Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Chuyên đề hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.34 KB, 19 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI TIỂU LUẬN
LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ
Chuyên đề: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Thực trạng và giải pháp

Họ và tên:
Sinh ngày

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 01 năm 2012

1


Mục lục
Lời mở đầu

3

I. Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư

4

1.

4

Sự hình thành và phát triển của trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam



2. Vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý

9

3. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư

11

II. Phương hướng - giải pháp cho hoạt động trợ giúp
pháp lý của luật sư

14

Lời kết

16

Tài liệu tham khảo

17

Lời mở đầu
Trợ giúp pháp lý là chức năng quan trọng trong hệ thống tư pháp
của mọi quốc gia, đặc biệt là đối với những đối tượng nghèo khổ và
nhóm thiệt thòi trong xã hội không có khả năng thuê luật sư bào chữa
2


hoặc trả tiền cho tư vấn và đại diện. Điều kiện để công dân có thể tiếp

cận công lý là họ cần phải có năng lực cá nhân nhất định (hiểu biết và
năng lực dân sự), tài chính và điều kiện sống….. do vậy trợ giúp pháp lý
đã chứng minh là một công cự quan trọng để đảm bảo người nghèo, đối
tượng yếu thế khác có thể tiếp cận công lý. Nhìn thấy đuợc vai trò quan
trọng của trợ giúp pháp lý Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực thành lập hệ
thống trợ giúp pháp lý trong toàn quốc vào 1997, đây là cột mốc quan
trọng và rõ nét trong hệ thống tư pháp của Việt Nam, đồng thời thể hiện
sự chăm lo quan tâm của Đảng và Nhà Nước đến các đối tượng nghèo và
thiệt thòi trong xã hội. Cho đến nay, hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt nam
đã phát triển và trở thành một trong những bộ phận quan trọng của đời
sống pháp lý và mục đích của nó là hỗ trợ người dân tiếp cận công lý.
Trãi qua một thời gian dài đi vào đời sống người dân trợ giúp pháp lý đã
được định hình và hoàn thiện thông qua Luật trợ giúp pháp lý được ban
hành ngày 29 tháng 06 năm 2006 và có hiệu lực ngày 1 tháng 01 năm
2007 nhằm khẳng định vị trí và vai trò của mình trong hệ thống tư pháp,
tạo cơ sở pháp lý cho sự pháp triển bền vững của cả hệ thống trợ giúp
pháp lý. Nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ
giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết
pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật trong mọi người dân,
luật trợ giúp pháp lý ra đời đã góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, bảo vệ công lý, đảm bảo công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế
tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Thể hiện rõ nét một trong những quyền cơ bản của các đối tượng
được trợ giúp pháp lý là quyền lựa chọn người thực hiện trợ giúp như:
Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư, Tư vấn viên pháp luật. Điều này thể hiện
sự pháp triển vượt bậc của trợ giúp pháp lý nhằm cố gắng đạt tới chất
3


lượng dịch vụ tốt nhất tạo niềm tin tuyệt đối từ các đối tượng được trợ

giúp pháp lý. Đặc biệt, hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư được đào
tạo và có kỹ năng là yếu tố cần thiết và trở thành một phần quan trọng
trong hệ thống tư pháp. Nhà nước khuyến khích luật sư tham gia hoạt
động trợ giúp pháp lý miễn phí. Để hiểu rõ hơn hoạt động trợ giúp pháp
lý của Luật sư Việt Nam đối với các đối tượng được huởng trợ giúp pháp
lý trong xã hội đạt được thành tựu như thế nào và ra sao? chúng ta cùng
nhau tìm hiểu thực trạng của hoạt động này.
I. HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
1. Sự hình thành và pháp triển của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Theo nghĩa rộng, nói đến nghề luật là nói đến công việc chuyên môn
của những người hoạt động liên quan đến pháp luật như: Thẩm phán,
kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư, chấp hành viên, giám định viên, công
an….hay những nghề liên quan đến luật như công chứng viên, chuyên
viên pháp lý, giảng viên dạy luật……Hiểu theo nghĩa này, chúng ta dễ
thấy rằng nghề luật thật đa dạng, phong phú. Cụ thể hơn ở nghĩa hẹp, khi
đề cập đến nghề luật là chúng ta liên tưởng đến nghề luật sư. Nghề luật
sư là nghề luật tiêu biểu, thể hiện đầy đủ những đặc trưng của nghề luật.
Nghề luật sư có những khác biệt với những nghề liên quan đến pháp luật
nêu trên không chỉ ở chức năng, theo sự phân công của xã hội, mà còn ở
chổ nó được thể hiện qua các phương thức hành nghề một cách tự do, độc
lập trên cơ sở pháp luật và tuân theo pháp luật. Nghề luật sư không giống
như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức
và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về nghề luật sư còn phải tuân thủ
theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, đây là một nét đặc thù riêng
của nghề luật sư. Một trong những đức tính thể hiện đạo đức trong hoạt
4


đồng nghề nghiệp của luật sư là tính trợ giúp. Do sự phát triển không
đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần trong cộng đồng xã hội,

bất kỳ xã hội nào trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi
vào vị thế thấp kém so với mặt bằng chung của xã hội như: người nghèo,
người già đơn côi, người tàn tật, người chưa thành niên… thiếu sự quan
tâm chăm sóc, thương yêu của gia đình và xã hội, họ dường như bị lãng
quên trong cộng đồng xã hội, kém hiểu biết về pháp luật, do vậy họ
thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật, nhóm người này rất
cần sự giúp đở, bênh vực của những khác, đặc biệt là cần sự trợ giúp vô
tư không vụ lợi của những người có kiến thức, hiểu biết sâu rộng về pháp
luật, có trình độ chuyên môn về luật như luật sư để bênh vực và bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho họ. Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận, trách nhiệm mà còn
là thước đo lòng nhân ái, đạo đức thể hiện tính nhân văn của luật sư.
So với nền tư pháp nhân dân của chế độ mới với một bề dày lịch sử,
gắn liền với sự ra đời, hình thành và phát triển của nhà nước kiểu mới –
nhà nước dân chủ nhân dân thì hoạt động trợ giúp pháp lý ra đời muộn
hơn và cũng còn mới mẻ ở Việt Nam so với các hoạt động tư pháp khác.
Hoạt động này chỉ mới ra đời vào 1997 dựa trên nền tảng những thành
tựu phát triển vượt bậc trong công cuộc đổi mới, sự kiểm nghiệm thành
công cùng những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa và sự pháp
triển của dịch vụ pháp lý nói chung và đặc biệt là nghề luật sư ở Việt
Nam nói riêng. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
5


cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xã hội phát triển, phồn vinh cần phải
được quản lý và đảm bảo bằng pháp luật. Nhà nước thực hiện công cuộc
cải cách tư pháp vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân

chủ văn minh thì vấn đề hiểu biết và nhận thức pháp luật của mỗi người
dân cũng như toàn xã hội là một yêu cầu tất yếu. Trong công cuộc này thì
công tác trợ giúp pháp lý đóng vai trò rất quan trọng do nhu cầu giúp đỡ
pháp luật của nhân dân ngày một càng cao.
Năm 1982, Việt Nam tham gia hai Công ước lớn: Công ước về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; và Công ước về các quyền dân sự và
chính trị. Theo phần d, điểm 3, Điều 14 Công ước về quyền dân sự và
chính trị, quá trình xét xử một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi
hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu là “ được có
mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý
do mình chọn, nếu chưa có sự giúp đỡ về pháp lý thì phải được thông báo
về quyền này, trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí
cho người đó một sự giúp đỡ pháp lý mà người đó không phải trả tiền
nếu không có đủ điều kiện trả”. Việc tham gia các Công ước này đòi hỏi
Nhà nước ta phải đổi mới tư duy về quyền được tiếp cận luật sư, người
có kiến thức pháp luật của mọi công dân không phân biệt giàu nghèo, tạo
tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định tư pháp bảo trợ với
nội dung và phương thức mới, không chỉ dừng lại ở bảo đảm quyền bào
chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật của công
dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt nhằm đảm bảo công bằng
xã hội.
Ngày 18 tháng 12 năm 1987, Pháp lệnh tổ chức luật sư ra đời, tạo cơ
sở cho việc hình thành và phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam. Theo Pháp
lệnh, luật sư thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác có
6


giảm chi phí hoặc miễn thù lao cho một số đối tượng trong những trường
hợp cụ thể. Thể chế Pháp lệnh năm 1987, Quy chế Đoàn luật sư ban hành
kèm theo Nghị định số 15-HĐBT ngày 21 tháng 02 năm 1989 của Hội

đồng Bộ trưởng đã xác định rõ các trường hợp được miễn, giảm thù lao
như: nguyên đơn ở Tòa án các cấp trong các vụ việc về đòi tiền cấp
dưỡng nuôi con; khiếu nại về việc bầu cử Hội đồng nhân dân; thương
binh nặng; đòi bội thường thiệt hại do tai nạn lao động……..Ngòai ra,
những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hoặc trường hợp đặc biệt
khác và đương sự có đơn yêu cầu thì Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư sẽ xem
xét việc miễn hoặc giảm chi phí.
Trước bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới, việc mở rộng quan hệ đầu tư, hợp tác với các nước ngày
càng đòi hỏi phải phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của luật sư. Yêu
cầu đó đặt ra vấn đề cần tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho
hoạt động của các tổ chức luật sư nước ngoài vào hành nghề tại Việt
Nam nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại
trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trước yêu cầu đó, ngày 18 tháng 05 năm
1995, tại phiên họp Ban bí thư Trung ương Đảng, nguyên Tổng bí thư Đỗ
Mười khẳng định “ Chúng ta cần chú ý đến các biện pháp để tăng cường
hoạt động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng
cũng cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân,
mà đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công tác này
chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu
và làm ngay trong thời gian tới”.
Ngày 06 tháng 09 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 734/TTg thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý của
7


Nhà nước. Theo đó, Trương ương, Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư
pháp được thành lập – căn cứ vào Điều 1, ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước trực thuộc
Sở Tư pháp được thành lập – căn cứ vào Điều 4. Cục Trợ giúp pháp lý

vừa có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ tư pháp quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý, vừa trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp
cần thiết; thực hiện việc hợp tác quốc tế về trợ pháp lý và quản lý Quỹ trợ
giúp pháp lý; tổ chức bồi dưỡng, đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ
năng trợ giúp pháp lý cho đội ngữ cán bộ trợ giúp pháp lý và cộng tác
viên; tham gia phổ biến và giáo dục pháp luật cho người nghèo và đối
tượng chính sách - căn cứ vào Điều 2. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà
nước có chức năng thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo
và các đối tượng chính sách.
Năm 2001, Pháp lệnh Luật sư được thông quan, Pháp lệnh đã thiết
lập cơ chế pháp lý khuyến khích, huy động đội ngũ luật sư tham gia trợ
giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách – căn cứ
Điều 6. Ngày 05 tháng 08 năm 2002, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
Quy tắc mẫu về đạo đức hành nghề luật sư kèm theo Quyết định số
356/2002/QĐ-BTP. Theo quy chế việc thực hiện trợ giúp pháp lý là
nghĩa vụ cao cả của các luật sư. Khi thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư
phải tận tâm, tích cực thực hiện như đối với các vụ việc có thù lao và
nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý là một trong những quy tắc đạo đức
nghề nghiệp mà luật sư phải tuân thủ trong quá trình hành nghề của mình
– căn cứ Quy tắc 4.
Như phần đầu bài viết đã đề cập, để mọi người sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, xây dựng một xã hội văn minh thì việc hiểu
8


và nhận thức pháp luật cho mọi người và toàn xã hội là một yêu cầu tất
yếu. Việc trợ giúp pháp lý mới chỉ dừng lại ở một nhóm đối tượng đặc
biệt nhất định đó là chủ yếu những người nghèo, đối tượng chính sách, ít
được tiếp xúc công tác pháp lý lại chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự thiếu
hiểu biết pháp luật, dễ bị thiệt thòi, bởi vậy càng phải nâng cao vai trò

của các tổ chức, đoàn thể xã hội trong việc huy động, tạo điều kiện
khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia trợ giúp pháp lý giúp họ tiếp
cận và nhận thức về pháp luật.
Để đáp ứng yêu cầu tư vấn pháp luật và giúp đỡ về mặt pháp lý cho
mọi đối tượng, Luật Luật sư ra đời đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ
9 thông qua ngày 29 tháng 06 năm 2006. Nhận thức được đối tượng chủ
yếu là người nghèo, đối tượng chính sách, cần được trợ giúp về nhiều
mặt trong đó có vấn đề cần trợ giúp về mặt nhận thức pháp lý, cũng tại
kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI, thông qua Luật Trợ giúp pháp lý ngày
29 tháng 06 năm 2006. Đây là văn bản pháp lý cao nhất, được thể chế
hóa thành luật và quy định đối tượng đặc thù cần trợ giúp về mặt pháp lý.
Thể hiện sự nhận thức đúng đắn, sự quan tâm hợp lý của Đảng và Nhà
nước về công tác trợ giúp pháp lý cho một nhóm đối tượng cụ thể, đánh
dấu bước chuyển về chất và đưa công tác trợ giúp pháp lý lên một tầm
cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước.
2. Vai trị của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý
Tham gia trợ giúp pháp lý là bổ phận, trách nhiệm với xã hội, là
đóng góp rất có ý nghĩa, rất nhân văn của Luật sư
Theo Điều 6 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 về khuyến khích hoạt
động trợ giúp pháp lý quy định “ Nhà nước và xã hội khuyến khích các
luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp
9


lý miễn phí cho người nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi
theo quy định của pháp luật”.
Tại Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định “ Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý; khuyến khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên, tổ chức hành nghề luật sư và Luật sư, cơ quan,

tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động
trợ giúp pháp lý”.
Tại Điều 8 Luật Luật sư năm 2006 quy định “ Nhà nước khuyến
khích luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp
pháp lý miễn phí”; quy tắc mẫu đạo đức hành nghề Luật sư do Bộ Tư
pháp ban hành cũng quy định “ Thực hiện trợ giúp miễn phí cho người
nghèo và các đối tượng chính sách là nghĩa vụ cao cả của luật sư. Khi
làm trợ giúp phải tận tâm đối với công việc và không đuợc đòi hỏi bất
kỳ lợi ích nào từ người mình có trách nhiệm trợ giúp”.
Các quy định trên là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc hiến định
của nước ta, đó là: Nhà nước và xã hội bảo đảm cho các đối tượng có
khó khăn về kinh tế, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, đối
tượng được Nhà nước quan tâm bảo vệ, nhằm giúp cho họ được bảo
đảm các quyền tối thiểu về xã hội, được giảm bớt phần nào khó khăn,
thua thiệt cho họ.
Quy định luật sư có nghĩa vụ tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý
miễn phí là hoàn toàn đúng đắn vì luật sư là người có chức năng và
nghiệp vụ tham gia các hoạt động tố tụng, tư vấn pháp luật và dịch vụ
pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, và luật sư –
bằng hoạt động nghề nghiệp của mình, góp phần bảo vệ công lý, công
bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
10


Qua thực tiễn cho thấy luật sư có vai trò quan trọng trong hoạt động
trợ giúp pháp lý, những đối tượng chính sách có thể nhờ luật sư thực hiện
các hình thức trợ giúp từ đơn giản đến phức tạp và rất phong phú như:
- Tư vấn, giải đáp pháp luật
- Đại diện để giải quyết các vụ kiện tụng tại tòa án
- Thực hiện bào chữa trong các vụ án hình sự

- Tham gia phiên tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong các vụ án hôn nhân và gia đình, dân sự, lao động.
Tuy tác nghiệp về chuyên môn nghiệp vụ trong các vụ việc giúp đỡ
cho các đối tượng chính sách, người nghèo cũng giống như đối với các
khách hàng có thù lao, nhưng trong các hoạt động trợ giúp pháp lý cũng
có những điểm khác, đòi hỏi luật sư phải có kỹ năng và chuyên môn đặc
biệt cụ thể. Đặc biệt, trong hoạt động trợ giúp trong tố tụng với các chủ
thể là đối tượng đặc biệt như:
Phụ nữ: thường là nạn nhân của bạo lực gia đình, cô đơn, góa bụa,
bị ruồng bỏ, không có điều kiện kinh tế, yếu thế. Do vậy việc tìm hiểu
hoàn cảnh và các tình tiết éo le trước khi nghiên cứu hồ sơ và tham gia
phiên tòa là rất cần.
Trẻ em: thường là nạn nhân của sự bóc lộc sức lao động, việc sử
dụng lao động trái quy định pháp luật về lao động, là nạn nhân của sự
ngược đãi, đánh đập, bị bỏ mặc, không quan tâm, giáo dục của gia đình,
do đó bị đẩy vào con đường phạm tội.
Người già và người tàn tật: Cần phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình,
con cái của họ, và cuộc sống hiện tại của họ để có thể tìm ra biện pháp
bảo đảm quyền lợi cho họ.
11


Thanh thiếu niên: đây là loại người dễ bị kích động do bị lôi kéo bởi
những phần tử xấu trong xã hội dẫn đến phạm tội. Để công tác bào chữa
có hiệu quả, cần phải nghiên cứu hoàn cảnh phạm tội, chỉ ra cho họ thấy
con đường sai lầm mà họ đã phạm vào và hướng sửa chữa thành người
công dân có ích cho xã hội.
3. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư
Luật trợ giúp pháp lý và Luật Luật sư cùng chính thức có hiệu lực
thi hành bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Với hai đạo luật cơ bản

này, một hành lang pháp lý đã được hình thành tương đối đầy đủ, tạo cơ
sở cho hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển cũng như góp phần giải
quyết những trở ngại trong công tác tìm kiếm các cộng tác viên trợ giúp
pháp lý miễn phí tại các trung tâm và các chi nhánh hoạt động trợ giúp.
Bước đầu đã có một số luật sư tích cực tự nguyện tham gia công tác này,
tuy nhiên chỉ chiếm con số rất ít, khoảng 6% trong tổng số luật sư hành
nghề trong cả nước.
Trong Luật trợ giúp pháp lý, các đối tượng như người nghèo, người
có công Cách mạng, người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi
nương tựa, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế
– xã hội đặc biệt khó khăn….sẽ được cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý
miễn phí. Thông qua trợ giúp pháp lý, người dân sẽ có điều kiện nâng
cao sự hiểu biết về pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật.
Đồng thời góp phần vào việc phổ biến giáo dục pháp luật, bảo vệ công
lý, đảm bảo công bằng xã hội, ngăn ngừa, hạn chế các tranh chấp và vi
phạm pháp luật. Trong Luật Luật sư quy định: “Nhà nước khuyến khích
12


luật sư và tổ chức hành nghề luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý
miễn phí”. Đồng thời yêu cầu: Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý miễn
phí theo Điều lệ của tổ chức luật sư toàn quốc và khi thực hiện trợ giúp
pháp lý miễn phí, luật sư phải tận tâm với người được trợ giúp pháp lý
như đối với khách hàng trong những vụ, việc có thù lao (Điều 31 – Luật
Luật sư nằm 2006). Nhưng trên thực tế còn nhiều hạn chế và việc thực thi
không hoàn tòan được như vậy.
Nhiều luật sư không mặn mà đối với hoạt động trợ giúp pháp lý
mặc dù luật sư đã được tạo điều kiện như: Sở Tư pháp – Công an – Viện
kiểm sát nhân dân – Tòa án nhân dân thành phố đã ban hành Quy chế liên
ngành số 58/QCLN/TP-CA-VKS-TA ngày 10 tháng 06 năm 2006 về hoạt

động trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự. Trong đó tháo gỡ khá nhiều
vướng mắc đối với hoạt động của luật sư khi tham gia bào chữa tại các
vụ án hình sự. Cụ thể, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ giảm bớt các thủ tục
hành chính không cần thiết, tạo điều kiện cho luật sư do trung tâm giới
thiệu trong việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa, nghiên cứu hồ sơ,
tiếp xúc với các đối tượng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ khác theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, còn thực hiện xác
nhận cho luật sư về thời gian nghiên cứu hồ sơ, thời gian tiếp xúc đối
tượng tại nơi tạm giam, tạm giữ. Mặt khác, đối với những người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo mà trong hồ sơ vụ án thể hiện là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì các cơ quan tiến
hành tố tụng thông báo bằng văn bản cho trung tâm mà không cần đơn
của đối tượng….Mặt khác, mỗi năm các luật sư phải thực hiện một số vụ
trợ giúp pháp lý miễn phí nhất định. Đây được coi là việc các luật sư thực
hiện trách nhiệm đối với xã hội. Tuy nhiên vì kinh phí còn hạn chế nên
13


các luật sư cũng không hào hứng với hoạt động này. Vậy nguyên nhân
thực trạng trên là do đâu?
Về khách quan, mặc dù hoạt động trợ giúp pháp lý đã bắt đầu tiến
hành nhưng theo điều tra chỉ có 6% số dân biết về hoạt động này mặc dù
nhu cầu trợ giúp pháp lý của nhân dân rất lớn và trên thực tế công tác này
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của đông đảo quần chúng. Số lượng cán
bộ pháp lý, Cộng tác viên thời gian tại các Trung tâm Trợ giúp pháp lý
của Nhà nước chưa nhiều. Công tác trợ giúp pháp lý lưu động đến vùng
sâu vùng xa, đồng bào dân tộc, hàng năm đã triển khai nhưng cũng có
những hạn chế nhất định, đội ngũ luật sư hiện nay đã phát triển nhanh
chóng về số lượng và chất lượng, tuy nhiên so với nhu cầu về dịch vụ
pháp lý và xu thế gia tăng của nhu cầu này trong những năm tới thì số

lượng luật sư ở nước ta còn chưa tương xứng. Nếu so sánh số lượng luật
sư trên số dân với một số nước trong khu vực và trên thế giới thì thấy rõ
tỉ lệ này ở nước ta còn quá thấp (tỉ lệ số luật sư trên dân số ở Việt Nam
là 1/14.500, ở Singapore là 1/1.000, ở Thái Lan là 1/1.200, ở Nhật Bản là
1/4.500, ở Mỹ là 1/250…). Thậm chí, một số tỉnh chưa có đủ luật sư để
thành lập Đoàn luật sư.
Số lượng luật sư ở nước ta phát triển quá chênh lệch giữa khu vực
thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du, hạn chế
khả năng cung ứng dịch vụ pháp lý, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, các
đối tượng muốn được trợ giúp pháp lý. Ở các tỉnh nhỏ, đặc biệt là miền
núi, rất thiếu luật sư. Một trong các lý do thiếu luật sư nữa là quyền và
nghĩa vụ của luật sư chưa được pháp luật bảo đảm và quy định rõ, cũng
như vị thế còn quá yếu trong tố tụng. Điều này ít nhiều cũng không
khuyến khích các cử nhân luật trẻ trở thành luật sư.
14


Trong Luật Luật sư quy định, mỗi luật sự phải thực hiện 80 giờ làm
công tác trợ giúp pháp lý miễn phí trong một năm. Ngoài ra cũng khuyến
khích luật sư có thể làm thêm. Trợ giúp pháp lý chủ yếu là trên cơ sở tự
nguyện. Nếu so sánh thù lao với việc bảo vệ quyền lợi, bào chữa theo tố
tụng trả phí của Luật Luật sư thì luật sư giỏi tham gia trợ giúp pháp lý
miễn phí là rất khó vì luật sư tham gia trợ giúp pháp lý miễn phí là thể
hiện sự tự nguyện của họ. Trong khi đó, thu nhập thự tế của các luật sư
khi thực hiện các dịch vụ pháp lý có thù lao cao hơn rất nhiều.
Chính những vấn đề về pháp lý, đạo lý và thực tiễn đó đã tạo nên
rào cản vô hình ngăn luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư không tham
gia trợ giúp pháp lý. Nhưng thực chất, cốt lõi của vấn đề chính là sự nhiệt
tình, tự nguyện, tích cực của bản thân mỗi luật sư trong công việc này.
II. PHƯƠNG HƯỚNG – GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG TRỢ

GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hòa
mình vào dòng chảy toàn cầu hóa, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp
luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để
tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả
hoạt động của đội ngũ luật sư. Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
đặt ra yêu cầu cấp bách là đất nước cần có một đội ngũ luật sư có tài năng
và có đạo đức nghề nghiệp. Người luật sư tham gia trợ giúp pháp lý phải
có tâm, có tầm, có nghị lực, có sức khỏe cộng với sự cảm thông, chia sẻ
với những đối tượng kém may mắn, người nghèo, người khuyết tật, trẻ
em…. Bên cạnh đó còn đòi hỏi người luật sư phải có tính kiên trì, nhẫn
nại, chịu khó, biết lắng nghe, hiểu tâm lý từng nhóm người vì việc tiếp
15


cận với người yếu thế đôi khi khó khăn, trở ngại trong việc đi lại do họ ở
vùng sâu, vùng xa, với rào cản về tiếng nói, nhận thức, tâm lý và sự kỳ
thị. Lĩnh vực trợ giúp pháp lý mang tính đặc thù bởi đối tượng trợ giúp
pháp lý được quy định tại Điều 10 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006. Dưới
góc độ nào đó, người luật sư tham gia trợ giúp pháp lý là người đi làm
phúc, là những người có nghĩa hiệp. Hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí
của luật sư thể hiện được vai trị x hội của mỗi luật sư và giới luật sư với
cộng đồng x hội, thể hiện trch nhiệm x hội của giới luật sư trong việc
quan tâm tới những vấn đề x hội. Biết chia sẻ, biết đùm bọc, thương yêu,
đoàn kết, kế thừa phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc bằng
tấm lịng v khả năng vốn có của mình.
Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 quy định “ Nhà nước giữ vai trò
nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, khuyến
khích, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên, tổ chức hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý”. Tuy
nhiên, hiện tại pháp luật lại không quy định bắt buộc luật sư phải tham
gia trợ giúp pháp lý, hình thức tham gia như thế nào, nội dung tham gia
ra sao, thời gian tham gia đến đâu, không có quy định rõ, cụ thể mà chỉ
mang tính khuyến khích, động viên nên tham gia trợ giúp pháp lý là tùy
theo khả năng, trách nhiệm với xã hội của từng luật sư. Do đó, sự hoàn
thiện của hệ thống pháp luật về trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động
trợ giúp pháp lý của luật sư nói riêng là rất cần thiết. Cần một chiến lược
cụ thể thực sự cho hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Đồng thời các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, các tổ chức
đoàn thể cần chủ động trong công tác trợ giúp pháp lý. Thường xuyên tổ
16


chức các buổi trợ giúp pháp lý lưu động đến với bà con nơi khó khăn cần
trợ giúp. Duy trì các chương trình phát sóng trên truyền hình về tuyên
truyền pháp luật đến với mọi công dân qua các tiểu phẩm, các cuộc thi
tìm hiểu kiến thức về pháp luật thật sự thiết thực và bổ ích giúp dễ đi vào
lòng người dân.
Lời Kết
Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam là một lĩnh vực hoạt động rộng có liên
quan trực tiếp đến tiến trình phát triển, dân chủ hóa xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, thực hiện công lý và công bằng xã hội,
là yếu tố cấu thành nhà nước pháp quyền, và sứ mệnh của luật sư là góp
phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Như vậy, hoạt động của luật sư
có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp nói chung, cũng như hoạt
động trợ giúp pháp lý nói riêng. Hoạt động của luật sư sẽ là phương tiện
hữu hiệu giúp cho cá nhân, tổ chức, đặc biệt là những người nghèo,
những đối tượng chính sách bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Với vị trí và vai trò quan trọng, việc cũng cố, hoàn thiện pháp luật

về luật sư và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư hiện nay là rất cần
thiết. Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam cũng như hoạt động trợ giúp pháp lý
của luật sư rất cần một chiến lược thực thụ.
Luật sư là một nghề cao quý, đã đang và sẽ được xã hội tôn vinh, giới
luật sư Việt Nam đã có Liên đoàn Luật sư, các Đoàn luật sư tỉnh, thành
phố. Đó là điều kiện rất tốt để luật sư phát triển, đóng góp cho sự nghiệp
đổi mới đất nước, cho xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Luật sư càng
được trân trọng hơn khi họ không lấy lợi ích vật chất làm mục đích duy
nhất mà còn biết tích cực tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí.
Luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư khi tham gia trợ giúp pháp lý sẽ
17


có điều kiện, có cơ hội tiếp xúc với những người bất hạnh nhưng có nghị
lực vươn lên, tiếp cận với những người có hoàn cảnh khó khăn, nhưng vẫn
giữ cuộc sống trong sạch. Cũng chính từ đó sẽ mang lại cho luật sư sự tin
yêu cuộc sống, nghị lực để làm việc và cống hiến tốt hơn. Chúng ta hãy tin
rằng thời gian tới, công tác trợ giúp pháp lý sẽ có thêm nhiều cộng tác viên
là luật sư tham gia vào công tác trợ giúp pháp lý bằng cả nhiệt huyết, sự tự
nguyện, vô tư nhằm góp phần bảo vệ công lý và công bằng xã hội.

Tài liệu tham khảo
- Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam 2011;
- Luật Luật sư năm 2006;
- Luật trợ giúp pháp lý năm 2006;
- Pháp lệnh luật sư năm 2001;
- Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987;
- Sắc lệnh số 46/SL ngày 10 tháng 10 năm 1945;
- Quyết định số 734/TTg ngày 06 tháng 09 năm 1997;
- Các văn bản hướng dẫn khác;

- Nguồn thu thập từ báo chí và internet.

18


19



×