Các giả định:

(1) Không có thuế TNDoanh nghiệp và thuế TNCN
(2) Không có chi phí giao dịch.
(3) Không có chi phí phá sản và chi phí khốn khó tài chính.
(4) Lãi suất tiền vay của cá nhân và Doanh nghiệp là như nhau.
(5) Thị trường vốn là thị trường hoàn hảo.
Mệnh đề số 1: Trong điều kiện không có thuế giá trị công ty có vay nợ
(VL) bằng giá trị của công ty không vay nợ (VU), nghĩa là VL = VU.
Mệnh đề số 2: Lợi nhuận yêu cầu trên vốn cổ phần có quan hệ cùng
chiều với mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính hay tỷ số nợ.

k E = k 0 + (k 0 − k D ) ×

D
E

Trong đó:
kE : Lợi nhuận yêu cầu hay lợi nhuận kỳ vọng trên vốn cổ phần
kD : Lãi suất hay chi phí sử dụng nợ
k0 : Chi phí sử dụng vốn khi công ty sử dụng 100% vốn cổ phần
D : Giá trị nợ hay trái phiếu của công ty phát hành
E : Giá trị vốn cổ phần của công ty
Khi một doanh nghiệp tăng sử dụng nợ trong cơ cấu vốn thì rủi ro mất
khả năng thanh toán mà doanh nghiệp gặp phải cũng gia tăng. Do đó, lợi nhuận


trên vốn cổ phần cũng phải tăng lêm. Như vậy, trong trường hợp không có thuế
thì cấu trúc vốn của doanh nghiệp không ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
• Trường hợp có thuế:
Mệnh đề số 1: Trong trường hợp có thuế TNDoanh nghiệp, giá trị công
ty có vay nợ (VL) bằng giá trị công ty không vay nợ (VU) cộng với hiện giá

của lá chắn thuế.
VL=VU+T.D
Trong đó:
VL : Tổng giá trị của doanh nghiệp sử dụng nợ
VU : Tổng giá trị của doanh nghiệp không sử dụng nợ
D : Tổng số nợ sử dụng
T : Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
Khi công ty vay nợ thì tiết kiệm được thuế do lợi ích tấm là chắn thuế
từ lãi vay. Như vậy, việc sử dụng nợ làm tăng giá trị doanh nghiệp. Sử dụng
nợ càng nhiều thì giá trị doanh nghiệp càng tăng và gia tăng đến tối đa khi
doanh nghiệp được tài trợ 100% nợ.
Mệnh đề số 2: Trong trường hợp có thuế, lợi nhuận yêu cầu trên vốn cổ
phần có quan hệ cùng chiều với mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính hay tỷ số
nợ, mối quan hệ này được diễn tả bởi công thức:

k E = k 0 + (k 0 − k D ) × (1 − T) ×

D
E

b. Lý thuyết cân đối
Khi tỷ số nợ gia tăng làm phát sinh một loại chi phí , gọi là chi phí
khốn khó tài chính, làm giảm đi sự gia tăng giá trị công ty có vay nợ. Đến một
thời điểm nào đó của tỷ số vay nợ, chi phí khốn khó tài chính sẽ vượt qua lợi
ích của lá chắn thuế, khi ấy giá trị công ty có vay nợ bắt đầu giảm dần. Lý
luận tương tự, chi phí sử dụng vốn trung bình của công ty bắt đầu tăng lên.
Theo Jensen và Meckling (1976), cơ cấu vốn tối ưu được xác định tại
điểm mà khoản lợi từ thuế có được do tài trợ nợ cân bằng với chi phí do tài
trợ bằng nợ. Giá trị doanh nghiệp lúc này là:



VL = VU + T.D - Chi phí khốn khó tài chính
Cơ cấu vốn tối ưu trong trường hợp này là cơ cấu vốn gồm một phần
nợ và một phần vốn chủ sở hữu, khi lợi ích từ một đồng nợ tăng thêm vừa đủ
để bù trừ sự gia tăng của chi phí khốn khó tài chính dự tính.
c. Lý thuyết chi phí đại diện
Lý thuyết này cho rằng, hoạt động tài chính của doanh nghiệp liên quan
đến giới hữu quan khác nhau. Chủ yếu là cổ đông, nhà quản lý và các trung
gian tài chính. Giữa họ có sự khác nhau về lợi ích và cách tiếp cận nợ. Vì thế,
có thể xuất hiện các mâu thuẫn và để giải quyết các mâu thuẫn này sẽ xuất
hiện chi phí đại diện.
VL = VU + T.D - Các chi phí phát sinh liên quan
Các chi phí liên quan bao gồm chi phí khốn khó tài chính và chi phí đại diện
Trong thực tế, công ty khó có thể xác định được một cơ cấu vốn tối ưu
một cách chính xác. Công ty cần dựa trên nguyên tắc đánh đổi rủi ro và tỷ
suất sinh lời trong điều kiện, hoàn cảnh kinh doanh cụ thể để xác định cơ cấu
vốn mục tiêu của công ty. Cơ cấu vốn mục tiêu có thể thay đổi qua thời gian,
khi các điều kiện, hoàn cảnh kinh doanh có sự thay đổi đáng kể. Tuy vậy,
công ty cần phải luôn có cơ cấu vốn mục tiêu nhất định và việc huy động phải
luôn hướng tới cơ cấu này.
1.3.3. Các yếu tố chủ yếu cần cân nhắc trong việc hoạch định cơ cấu vốn
mục tiêu
Việc hoạch định xác định cơ cấu vốn mục tiêu là vấn đề khó khăn, phức
tạp, đòi hỏi phải xem xét nhiều yếu tố, trong đó cần chú ý các yếu tố sau:
- Sự ổn định doanh thu
Công ty có doanh thu tương đối ổn định thì có thể sử dụng nợ vay
nhiều hơn
- Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh



Những công ty có chu kỳ sản xuất dài, vòng quay vốn chậm thì cơ cấu
vốn sẽ nghiêng về vốn chủ sở hữu. Ngược lại, những công ty thuộc những ngành
có mức cầu về sản phẩm ít biến động, vòng quay vốn nhanh thì thường sử dụng
nhiều nợ vay hơn. Các công ty có tài sản dễ dàng được dùng làm tài sản thế chấp
cho các khoản vay sẽ có xu hướng sử dụng đòn bẩy tài chính cao hơn.
- Đòn bẩy hoạt động
Nhìn chung các công ty có đòn bẩy kinh doanh thấp thì cho phép công
ty sử dụng nhiều nợ hơn.
- Tốc độ tăng trưởng
Các công ty đang tăng trưởng nhanh nhìn chung có nhu cầu vốn bên
ngoài lớn. Do vậy, những công ty này có xu hướng sử dụng nhiều nợ hơn.
- Khả năng sinh lời
Những công ty có khả năng sinh lời cao thì có khả năng huy động sử
dụng được nhiều vốn vay. Tuy nhiên, công ty có khả năng sinh lời cao có thể
đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn bằng lợi nhuận để lại tái đầu tư.
- Thuế thu nhập
Chi phí lãi vay được tính khấu trừ vào thu nhập chịu thuế, trong khi cổ
tức lại không. Nhân tố này đã ủng hộ cho việc sử dụng nợ hơn là sử dụng cổ
phiếu thường.


×