Tải bản đầy đủ (.pdf) (255 trang)

đọc hiểu văn bản ngữ văn 11 cả năm rất hay và đầy đủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.29 MB, 255 trang )

®äc  hiÓu v¨n b¶n
ng÷ v¨n 11


lời nói đầu
Theo Ch-ơng trình giáo dục học phổ thông (Ban hành kèm theo Quyết
định số 16/QĐBGD&ĐT ngày 05 5 2006 của Bộ tr-ởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo), môn Ngữ văn cấp Trung học phổ thông đ-ợc xây dựng và thực
hiện đổi mới ph-ơng pháp dạy học theo tinh thần tích hợp trong đó trọng
tâm của yêu cầu dạy học phần Văn là học sinh phải biết cách đọc hiểu văn

bản theo đặc tr-ng loại thể (bao gồm các trích đoạn hoặc tác phẩm văn học
trọn vẹn). Đây là yêu cầu lần đầu tiên đ-ợc gọi tên một cách chính thức trong
sách giáo khoa Ngữ văn, xác định những nội hàm cụ thể để học sinh thực
hiện một chuỗi thao tác chiếm lĩnh giá trị tác phẩm, h-ớng tới hiệu quả hành
dụng và kết nối kiến thức với các phần Tiếng Việt, Tập làm văn.
Nhằm cung cấp tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh trung học
phổ thông về lĩnh vực này, chúng tôi biên soạn bộ sách về đọc hiểu văn bản
(gồm ba cuốn, t-ơng ứng với sách giáo khoa Ngữ văn các lớp 10, 11, 12).
Theo đó, cuốn Đọc hiểu văn bản Ngữ văn 11 (bao gồm ch-ơng trình chuẩn
và nâng cao) nêu ra một số giải pháp đọc hiểu văn bản trong những bài cụ
thể, mỗi bài đ-ợc cấu tạo theo ba phần :
I Gợi dẫn
II Kiến thức cơ bản
III Liên hệ
Nội dung phần Gợi dẫn của mỗi bài học nhằm chuẩn bị tâm thế, cung cấp
một số kiến thức công cụ, có tính chất định h-ớng lợi cho việc chiếm lĩnh
mục tiêu của bài đọc hiểu : đó là các yếu tố đặc tr-ng thể loại, các thông tin
quan trọng về tác giả, tác phẩm, tóm tắt và xác định cách đọc, cách kể.
Nội dung phần Kiến thức cơ bản đ-ợc hình thành trên cơ sở lí giải những
ph-ơng diện kiến thức (theo thứ tự hoặc tổng hợp) từ các câu hỏi của sách


giáo khoa, đồng thời thể nghiệm một số cách thức tiếp cận văn bản.
2


Nội dung phần Liên hệ có kết cấu mở, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng :
có thể giới thiệu một văn bản t-ơng đ-ơng hoặc gần gũi với bài học để tạo
điều kiện cho ng-ời đọc so sánh kiến thức; có thể cung cấp một số nhận định
để tham khảo cho việc đánh giá về tác giả, tác phẩm; cũng có thể đ-a ra một
bài văn, bài thơ về tác giả, tác phẩm nhằm mở rộng tr-ờng liên t-ởng hoặc
tạo điều kiện cho ng-ời đọc nhìn nhận vấn đề từ nhiều ph-ơng diện.
*
*

*

Có thể nói : mục đích tìm hiểu và đặc tr-ng, tính chất của tthể loại sẽ quy
định ph-ơng thức đọc. Ph-ơng thức đọc hiểu văn bản Ngữ văn chắc chắn
không chỉ là điều quan tâm của một cá nhân. Rất mong các thầy, cô giáo và
các bạn học sinh trong quá trình sử dụng cuốn sách này góp cho những ý
kiến quý báu để chúng tôi có dịp bổ khuyết.
Xin chân thành cảm ơn.

3


Vào phủ chúa trịnh _________________________ Lê hữu trác
(Trích Th-ợng kinh kí sự)
I Gợi dẫn
1. Lê Hữu Trác (1724 1791) là ng-ời làng Liêu Xá, huyện Đ-ờng Hào, phủ
Th-ợng Hồng, trấn Hải D-ơng (nay thuộc huyện Yên Mĩ, H-ng Yên). Ông là danh y

lỗi lạc, nhà văn tài hoa, một nho sĩ coi th-ờng danh lợi. Khi xã hội rối ren, ng-ời
ng-ời đua chen danh lợi, ông đã lánh về quê mẹ là đất H-ơng Sơn, Hà Tĩnh để sống
cuộc đời ẩn sĩ thanh cao, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh. Vì vậy ông tự nhận mình là
Hải Th-ợng Lãn Ông (ông già l-ời đất Th-ợng Hồng). Với t- cách thầy thuốc, ông đã
để lại cho y học rất nhiều bài thuốc quý. Với t- cách nhà văn, ông đã đ-a thể kí trung
đại trở thành một thể văn xuôi tự sự nghệ thuật, với cái Tôi nghệ sĩ trữ tình và bản
lĩnh.
2. Kí là một thể văn xuôi tự sự khá phát triển từ thời kì văn học trung đại. Tác
phẩm kí th-ờng lấy chất liệu từ là sự thực cuộc sống. Ng-ời viết kí trung thành với sự
thật, khai thác sự thật theo quan điểm cá nhân. Kí có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự
thực lịch sử và cảm xúc của ng-ời viết. Một số tác phẩm kí tiêu biểu của văn học
trung đại : Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Th-ợng kinh kí sự (Hải
Th-ợng Lãn Ông Lê Hữu Trác), Vũ trung tuỳ bút (Phạm Đình Hổ), Công d- tiệp kí
(Vũ Ph-ơng Đề), Đại Việt sử kí toàn th- (Ngô Sĩ Liên), D- địa chí (Nguyễn Trãi),
Nam triều công nghiệp diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm), Nhị Thanh động kí sự (Ngô
Thời Sĩ)...
3. Th-ợng kinh kí sự là tập kí sự viết bằng chữ Hán của Lê Hữu Trác, ghi lại
chuyện tác giả lên kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm từ ngày
12 tháng Giêng năm Nhâm Dần (1782) đến ngày trở về H-ơng Sơn mùng 2 tháng 11
năm đó.
Tác giả đang sống cuộc sống ẩn dật ở quê mẹ (H-ơng Sơn, Hà Tĩnh) thì bỗng có
chỉ triệu ra kinh chữa bệnh cho cha con Trịnh Sâm. Tác giả miễn c-ỡng lên kinh. Ông
đã ghi lại cảnh sắc thiên nhiên đất n-ớc và cả những tâm sự của bản thân trên đ-ờng
đi. Đến kinh, vào khám bệnh, tác giả đã ghi lại tỉ mỉ quang cảnh kinh đô và cảnh
trong phủ chúa. Ông cũng ghi lại những cuộc gặp gỡ giao du của mình với công

4


khanh nho sĩ chốn kinh thành. ở kinh đô, ông luôn th-ơng nhớ và mong trở về quê

h-ơng. Cuối cùng, ông lên đ-ờng trở về quê nhà với tâm trạng hân hoan, ung dung.
Về đến nhà đ-ợc vài ngày, ông nhận đ-ợc tin phủ chúa đã bị kiêu binh nổi loạn tràn
vào phá phách, quan Chánh đ-ờng Hoàng Đình Bảo oai phong là thế đã bị kiêu binh
giết chết.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại chi tiết việc tác giả vào phủ và khám bệnh
cho thế tử ngày 1 tháng 2 năm 1782.
4. Đọc phần văn bằng giọng trần thuật. Phần bài thơ đọc chậm, nhấn giọng ngân
nga.
II Kiến thức cơ bản
Cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, các vua Lê mải ăn chơi h-ởng thụ, tinh thần
bạc nh-ợc, không đủ sức lo việc đất n-ớc. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực,
nạn quan tham nổi lên khắp nơi. Họ Trịnh đã nổi lên lấn át vua Lê, biến vua Lê thành
bù nhìn. Bên cạnh triều đình bù nhìn của nhà Lê là phủ chúa đầy uy quyền. Cung vua
phủ chúa đã song hành tồn tại. Kinh thành một lúc tồn tại hai hoàng cung. Quyền lực
của chúa Trịnh lấn át vua Lê. Đất n-ớc luôn đứng tr-ớc nguy cơ nội chiến. Nhân dân
một lúc còng l-ng cung tiến phục dịch hai triều đình. Hiện thực rối ren và suy đồi
luân lí ấy đã khiến nhiều nhà nho biết suy nghĩ, có tự trọng rút lui vào ở ẩn. Họ tìm
đến chốn thâm sơn cùng cốc, chốn nhà quê thanh tịnh để sống cuộc sống ẩn dật, lánh
đời. Nh-ng dù ở đâu những nho sĩ đầy lòng tự trọng ấy vẫn không gạt bỏ mọi nỗi đời,
họ vẫn luôn h-ớng lòng mình và căng tai mình để nghe những âm thanh vang vọng
của cuộc sống lầm than của ng-ời lao động. Và họ đã gửi gắm tâm sự trong những
dòng thơ, những trang văn đầy trăn trở. Đó là một trong những lí do làm cho văn học
Việt Nam giai đoạn này phát triển rực rỡ với sự ra đời của nhiều tác phẩm văn học có
giá trị nghệ thuật cao và chứa đầy giá trị nhân văn.
Hải Th-ợng Lãn ông Lê Hữu Trác là một trong những nhà nho nặng lòng với đất
n-ớc. Ông đã luôn cố gắng vận hết sức mình để giúp đời. Ông học võ, luyện văn rồi
lại dồn tâm huyết cho nghề thuốc. Sự cố gắng ấy của ông đã để lại cho đời những sản
phẩm thật đáng trân trọng. Đó là những bài thuốc hay, những trang văn luôn căng đầy
nhiệt huyết và hơn hết đó là một nhân cách cao quý của một con ng-ời. Với tập kí
Th-ợng kinh kí sự, Lê Hữu Trác đã thể hiện tài năng của mình với nhiều t- cách : thầy

thuốc, nhà sử học và nhà văn. Với t- cách là nhà văn, ông đã đ-a thể văn xuôi tự sự
5


trung đại lên một tầm cao mới. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một đoạn trích đặc
sắc, tiêu biểu của tác phẩm. Nó cũng đã thể hiện khá đầy đủ những nét riêng trong
cách viết kí của Lê Hữu Trác.
Đoạn trích đã tái hiện chi tiết và cụ thể hành trình tác giả vào phủ chúa để khám
bệnh cho thế tử. Thế nh-ng nội dung kể chuyện không đơn giản là t-ờng thuật một
cuộc khám bệnh. ẩn đằng sau lời kể chuyện rất tự nhiên và có vẻ khách quan ấy là rất
nhiều điều mà ng-ời đọc có thể thu nhận và khám phá.
Thứ nhất, ng-ời đọc hình dung đ-ợc trình tự một cuộc bắt mạch và kê thuốc của
một thầy thuốc đối với một bệnh nhân đặc biệt, vị thế tử nhỏ tuổi của phủ chúa.
Thứ hai, ng-ời đọc hình dung đ-ợc một phủ chúa sang trọng, xa hoa và đầy uy
quyền. Đó không phải là một phủ chúa mà là một hoàng cung. Từ đó, ng-ời đọc phần
nào nhận ra đ-ợc bộ mặt xã hội phong kiến Việt Nam thời kì vua Lê chúa Trịnh.
Thứ ba, ng-ời đọc thấy đ-ợc một thầy thuốc, một ng-ời kể chuyện có một phong
thái rất ung dung mặc dù ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ đối thoại của ông rất khách
quan và đúng mực một kẻ bề tôi.
Tất cả những điều trên, có lẽ đều nhằm vào một mục đích duy nhất, mục đích cuối
cùng và mục đích nghệ thuật sâu xa của nhà văn : đó là thể hiện thái độ của mình đối
với triều đình phủ chúa.
Vốn con nhà quan lại nên cũng không mấy lạ lẫm với cảnh xa hoa của hoàng
cung, vậy mà khi đ-ợc triệu vào phủ chúa, tác giả đã không khỏi ngỡ ngàng tr-ớc
cảnh lộng lẫy nơi đây. Mặc dù bị mời đi vội vã, ngồi trên chiếc cáng chạy như ngựa
lồng, bị xóc một mẻ, khổ không nói hết nhưng bước chân vào phủ, ông vẫn có đủ
thời gian để quan sát, để ngạc nhiên.
Có bao nhiêu sự làm ông thầy thuốc ẩn sĩ vừa từ H-ơng Sơn ra kinh thành, dù
vốn con quan, sinh tr-ởng, chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã
từng biết vẫn phải ngạc nhiên. Cảnh thì đẹp như chốn đào nguyên, người đi lại

phục vụ nhà chúa đông nh- mắc cửi, vào đến chỗ ở của thế tử thì phải qua bao nhiêu
lần cửa. Nơi thế tử dùng trà (uống thuốc) cũng là gác tía với cột và đồ nghi trượng
đều sơn son thếp vàng. Phòng ở của thế tử thì ngào ngạt h-ơng hoa. Một cậu bé năm
sáu tuổi sống nh- bậc đế v-ơng. Trịnh Cán là con trai của Trịnh Sâm với Tuyên phi
Đặng Thị Huệ (ng-ời thiếp yêu của chúa Trịnh Sâm). Căn nguyên căn bệnh của thế tử
chính là sự quá xa hoa và thừa thãi.
Khung cảnh và cảnh sinh hoạt nơi phủ chúa qua miêu tả của tác giả đã chứng
6


minh một điều rằng, phủ chúa là một hoàng cung. Và vì thế, Trịnh Sâm mới chính là
một ông vua, còn vua Lê chỉ là bù nhìn. Tác giả cũng đã bộc lộ đánh giá này của
mình khi rất nhiều lần ông nhắc đến những từ thánh chỉ, thánh giá, thánh
thượng vốn chỉ đ-ợc dùng chỉ vua, kể cả việc miêu tả rất tỉ mỉ căn phòng của thế tử
và chiếc ghế đặt cạnh gi-ờng thế tử. Chúa Trịnh đã quá lộng hành, đã tự coi mình là
vua. Chỉ là kể, là tả thôi nh-ng tác giả đã thể hiện rất rõ thái độ, quan điểm của mình.
Cách kể chuyện nhẹ nhàng, thâm thuý, nghe nh- không mà gợi thật nhiều. Nhân vật
tôi đã quan sát và tả rất tỉ mỉ, từng đ-ờng đi lối lại, qua từng cánh cổng... Miêu tả
chi tiết sự thực là một đặc điểm nổi bật của thể kí, song kí của Lê Hữu Trác không
đơn giản chỉ là t-ờng thuật sự việc nh- nhiều tác phẩm kí trung đại khác. ở đây, tác
giả tả, kể, t-ờng thuật chi tiết và rất tự nhiên xen vào đó những lời bình luận nhẹ
nhàng mà sâu cay, như : Ông san mâm cơm cho tôi ăn. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn
toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia.
Nhìn bề ngoài, cách nói, cách tiếp đón, các nghi lễ, ng-ời hầu... có vẻ nh- chúa
Trịnh Sâm có một uy quyền thật lớn, phủ chúa thật mạnh, thật nghiêm trang. Thế
nh-ng, tất cả chỉ là một vở chèo hài h-ớc. Đã có rất nhiều cái chệch choạc, uể oải,
nhốn nháo và bệnh hoạn trong phủ chúa. Sự rệu rạo của nhà Trịnh thể hiện ở hình ảnh
bệnh hoạn của Đông cung thế tử, ng-ời đã đ-ợc chọn để nối ngôi chúa.
Qua đoạn trích, ng-ời đọc còn có thể hình dung đ-ợc một chân dung ng-ời thầy
thuốc khá chi tiết. Thầy thuốc này có vẻ không mấy mặn mà với công việc chữa bệnh

của mình. Ng-ời thầy thuốc ấy vào phủ chúa với vẻ miễn c-ỡng. Tr-ớc sự nghiêm
trang của phủ chúa, ông không có vẻ sợ sệt hay e ngại của một kẻ bề tôi. Ông thầy
thuốc ấy cứ dửng d-ng kể, dửng d-ng tả và thản nhiên bình luận. Uy quyền không
làm ông sợ nh-ng khiến ông trăn trở. Với cách tả cách kể ấy, có thể nhận ra thái độ
của tác giả đằng sau câu chuyện. Đó là thái độ châm biếm, phê phán nhà Chúa. Thành
công của đoạn trích phải kể đến giọng điệu kể chuyện rất kí sự của Lê Hữu Trác, đó
là sự xen kẽ rất tự nhiên của lời kể và lời bình. Thông th-ờng, kí là kết quả của sự kết
hợp giữa tả cảnh và thể hiện tâm t-. ở đây, tác giả chú ý nhiều đến tả cảnh, đến t-ờng
thuật sự việc. Nh-ng lại chính cách kể và cách tả ở đây lại nói lên tâm t- tình cảm,
thái độ của nhà văn. Với đoạn trích này và với Th-ợng kinh kí sự, Lê Hữu Trác đã đ-a
thể kí trung đại trở thành một thể văn xuôi tự sự nghệ thuật có sức hấp dẫn và rất cuốn
hút ng-ời đọc.
III liên hệ
7


Qua Th-ợng kinh kí sự, có thể thấy rõ tính cách của Lê Hữu Trác, một ng-ời coi
khinh bả danh lợi. Ông muốn làm việc gì có ý nghĩa và ông đã quyết tâm đi vào con
đường làm thuốc, chữa bệnh, quyết dựng lên một lá cờ đỏ trong y giới. Lê Hữu Trác
là một nhà y học nổi tiếng, qua Th-ợng kinh kí sự còn thấy ông là một nhà văn có tâm
hồn, giàu cảm xúc tr-ớc thiên nhiên tạo vật. Những bài thơ của ông viết về thiên
nhiên trong Th-ợng kinh kí sự hết sức trữ tình. Th-ợng kinh kí sự còn có giá trị đặc
biệt ở những trang miêu tả cuộc sống trong phủ chúa. Ngòi bút của tác giả kín đáo và
tinh tế. Ông có vẻ không phê phán một cái gì cả ; nh-ng những điều đ-ợc ông nói lên
một cách chính xác, tự nó lại có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Hình ảnh phủ chúa Trịnh
hiện lên trong tác phẩm của ông với những cung điện kiêu xa, cầu kì, với những con
ng-ời từ chúa Trịnh Sâm, ông quan đầu triều Hoàng Đình Bảo ( ? 1786) đến đám
công khanh quan lại tất cả nh- vô nghĩa, tật bệnh, không thấy một ng-ời nào có
năng lực, bản lĩnh. Họ đi đứng trịnh trọng, nói năng kiểu cách, làm thuốc, làm thơ cái
gì cũng có vẻ biết, nh-ng không biết cái gì đến nơi đến chốn. Cuối tác phẩm, tác giả

nói Trịnh Sâm chết vì mắc một trong tứ chứng nan y. Không khí phủ chúa vẫn cứ âm
u bằng lặng nh- thế, ch-a thấy mầm mống của những đổi thay. Cái bằng lặng ấy gây
cho ng-ời đọc cảm giác nặng nề, khó chịu, đến nỗi không chịu đựng đ-ợc mà muốn
thét to lên cho nó vỡ tan đi. Và với cái tin cả nhà quan Chánh đường bị hại, tác giả
viết như muốn tổng kết lịch sử : Than ôi ! giàu sang như đám mây bay. Đền vũ tạ,
thú ca lâu phút chốc thành nơi hoang phế. Th-ợng kinh kí sự là một tác phẩm kí sự
bằng chữ Hán rất có giá trị trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII.
(Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, NXB Văn học, 1986)
Cha tôi ________________________________________ đặng huy trứ
(Trích Đặng Dịch Trai ngôn hành lục)
I Gợi dẫn
1. Đặng Huy Trứ (1825 1874) hiệu là Tỉnh Trai và Vọng Tân, tự là Hoàng
Trung, ng-ời làng Thanh L-ơng, huyện H-ơng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm
1843, Đặng Huy Trứ đỗ cử nhân, năm 1848 đỗ tiến sĩ nh-ng vì phạm huý ông đã bị
đánh tr-ợt và bị t-ớc luôn học vị cử nhân. Ông đã dâng nhiều th- điều trần đề xuất
nhiều t- t-ởng tân tiến nh-ng đáng tiếc là những t- t-ởng của ông không đ-ợc thực
hiện.
2. Đặng Dịch Trai ngôn hành lục thuộc thể kí, là tác phẩm khá thành công của
8


Đặng Huy Trứ. Tác phẩm là những trang hồi t-ởng của tác giả về ng-ời cha đáng
kính của mình, ông Đặng Văn Trọng (tên hiệu là Dịch Trai). Tác phẩm ghi lại chi tiết
lời nói và việc làm của Đặng Văn Trọng cùng nhiều chi tiết quan trọng về cuộc đời,
qua đó thể hiện những quan niệm về cuộc sống của tác giả và tình cảm kính trọng của
ông đối với ng-ời cha đáng kính.
3. Đoạn trích có nhiều từ cổ, cần đọc kĩ chú thích. L-u ý thể hiện rõ giọng đọc các
lời thoại.
II Kiến thức cơ bản
Thể kí xuất hiện mầm mống từ giai đoạn thứ hai của thời kì văn học trung đại (thế

kỉ XVI đến nửa đầu thế kỉ XVIII) nh-ng phải đến nửa cuối thế kỉ XVII với sự xuất
hiện của Th-ợng kinh kí sự của Lê Hữu Trác thì kí mới thực sự ra đời với t- cách là
thể văn xuôi tự sự nghệ thuật. Đặng Dịch Trai ngôn hành lục của Đặng Huy Trứ là
tác phẩm thuộc loại văn tự thuật một thể tài khá quen thuộc của kí trung đại. ở loại
văn tự thuật, ng-ời viết thuật lại khá trung thành và tỉ mỉ các sự kiện liên quan đến
cuộc đời mình và những ng-ời thân. Trong Đặng dịch trai ngôn hành lục, Đặng Huy
Trứ đã thuật trung thực những sự kiện liên quan đến bản thân ông. Trong tác phẩm,
tác giả nhắc nhiều đến ng-ời cha của mình là Đặng Văn Trọng. Là một trí thức có
nhân cách, nh-ng phải sống vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX, chứng kiến những cơn
suy vong của vận mệnh dân tộc, ông đã đau lòng tr-ớc sự tan rã của hệ thống đạo đức
luân lí ph-ơng Đông. Và vì thế ông tiếc nuối thời kì đã qua và gửi gắm niềm nuối tiếc
ấy vào nỗi nhớ th-ơng về ng-ời cha mà ông vô cùng kính trọng. Đoạn trích Cha tôi
không đơn giản là tấm lòng của tác giả đối với ng-ời cha mà còn thể hiện những suy
nghĩ của ông về lẽ sống, nhân sinh.
Đoạn trích lần l-ợt thuật lại ba sự kiện tiêu biểu, ba khúc ngoặt trên đ-ờng thi cử
của nhân vật tôi (tức Đặng Huy Trứ). Sự kiện là việc thi cử đỗ trượt của tôi nhưng
vấn đề tác giả muốn thể hiện ở đây lại nằm ở hành động, lời nói của ng-ời cha.
Những phản ứng của ng-ời cha tr-ớc việc đỗ tr-ợt của con trai đã thể hiện rõ nhân
cách và cái nhìn sâu sắc của ông về con ng-ời.
Sự kiện thứ nhất xảy ra vào mùa thu năm Quý Mão (1843), tôi theo cha cùng
người anh con bác trưởng là Đặng Huy Sĩ đến trường Phú Xuân để thi. Nhân vật
tôi đi thi với mục đích quen với tiếng trống trường thi. Khi người ta xướng danh,
yết bảng thì tôi đi xem hát. Cũng chỉ định đi chơi về rồi ngó bảng tú tài. Tất nhiên,
9


đây chỉ là cách nói khiêm tốn của ng-ời thuật chuyện, song nó cũng thể hiện đ-ợc
thái độ đi thi của ông. Sự kiện đầy bất ngờ đã xảy ra, khi x-ớng danh họ Đặng, mọi
ng-ời đều nghĩ là Đặng Văn Trọng. Thế nh-ng ng-ời đỗ thứ ba lại chính là tôi. Đỗ
thứ ba trong kì thi này là một vinh dự rất lớn, là hi vọng và mong đợi của mọi sĩ tử, kể

cả của thân phụ Đặng Huy Trứ, tức Đặng Văn Trọng, một ng-ời tài giỏi mà ai cũng
nghĩ là xứng đáng. Thế nh-ng, thái độ của hai cha con lại hoàn toàn bất ngờ. Con thì
không quan tâm, vẫn mải đi chơi và khiêm tốn với ý định để đến tối sẽ đi coi bảng
tú tài xem có tên mình hay không. Còn người cha, nghe tin con đỗ, một tin vui đối
với cả gia tộc, dòng họ thì lại có phản ứng thật lạ : cha tôi dựa vào cây xoài, n-ớc
mắt ướt áo như là gặp việc chẳng lành. Không phải ông buồn vì con thi đỗ mà ông
lại tr-ợt. Những giọt n-ớc mắt của ng-ời cha ấy thể hiện tấm lòng cao cả, nỗi lo lắng
của một ng-ời cha, một ng-ời từng trải, ng-ời vốn đã rất hiểu lẽ đời. Câu trả lời của
ông hợp tình hợp lí : Có gì đáng vui đâu. Đỗ đạt cao là để dành cho người có phúc
đức. Con tôi tính tình chưa già dặn, chưa có đức nghiệp gì... Cổ nhân đã nói Thiếu
niên đăng khoa nhất bất hạnh dã !. Đó là nỗi băn khoăn của một ng-ời cha luôn lo
lắng cho con. Câu trả lời của ông vừa rất khiêm tốn lại rất chân thành. Những câu nói
ấy đã có ngầm ý rằng : mục đích của việc thi cử không nhất thiết phải đỗ đạt để làm
quan ngay. Sự đời cái gì dễ kiếm thì không đ-ợc trân trọng dù nó rất quý giá. Dù là
ng-ời có tài năng thực sự nh-ng nếu đỗ đạt quá sớm sẽ sinh ra kiêu ngạo và tự mãn.
Phản ứng của người cha là phản ứng của người hiểu sâu xa câu chuyện Tái ông thất
mã. Kể lại sự kiện này, tác giả đã chọn chi tiết, ngôn ngữ rất khéo léo để thể hiện
nhân cách và suy nghĩ sâu xa của ng-ời cha. Ngôn ngữ và cách nói của ng-ời cha thể
hiện ông là một nhà nho mẫu mực. Những lí lẽ ông đ-a ra đều thật trọn vẹn, có trên
có d-ới. Không tự ti nh-ng cũng không kiêu căng tự mãn : Nào ngờ, mới một lần đi
thi lại trúng thứ ba. Đó là do triều đình nuôi d-ỡng, tổ tông tích đức, gia đình giáo dục
mà đ-ợc thế... Nhìn lên, tôi đội ơn tác thành của thiên tử, lại cảm kích công vun trồng
của tổ tiên, chỉ sợ con tôi không báo đáp đ-ợc nghĩa nặng ơn dày nên không cầm nổi
nước mắt. Tác giả đã dùng lời đáp ấy và mượn lời nhận xét của mọi người để tỏ lòng
kính trọng và niềm tự hào về ng-ời cha của mình.
Sự kiện thứ hai đ-ợc thuật lại trong đoạn trích vẫn lại là chuyện thi cử. Lần thứ
hai, ng-ời con đỗ đạt và ng-ời cha cũng có phản ứng t-ơng tự. Đó là Khoa thi Hội
mùa xuân năm Đinh Mùi nhân tứ tuần đại khánh của đức Hiến tổ Ch-ơng Hoàng đế
Thiệu Trị, vua cho mở Ân khoa.
10



Người cha nghe tin con đỗ đạt không hồ hởi vui mừng mà lo lắng : Bậc đỗ đại
khoa ắt phải là ng-ời phúc phận lớn. Con tôi đức độ ra sao mà đ-ợc nh- vậy, chỉ làm
cho tôi thêm lo lắng. Không phải người cha không tin vào khả năng của con mình.
Đây là cách phản ứng của một ng-ời cha có suy nghĩ sâu sắc, chín chắn. Ông đã thể
hiện quan niệm của mình về ng-ời quân tử. Ng-ời đỗ đạt phải là ng-ời có tài và có
đức. Đó là quan niệm của một chính nhân quân tử, một con ng-ời hiểu đời, hiểu
ng-ời, hiểu lẽ sống và hiểu chính con trai mình.
Sự kiện thứ ba đ-ợc tác giả thuật lại trong đoạn trích có khác với hai sự kiện trên.
Tác giả đã chọn kể hai sự việc đồng thời xảy ra trong gia đình để ngợi ca tấm lòng và
nhân cách của người cha. Kì thi Đình năm ấy vào ngày 26 tháng 4. Đúng hôm đó, từ
cuối nhà bên trái điện Cần Chánh báo tin dữ : bác ngự y Đặng Văn Chức mất [...]. Tôi
thì vừa bị đánh hỏng trong kì thi Đình... Cả nhà lại càng buồn cho tôi. Trước hai tin
dữ ấy, Đặng Văn Trọng đau đớn tr-ớc cái chết của ng-ời anh và coi việc con trai bị
đánh hỏng là không có chuyện gì đáng kể. Với phản ứng của người cha như trên, có
thể suy đoán d-ờng nh- ng-ời cha không muốn con trai mình đỗ đạt. Một nhà nho
theo nghiệp sách đèn khoa cử không lẽ lại coi th-ờng chuyện đỗ đạt nh- vậy. Xem lại
thì không phải vậy. Tấm lòng của ng-ời cha ấy đ-ợc thể hiện rõ ở lời nói của ông
trong phần kết đoạn trích. Khi việc tang ng-ời anh trai đã hơi th-, ông mời quay sang
khuyên nhủ con trai. Lời khuyên nhủ này là tâm sự giấu kín từ nơi sâu thẳm tấm lòng
người cha : Đã vào thi Đình thì không còn đánh trượt nữa, từ đời Lê đến nay như thế
đã lâu mà nay con lại bị đánh trượt. Ông đã phân tích cho con trai thấy sai lầm
nghiêm trọng của mình để ng-ời con nhận rõ điều trái phải. Việc để bị đánh tr-ợt
trong kì thi Đình là một lỗi lầm rất lớn. Nh-ng ông không dừng lại ở việc chỉ ra sai
lầm của con, mà quan trọng hơn, ông đã khuyên nhủ con trai những lời thấu tình đạt
lí. Lời khuyên của ng-ời cha chứa đựng những triết lí về cuộc sống. Nó đã giúp cho
ng-ời con nhận ra lỗi lầm của mình, nh-ng không bị rơi vào sự tuyệt vọng, bi quan
hay phẫn uất. Bài học ông dạy con có thể thu gọn trong câu Thất bại là mẹ thành
công. Những lí lẽ người cha đưa ra thật thấu tình đạt lí, nó buộc người con phải suy

nghĩ mà quyết tâm tiến thủ. ... tước cả khoa danh của con là để rèn luyện cho con
nên ng-ời. Ông Phạm Văn Huy ở Thiên Lộc... Tài học, phẩm hạnh của con còn kém
các ông ấy muôn lần. Ng-ời ta ai chẳng có lúc mắc sai lầm, quý là ở chỗ biết sửa
chữa.
Lí lẽ và quan niệm về chuyện thi cử, về thành công và thất bại của ng-ời cha đều
11


rất sâu sắc. Đó cũng chính là một bài học nhân sinh quý giá cho ng-ời đời sau.
Người cha hiện lên trong lời tự thuật của nhân vật tôi thật đáng kính trọng. Ông
là điển hình mẫu mực của một nhà nho chân chính. Qua câu chuyện của bản thân
mình, tác giả đã đ-a ra một triết lí sống rất thực tế và sâu sắc : ở đời, điều quan trọng
không phải là thành công hay thất bại. Điều quan trọng là ta phải biết vì sao mình thất
bại, từ đó rút ra bài học cho bản thân. Thành công không kiêu ngạo tự mãn, thất bại
không bi quan tuyệt vọng. Phải biết mình biết ta, biết sống cho đúng mực và phải biết
đứng lên sau khi ngã.
Cách kể chuyện trong đoạn trích rất tiêu biểu cho nghệ thuật viết kí. Tác giả rất
trung thành với sự thực nh-ng không dừng lại ở việc thuật lại sự việc. Trong khi thuật
lại các sự kiện, ng-ời viết đã lựa chọn chi tiết, sự việc tiêu biểu để từ đó thể hiện thái
độ của bản thân hoặc những quan niệm, t- t-ởng có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
III liên hệ
Đặng Huy Trứ để lại nhiều sách về giáo dục, sử, binh th-, riêng về văn, có Đặng
Hoàng Trung văn sao (Bản sao tập văn của Đặng Hoàng Trung), Đặng Hoàng Trung
thi sao (Bản sao tập thơ của Đặng Hoàng Trung), Đặng Dịch Trai ngôn hành lục (Sao
lục châm ngôn và hành trạng của Đặng Dịch Trai), Tứ giới thi (Thơ về bốn điều
răn), trong đó đáng kể nhất là Đặng Hoàng Trung thi sao và Đặng Dịch Trai ngôn
hành lục. Thi sao gồm 12 quyển, 1250 bài thơ làm trong thời gian 1840 1860. Thơ
ông bày tỏ tấm lòng quan tâm đến đời sống ng-ời dân th-ờng ở nông thôn, chung
niềm vui nỗi buồn với họ, từ bác thợ cày, phụ nữ nuôi tằm, chị vú nuôi trẻ, bà đỡ hộ
sản đến ng-ời chạy chợ, nhà nho nghèo Qua nhiều bài thơ, tác giả đã khắc hoạ

nhiều mặt đời sống phong phú ở miền quê, bằng những chi tiết cụ thể, nh- đống rấm
trấu ban đêm, mẹt cau phơi ngày lạnh. Các sản vật địa ph-ơng cùng những nghề thủ
công nh- rổ tre Bàu La, gạo gie An Cựu, lò vịt An Xuân, nghề làm đá ở Lục Bảo v.v
cũng đi vào thơ của ông. Sau khi ra làm quan, tác giả dành phần lớn thơ để bộc lộ rõ
hơn nữa lòng -u thời mẫn thế cùng những suy t- về vận mệnh ngả nghiêng của đất
n-ớc. Lòng yêu n-ớc đó đã đ-ợc thể hiện cụ thể bằng hành động chống giặc Pháp đến
hơi thở cuối cùng.
Thơ Đặng Huy Trứ tuy ch-a sánh đ-ợc với các nhà thơ cự phách về mặt nghệ
thuật nh-ng mặt mạnh của ông lại là đ-a đ-ợc những hình ảnh hiện thực sinh động,
cá thể, giàu sắc thái địa ph-ơng vào thơ. Mặt mạnh này càng thể hiện đầy đủ hơn ở
12


cuốn văn xuôi Đặng Dịch Trai ngôn hành lục. Đây là cuốn hồi kí viết về ng-ời cha
nh-ng đề cập đến cả một gia đình đông đúc của ông, gồm bà, mẹ, các bác, anh em họ,
hàng xóm láng giềng, đặc biệt là phần kể chuyện về thuở ấu thơ, việc học hành, thi
cử cùng mối tình thuỷ chung v-ợt lễ giáo của ông với cô hàng bánh. Những chân
dung nhân vật, những tập tục một thời đều đ-ợc ông kể lại tỉ mỉ, chân thật, do đó rất
hấp dẫn ng-ời đọc ; là những t- liệu quý giúp bạn đọc đời sau hiểu về đời sống đ-ơng
thời mà không phải nhà văn đ-ơng thời nào cũng để tâm ghi chép. Điều đó hẳn không
tách rời với những cởi mở, đổi mới của ông trong việc nhìn ra n-ớc ngoài, góp phần
chấn h-ng nền kinh tế n-ớc nhà một cách thiết thực.
(Phạm Tú Châu, Từ điển văn học, NXB Văn học, 1986)
Lẽ ghét th-ơng _______________________ nguyễn đình chiểu
(Trích Truyện Lục Vân Tiên)
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Đình Chiểu (1822 1888) là ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân
tộc. Ông là một nhà văn có tấm lòng tha thiết với đất n-ớc, với dân tộc. Cuộc đời
sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn. Tr-ớc 1858, ông sáng tác để tuyên truyền và
giáo dục đạo đức, nổi tiếng có truyện thơ Truyện Lục Vân Tiên. Sau 1858, sáng tác

của ông thể hiện tấm lòng tha thiết với đất n-ớc, với dân tộc tr-ớc nạn ngoại xâm, ca
ngợi những tấm g-ơng anh hùng đã đứng lên chống giặc, dù họ là ai, t-ớng lĩnh, binh
sĩ hay nhân dân...
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn, nhà giáo yêu n-ớc, có tấm lòng tha thiết với dân
tộc. Cuộc đời Đồ Chiểu là tấm g-ơng sáng ngời về nghĩa khí, về đạo đức. Là một
ng-ời mù loà, không thể trực tiếp cầm g-ơm đánh giặc, Đồ Chiểu đã sử dụng ngòi bút
của mình nh- một thứ vũ khí sắc bén để chiến đấu chống kẻ thù. ông luôn ca ngợi
những ng-ời đã dám anh dũng đứng lên cầm g-ơm giết giặc và đã viết những bài văn
tế xúc động về họ, nh- Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chất phác, giản dị và có giá trị t- t-ởng lớn. Đó đều
là những tác phẩm đ-ợc sáng tác theo quan điểm :
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
2. Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ, đ-ợc viết d-ới hình thức thơ lục bát. Truyện
thơ Nôm là thể loại văn học khá phát triển trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ
13


XVIII XIX. Đó là những thành tựu đáng tự hào của nền văn học dân tộc.
3. Đoạn trích này nằm ở phần đầu của truyện, từ câu 473 đến câu 504 trong tổng
số 2082 câu của truyện thơ. Lục Vân Tiên và V-ơng Tử Trực kết nghĩa anh em, rồi
cùng tới kinh đô ứng thí. Họ vào nghỉ trong một quán trọ, ở đây, họ gặp Trịnh Hâm và
Bùi Kiệm. Bốn ng-ời cùng làm thơ để trổ tài cao thấp. Thấy Tiên, Trực làm thơ nhanh
và hay, Kiệm và Hâm có ý nghi ngờ hai ng-ời sao chép thơ cổ. Tr-ớc tình cảnh ấy,
ông quán tỏ ra khinh bỉ vô cùng những kẻ bất tài lại hay đố kị.
4. Đọc đoạn trích theo cách gieo vần của thơ lục bát. Chú ý ngắt giọng giữa câu
(Quán rằng :/..., Tiên rằng :/...).
II Kiến thức cơ bản
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam. Cũng nh- Truyện
Kiều, Truyện Lục Vân Tiên đ-ợc rất nhiều ng-ời Việt Nam yêu thích. Tác phẩm đã đi

vào đời sống nhân dân và các nhân vật của truyện đã đ-ợc dân gian hoá. Lục vân Tiên
trở thành biểu t-ợng về một đấng nam nhi ngay thẳng tốt bụng, sẵn sàng cứu giúp
ng-ời yếu thế. Kiều Nguyệt Nga trở thành biểu t-ợng sáng ngời của lòng chung thuỷ,
mẫu mực của ng-ời phụ nữ ph-ơng Đông đoan trang, nết na... Mỗi nhân vật của tác
phẩm đều đã đi vào đời sống dân gian và trở thành một yếu tố của nền văn hoá dân
gian. Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác tr-ớc 1858
của Nguyễn Đình Chiểu, đó là giai đoạn sáng tác theo quan điểm văn chương chở
đạo. Đạo ở đây là những quan niệm đạo đức truyền thống phương Đông theo quan
niệm của Nho giáo. Tính cách của nhân vật tốt xấu, ngay gian rất rõ ràng. Qua thế
giới nhân vật ấy, tác giả thể hiện những quan niệm của mình về đạo đức, về con ng-ời
và lẽ sống.
Đoạn trích Lẽ ghét th-ơng (từ câu 473 đến câu 504 của tác phẩm) là lời của một
nhân vật trong truyện, đó là nhân vật ông Quán trong cuộc đàm đạo giữa ông và các
nho sĩ trẻ tuổi. Quan điểm yêu ghét của ông Quán chính là quan điểm của tác giả
nhà thơ, nhà văn, ông đồ Nguyễn Đình Chiểu.
Đoạn trích chia làm hai phần rất rõ rệt : phần nói về những điều mà ông Quán
ghét, và phần kể về những điều ông Quán th-ơng. Từ ghét, th-ơng ở đây cũng không
đơn giản là chỉ tình cảm đối với một ai đó mà đ-ợc dùng để thể hiện sự đồng tình và
phản đối của ng-ời nói đối với điều đ-ợc nói tới. Cũng không phải là chuyện ghét
th-ơng những điều liên quan đến cá nhân ng-ời nói. Chuyện ghét th-ơng đ-ợc nhìn
14


nhận xuất phát từ quyền lợi của nhân dân.
Cấu trúc ngôn ngữ trong đoạn trích có vẻ đơn điệu bởi sự lặp lại nhiều lần hình
thức điệp đối. Song chính điều đó lại tạo nên hiệu quả nghệ thuật trong việc thể hiện
nội dung t- t-ởng của tác giả. Lặp lại hình thức những thay đổi sự việc, nhân vật
trong mỗi câu thơ để nhấn mạnh, khẳng định thái độ yêu ghét rõ ràng của nhà thơ. Để
thể hiện thái độ ghét th-ơng với từng đối t-ợng cụ thể, ông Quán có lời nhận xét
chung Vì chưng hay ghét cũng là hay thương. Chuyện ghét thương ở đây có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Thái độ ghét là hệ quả của sự thương mà thôi. Nỗi
ghét th-ơng là sự trăn trở của ông về cuộc đời, về cuộc sống của nhân dân lao động.
Vì th-ơng nhân dân cực khổ lầm than, vì trân trọng những con ng-ời biết vì dân mà
ghét những kẻ tàn bạo, đi ng-ợc với đạo lí làm ng-ời, đẩy nhân dân vào cảnh cơ cực
lầm than.
Trước hết, tác giả nói chuyện ghét. Ông Quán ghét những ai ? Tại sao ông lại
ghét họ. Với mỗi đối t-ợng, ông đều có lời giải thích rõ ràng. Không ghét chung
chung, mà ghét điều cụ thể.
Quán rằng Ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Đối t-ợng ghét có tính khái quát rất cao, ghét tất cả những việc vớ vẩn, vô ích đối
với dân với n-ớc. Phàm những việc gì không có ích cho cuộc sống, có hại đối với con
ng-ời thì đều là điều đáng ghét, điều xấu xa. Mức độ ghét cũng rất dứt khoát, rõ ràng
và quyết liệt. Điều này thể hiện ở việc tách từ, điệp từ. Ba từ ghét đ-ợc lặp lại trong
câu thơ tám chữ thể hiện thái độ rất quyết liệt. Đó là thái độ không khoan nh-ợng,
không dung tha đối với điều xấu.
Những đối t-ợng tiếp theo đ-ợc nhắc đến gắn với thái độ ghét của ông Quán đều
có một điểm chung. Đó là những nhân vật nổi tiếng tàn ác, những triều đình nổi tiếng
nhiễu nh-ơng, xấu xa trong lịch sử Trung Quốc : đó là Kiệt, Trụ mê dâm, U, Lệ đa
đoan, Ngũ bá phân vân, thúc quý phân băng. ý thơ rất cân đối trong việc kể. Tr-ớc
hết là hai cặp nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử phong kiến Trung Hoa thời cổ
đại, những tên vua tàn ác mà tên tuổi đều gắn với những giai thoại về sự độc ác khôn
cùng. Tiếp đến là hai thời kì đen tối của lịch sử Trung Hoa, kẻ cầm quyền tranh giành
quyền lực đẩy nhân dân vào nạn binh đao. Kẻ thì ăn chơi, h-ởng thụ sa đoạ, ng-ời thì
say s-a tranh giành quyền lực nh-ng tất cả bọn chúng đều gây ra một hậu quả chung
là đẩy nhân dân vào cuộc sống vô cùng khổ cực. Những điều ông Quán ghét không
15


liên quan gì đến cuộc sống của cá nhân ông. Tóm lại, ông ghét những kẻ làm nhân

dân phải chịu khổ cực. Cả bốn câu ông đều nhắc đến dân, nhắc đến những hậu quả mà
nhân dân lao động phải chịu : dân sa hầm sẩy hang, dân chịu lầm than, dân nhọc
nhằn và lằng nhằng rối dân. Bốn đối tượng ghét cụ thể ấy đã khái quát nên một đối
t-ợng ghét rất chung : ông ghét những kẻ đi ng-ợc lại với quyền lợi của dân.
Còn thái độ th-ơng của ông thì sao ? Ông th-ơng những đối t-ợng nào ? Th-ơng
không chỉ là sự th-ơng cảm mà th-ơng ở đây là thái độ đồng tình, kính trọng của ông
dành cho đối t-ợng. ông không ghét những chuyện vặt vãnh nên cũng không nói đến
th-ơng những chuyện bình th-ờng.
Th-ơng là th-ơng đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
...
Đối tượng thương là nhân vật cụ thể, có thực trong lịch sử Trung Hoa. Đó là :
Khổng Tử, Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Đào Tiềm, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ đều là
những con ng-ời nổi tiếng về tài và đức. Họ có cùng một điểm chung là luôn cố gắng
mang tài năng ra giúp đời song lại gặp toàn chuyện không may mắn. Sự nghiệp dù lẫy
lừng song rồi lại dang dở. Nh-ng tất cả họ đều là ng-ời có nhân cách cao cả, đều hết
lòng th-ơng yêu dân chúng, sống trọn đạo bề tôi, giữ vững phẩm cách của nhà nho.
Đối tượng thương đều là những người tài đức vẹn toàn. Vì vậy, thái độ th-ơng ở đây
bao gồm cả sự cảm thông, trân trọng và kính phục của tác giả.
Nhà thơ đã m-ợn chuyện bàn luận về ghét th-ơng, về lịch sử để thể hiện thái độ
của mình đối với nhân dân. Việc ghét th-ơng gắn chặt với quyền lợi của nhân dân lao
động.
Tác giả đã sử dụng rất thành công các ph-ơng tiện ngôn ngữ nh- điệp từ, từ láy,
thành ngữ, tiểu đối để thể hiện thái độ ghét th-ơng rất rõ ràng, dứt khoát và quyết liệt
của mình. Đặc biệt nhà thơ đã sử dụng rất hiệu quả biện pháp nghệ thuật điệp từ. Đó
là từ ghét và từ th-ơng. Đối tượng của ghét và thương thì luôn sóng đôi nhau từng
cặp. Kiệt, Trụ và U, Lệ ; Ngũ bá và thúc quý. Đối tượng thương thì phong phú
hơn. Điều đó thể hiện rõ hơn thái độ th-ơng ghét rõ ràng, dứt khoát của ông Quán.
Ông Quán dẫn toàn những chuyện sử sách Trung Quốc. Đây là những câu chuyện mà
bất cứ nhà nho nào cũng biết đến. ở thời của các nhà nho nh- Nguyễn Đình Chiểu,

những nhân vật và những thời điểm lịch sử ấy đã trở nên rất quen thuộc và đã mang ý
nghĩa khái quát hoá.
16


M-ợn lời ông Quán, tác giả đã thể hiện quan điểm của một nhà nho chân chính.
Nhà nho ấy tuy là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình nh-ng lại có t- t-ởng rất tiến
bộ. Đó là sự nối tiếp t- t-ởng của Nguyễn Trãi thể hiện ở Bình Ngô đại cáo, đó là :
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Cái tiêu chuẩn để ghét thương ở đây là quyền lợi
của nhân dân, đi trái với quyền lợi của nhân dân là đáng ghét, là đáng phê phán. Tác
giả đã dùng hình thức đàm đạo về ghét th-ơng giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi để
thể hiện thái độ, quan điểm t- t-ởng của mình về thời cuộc và nhân tình thế thái.
III liên hệ
Quán rằng : ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Chính thái độ yêu ghét dứt khoát mãnh liệt ấy đã tạo cho truyện Lục Vân Tiên một
tinh thần đấu tranh, một tinh thần phấn khởi lôi kéo ng-ời đọc
Th-ơng và ghét đều vì nhân dân. Làm lợi cho dân thì th-ơng, làm hại cho dân
thì ghét :
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm

Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Nguyễn Đình Chiểu cũng đứng trên lập tr-ờng nhân nghĩa của nhân dân mà có
một thái độ dứt khoát : yêu và ghét, Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâmThái độ
thật dứt khoát ấy đ-ợc xây dựng trên một lí t-ởng vững chắc bền bỉ, không gì lay
chuyển nổi. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga tiêu biểu cho cái lí t-ởng ấy. Trong truyện
Lục Vân Tiên mỗi nhân vật chính diện đều theo đuổi một lí t-ởng nh- vậy.
(Vũ Đình Liên, Nguyễn Đình Chiểu. ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc
NXB Trẻ, 2003)
Chạy giặc _____________________________ nguyễn đình chiểu

I Gợi dẫn
1. Nguyễn Đình Chiểu (xem bài Lẽ ghét th-ơng).
2. Chạy giặc đ-ợc sáng tác khi nhà thơ chứng kiến cảnh nhân dân chạy loạn.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, bắt đầu cuộc xâm l-ợc Việt
Nam. Nh-ng chúng đã gặp sự kháng cự của quân triều đình và nhân dân. Thực dân
Pháp quay sang tiến vào Sài Gòn, tràn tới sông Bến Nghé. Bài thơ thể hiện lòng yêu
n-ớc nồng nàn của nhà thơ và nỗi đau của ông khi phải chứng kiến cảnh n-ớc mất
17


nhà tan.
3. Khi đọc, chú ý quy tắc gieo vần theo niêm luật của thơ thất ngôn bát cú.
II Kiến thức cơ bản
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, một thầy đồ, một thầy thuốc, một nhà thơ và
là một nghĩa sĩ có nhân cách.
Mặc dù đôi mắt lúc đó đã mù loà, nh-ng nỗi đau đớn của một ng-ời dân mất
n-ớc, hàng ngày chứng kiến cảnh giặc Pháp tấn công và đánh chiếm quê h-ơng đã
khiến ông hình dung, t-ởng t-ợng thật rõ ràng cảnh n-ớc mất nhà tan. Ông đã vẽ nên
bức tranh đầy máu và n-ớc mắt về một thời điểm lịch sử đen tối của dân tộc.
Bài thơ đ-ợc mở đầu bằng một khung cảnh bình th-ờng mà bất th-ờng.
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Cảnh chợ th-ờng gợi cảm giác thanh bình. Cảnh thanh bình ấy đột nhiên bị phá vỡ
bởi một thứ âm thanh vô cùng tàn nhẫn và đáng sợ : tiếng súng Tây. Đó là âm thanh
báo hiệu sự bắt đầu một tấn bi kịch của dân tộc. Hai câu đề đã khái quát hoàn cảnh
bao quát của cảnh chạy giặc và cũng là khái quát hiện thực. Bàn cờ thế phút sa tay là
hình ảnh có ý nghĩa t-ợng tr-ng. Thế sự nh- cuộc cờ, ng-ời đứng đầu là ng-ời chơi
cờ. N-ớc cờ sa tay, ván cờ thất bại. Cách nói phút sa tay gợi cảm giác tai hoạ đến
thật đột ngột, không có dự báo tr-ớc. Nó khiến cho ng-ời trong cuộc hoang mang.
Cảnh t-ợng ấy đã đ-ợc nhà thơ, ng-ời trong cuộc, hình dung và ghi lại rất rõ ràng ở

câu thực và câu luận.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt n-ớc,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Thực tế bao giờ nước mất cũng kéo theo nhà tan. Cảnh nhà tan đã được nhà
thơ ghi lại bằng một hình ảnh thật đắt và giàu sức gợi. Nó gợi nên sự đau xót, th-ơng
tâm. Khi đã chạy giặc thì đủ cả già, trẻ, lớn, bé nh-ng ở đây tác giả chỉ dùng một hình
ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy. Lũ trẻ bỏ nhà đã đáng thương tâm lắm rồi nhưng kèm theo
từ lơ xơ càng tăng cảm giác đau xót đến bội phần. Nó gợi sự tan tác đến hoang tàn.
Cảnh con người nhà tan cửa nát được đặc tả bằng hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy thì hình
ảnh thiên nhiên trời đất tang thương lại được gợi nên bởi hình ảnh bầy chim dáo dác
18


bay. Hai cặp hình ảnh đối nhau trong cặp câu thực đã thể hiện rất rõ cảnh tượng đau
xót của ngày chạy giặc.
Cảnh nhà tan là vậy, còn cảnh n-ớc mất cũng thật tang th-ơng. Tác giả đã dùng
hai địa điểm thực để tả cảnh đất n-ớc những ngày đầu oằn mình d-ới gót giày xâm
l-ợc. Tiếng súng của quân xâm l-ợc đã bao trùm lên không gian quê h-ơng một
không khí đầy hiểm hoạ. Hình ảnh tan bọt nước và nhuốm màu mây gợi sự tan
tác và u ám. Bóng quân thù đã bao trùm cả quê h-ơng.
Chỉ với những nét gợi tả trong ba cặp câu thơ ấy thôi, nhà thơ đã khái quát phút
giây đau th-ơng của cả dân tộc Việt. Nhà thơ ấy tuy mù loà nh-ng nỗi đau của một
ng-ời dân mất n-ớc đã khiến ông có thể cảm nhận bằng t-ởng t-ợng nh-ng rất chính
xác cảnh tang th-ơng của quê h-ơng.
Tấm lòng ấy đ-ợc trực tiếp thể hiện ở hai câu kết :
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này ?
Câu hỏi ẩn chứa điều gì vậy, đây là một câu hỏi tu từ chứ không phải câu hỏi

thông th-ờng. Giọng điệu vừa đau xót, vừa trách móc, vừa day dứt. Tác giả đã dùng từ
trang để chỉ những ng-ời có trách nhiệm trong việc đánh giặc giữ n-ớc. Cách x-ng hô
ấy không đơn giản là thể hiện sự kính trọng của ông đối với những ng-ời có trách
nhiệm, có chí lớn, có tấm lòng với dân tộc. Nó còn là khao khát, là sự trách móc chua
xót, là niềm mong mỏi của nhân dân dành cho những ng-ời có đủ sức đủ quyền và có
trách nhiệm tr-ớc vận mệnh dân tộc. Chính từ nỡ ở câu kết đã thể hiện điều đó. Câu
kết cũng chính là niềm mong mỏi thống thiết của Đồ Chiểu và của nhân dân. Họ
mong mỏi có những ng-ời có đủ sức, đủ tài và đủ tâm đứng lên thực hiện nhiệm vụ
đánh giặc giữ n-ớc. Câu hỏi kết thúc bài thơ đã tạo nên âm h-ởng thật thống thiết cho
toàn bài thơ, đồng thời thể hiện tấm lòng đau đáu nỗi niềm non n-ớc của ông Đồ
Chiểu.
III liên hệ
So sánh nội dung bài Chạy giặc với bài Xúc cảnh của Nguyễn Đình Chiểu :
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa xuân đâu hỡi ? Có hay không ?
Mây giăng ải bắc mong tin nhạn,
Ngày xế non nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi x-a đà chia đất khác,
19


Nắng s-ơng nay há đội trời chung.
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu,
Một trận m-a nhuần rửa núi sông ?
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc _____________ nguyễn đình chiểu
I Gợi dẫn
1. Nguyễn Đình Chiểu (xem bài Lẽ ghét th-ơng).
2. Thời x-a, khi tế lễ trời đất, núi sông th-ờng có bài văn cầu chúc, gọi là tế văn,
kì(1) văn hoặc chúc(2) văn. Về sau, khi chôn cất ng-ời thân, ng-ời ta cũng dùng văn tế
để t-ởng nhớ ng-ời đã mất. Văn tế cũng có khi đ-ợc gọi là điếu (điếu văn).

Văn tế nói chung là loại văn đọc khi tế, cúng ; bởi vậy nó có hình thức tế h-ởng.
Chẳng hạn : mở đầu bằng Năm, tháng, ngày... kính mời vong linh ng-ời nào đó ; kết
thúc bằng Ô hô, ai tai (Hỡi ơi ! Đau đớn thay !). Về ngôn ngữ, văn tế không câu nệ
đến hình thức ; ng-ời ta có thể dùng văn vần, tản văn, biền văn.
Một bài văn tế th-ờng có các phần : Lung khởi (ấn t-ợng khái quát về ng-ời chết)
; Thích thực (hồi t-ởng công đức của ng-ời chết) ; Ai vãn (than tiếc ng-ời chết) ; Kết
(nêu lên ý nghĩ của ng-ời tế và cầu chúc cho linh hồn ng-ời chết).
3. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đ-ợc Nguyễn Đình Chiểu viết để t-ởng nhớ công ơn
của những ng-ời nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp
đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14
12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho
giặc, nh-ng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy đ-ợc viết theo yêu cầu của tuần phủ
Gia Định, song chính là tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những ng-ời đã
xả thân vì nghĩa lớn. Bài văn đ-ợc viết theo bố cục quen thuộc của một bài văn tế :
- Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang nh- mõ) : cảm t-ởng khái quát về những nghĩa
sĩ nông dân hi sinh trong trận Cần Giuộc.
- Thích thực (từ Nhớ linh x-a đến ra tay bộ hổ) : hồi t-ởng về cuộc đời ng-ời
nghĩa sĩ.
- Ai vãn (từ Khá th-ơng thay đến dật dờ tr-ớc ngõ) : than tiếc các nghĩa sĩ.
- Kết (phần còn lại) : tình cảm xót th-ơng của ng-ời tế với linh hồn ng-ời chết.

(1) Kì: tế lễ.
(2) Chúc: cầu chúc.

20


Qua bài văn, hình t-ợng những ng-ời nghĩa sĩ vốn là những ng-ời nông dân hiền
lành đã hiện lên nh- một biểu t-ợng nghệ thuật sừng sững về lòng yêu n-ớc của nhân
dân Việt Nam. Lòng căm thù quân giặc của những ng-ời nghĩa sĩ cũng chính là lòng

căm thù giặc của Nguyễn Đình Chiểu.
4. Đọc bài văn bằng giọng điệu bi thiết, trầm hùng. Chú ý thể hiện tính chất đối
xứng của các câu văn biền ngẫu.
II Kiến thức cơ bản
Thật có lí khi khẳng định Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một trong những bài văn tế
hay và cảm động nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử văn
học dân tộc có một t-ợng đài nghệ thuật sừng sững về ng-ời nông dân t-ơng xứng với
phẩm chất vốn có ngoài đời của họ ng-ời nông dân nghĩa sĩ chống giặc, cứu n-ớc.
Theo dòng hồi t-ởng, cuộc đời của những ng-ời nghĩa sĩ đ-ợc phản ánh chân
thực, sống động. Đó là những ng-ời nghĩa sĩ nông dân :
Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó.
Ch-a quen cung ngựa, đâu tới tr-ờng nhung ; chỉ biết ruộng trâu,
ở trong làng bộ.
Vẫn là hình ảnh quen thuộc của người nông dân Việt Nam cần cù, lam lũ. Vẻ cui
cút", dáng toan lo" như gợi ra từ sâu thẳm nỗi niềm cảm thông của con người. Người
nông dân thầm lặng làm lụng, cày sâu cuốc bẫm, bán mặt cho đất, bán l-ng cho trời.
Giữa bao la trời đất và ruộng đồng rộng lớn, vóc dáng ng-ời nông dân hiển hiện thật
tội nghiệp, đơn chiếc. Họ tất tả trong cái đói, cái nghèo. Ng-ời nông dân giãi bày
phận mình thành thực, cảm động. Họ kể những công việc đồng áng, cày cuốc, bừa
cấy, những việc "ruộng trâu", "làng bộ" cũng giản đơn, dung dị nh- chính cuộc đời
họ. Họ nghĩ suy cũng thật mộc mạc : đó là chuyện quen làm, chuyện vốn có. Bởi thế,
dễ dàng phân biệt chuyện ch-a quen làm và chuyện quen làm, chuyện chiến trận và
chuyện ruộng đồng. Sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên của họ khi "tập súng", "tập mác", "tập
cờ" cũng là điều dễ hiểu. Không gian "súng giặc đất rền" làm đảo lộn cuộc sống yên
bình của ng-ời nông dân. Tay cày, tay cuốc giờ đ-ợc thay bằng tay giáo, tay mác.
Lòng căm thù giặc biểu hiện ngút trời :
Tiếng phong hạc phập phồng hơn m-ơi tháng, trông tin quan nh- trời hạn trông
m-a ; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi nh- nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan ; ngày xem ống khói chạy đen
21



sì, muốn ra cắn cổ.
Từng lời, từng chữ trong văn tế thấm sâu nỗi hờn căm sôi sục : "ăn gan", rồi "cắn
cổ"..., Nguyễn Đình Chiểu thật tài tình khi đ-a ngôn ngữ dân dã, mộc mạc vào trong
lời văn. "Ăn gan, cắn cổ" cũng là tiêu diệt tận cùng loài thú dữ, ác độc. Nguyễn Đình
Chiểu phát hiện ra tình yêu n-ớc cháy sáng trong tâm hồn ng-ời nghĩa sĩ. Không cam
lòng nhìn nơi mình gắn bó máu thịt bị tàn phá, họ vứt bỏ cuốc cày đến với nghĩa
quân, từ việc "ch-a quen cung ngựa đâu tới tr-ờng nhung", đến việc "mến nghĩa làm
quân chiêu mộ". "Súng giặc đất rền" đã trở thành hoàn cảnh điển hình để ng-ời nông
dân tự bộc lộ chính mình. Đằng sau con ng-ời nhỏ bé kia là một nghị lực, một khí
phách chiến đấu phi th-ờng. Tinh thần tự nguyện, xả thân vì nghĩa lớn đ-ợc nâng
thành lí t-ởng cao cả của ng-ời nghĩa sĩ nông dân. Họ tự nguyện đến "tr-ờng
nhung" liều hi sinh bản thân mình để bảo vệ đất n-ớc. Hành động sẵn sàng xả thân vì
n-ớc là sự kết tinh cao độ của lòng căm thù giặc và yêu n-ớc sắt son của ng-ời nghĩa
sĩ :
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ; chẳng thèm trốn ng-ợc
trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Nếu nh- tr-ớc kia ng-ời trai tráng "b-ớc chân xuống thuyền n-ớc mắt nh- m-a"
thì nay trong thơ Đồ Chiểu sừng sững hình ảnh ng-ời nghĩa sĩ tự nguyện cứu dân, cứu
n-ớc. Trong từng b-ớc chân lùng giặc đánh của họ, ng-ời ta cảm nhận đ-ợc niềm tự
hào sâu sắc của tác giả. Quân dân lấy tình yêu làm gốc, lấy nghĩa khí làm trọng.
Chỉ vì "mến nghĩa" mà trở thành nghĩa quân thì thực sự cao quý vô cùng. Tinh thần
chiến đấu xả thân vì nghĩa đ-ợc ng-ời nghĩa sĩ dùng làm ph-ơng châm, mục đích để
chiến đấu chống kẻ thù.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia ; g-ơm đeo dùng
bằng l-ỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào l-ớt tới, coi giặc cũng nhkhông, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình nh- chẳng
có.
Kẻ đâm ngang, ng-ời chém ng-ợc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh ; bọn hè tr-ớc,

lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.
Một cuộc chiến đấu không cân sức nh-ng vẫn làm nổi bật t- thế của ng-ời nghĩa
sĩ trên chiến trận. T- thế hiên ngang, chủ động, tung hoành ngang dọc. Mỗi lời văn tế
đồng thời biểu hiện khí thế xung trận sục sôi của ng-ời nghĩa sĩ. Khi "đánh", "đốt",
22


"chém", khi "đạp rào", "l-ớt tới", lúc "đâm ngang", "chém ng-ợc"... lòng quả cảm, sự
nung nấu ý chí quyết tâm chiến đấu, chiến thắng nh- giục giã, nh- thôi thúc. Các
hành động liên tiếp quyết liệt của ng-ời nghĩa sĩ đ-ợc tác giả miêu tả qua một loạt
động từ mạnh, tạo ấn t-ợng hùng tráng. Sự đối lập giữa "ngọn tầm vông", "rơm con
cúi", "l-ỡi dao phay" với "tàu sắt", "tàu đồng", "súng nổ" nhằm tô đậm khí phách của
ng-ời nghĩa sĩ. Điều đáng trân trọng nhất ở họ chính là sự đồng tâm, hiệp lực, sức
mạnh đoàn kết của những tâm hồn quả cảm, anh hùng.
Nguyễn Đình Chiểu bộc lộ cái nhìn rất chân thực và tinh tế về ng-ời nông dân,
nghĩa sĩ. Họ anh hùng dũng cảm nh-ng vẫn nôn nóng, bột phát. Phải chăng đây cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của những ng-ời nghĩa sĩ ở Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu viết về ng-ời nghĩa sĩ nông dân với một niềm tự hào sâu
sắc. Ng-ời nghĩa sĩ sống một cuộc sống anh hùng chết một cái chết vinh quang.
Những nghĩa sĩ vô danh hi sinh "nào đợi g-ơm hùm treo mộ". Quan niệm "chết vinh
còn hơn sống nhục" lại đ-ợc thắp sáng qua hình ảnh của họ.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa h-ơng, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn ;
sống làm chi ở lính mã tà, chia r-ợu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh ; hơn còn mà chịu chữ
đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Đứng tr-ớc bức t-ợng đài vĩ đại ấy của dân tộc, biết bao nỗi niềm cảm thông, xót
th-ơng đ-ợc bộc lộ. "Ng-ời mẹ già", "ng-ời vợ yếu" đau đớn, não nùng trong niềm
th-ơng xót vô hạn.
Đau đớn bấy ! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều ; não nùng
thay ! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ tr-ớc ngõ.

Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ đã tạc bằng thơ
hình t-ợng ng-ời nghĩa sĩ, nông dân anh hùng, bất khuất mà còn là tiếng khóc th-ơng
bi thiết của con ng-ời dân tộc tr-ớc sự hi sinh vĩ đại, cao cả của họ. Cuộc chiến của
những ng-ời nghĩa sĩ thất bại song đó là thất bại trong kiêu hãnh. Hình ảnh ng-ời anh
hùng thất thế trong văn tế trở nên đẹp đẽ, kì vĩ lạ th-ờng danh thơm đồn sáu tỉnh
chúng đều khen, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Nguyễn Đình Chiểu viết về những ng-ời nghĩa sĩ bằng tất cả nỗi niềm mến th-ơng
và cảm phục chân thành. Cụ Đồ Chiểu mù đôi mắt mà sáng tấm lòng. Ông nh- nghe
đ-ợc tiếng lòng của chính những ng-ời nghĩa sĩ nông dân để mà tấu lên khúc ca bi
23


ai cảm động. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc biểu hiện một nỗi đau toàn bích", Nguyễn
Đình Chiểu xứng đáng là ánh sáng khác thường" trong bầu trời văn học Việt Nam
rộng lớn.
III liên hệ
Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác th-ờng, nh-ng con mắt của chúng ta
phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng. Văn thơ của
Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy. Có ng-ời chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của
Lục Vân Tiên, và hiểu Lục Vân Tiên khá thiên lệch về nội dung, và về văn, còn rất ít
biết về thơ văn yêu n-ớc của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào
yêu n-ớc chống bọn xâm l-ợc Pháp lúc chúng đến bờ cõi n-ớc ta cách đây một trăm
năm !
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu n-ớc mà tác phẩm là những trang bất hủ
ca ngợi cuộc đấu tranh oanh liệt của nhân dân ta chống bọn xâm l-ợc ph-ơng Tây
ngay buổi đầu lúc chúng đặt chân lên đất n-ớc chúng ta.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, nh-ng sinh tr-ởng ở đất Đồng Nai hào
phóng, lại sống giữa lúc n-ớc nhà lâm nguy, vua nhà Nguyễn cam tâm bán n-ớc để
giữ ngai vàng, nh-ng khắp nơi, nhân dân và sĩ phu anh dũng đứng lên đánh giặc cứu
n-ớc. Vì mù cả hai mắt, hoạt động của ng-ời chiến sĩ yêu n-ớc Nguyễn Đình Chiểu

chủ yếu là thơ văn. Và những tác phẩm đó, ngoài giá trị văn nghệ, còn quý giá ở chỗ
nó soi sáng tâm hồn trong sáng và cao quý lạ th-ờng của tác giả, và ghi lại lịch sử của
một thời khổ nhục nh-ng vĩ đại.
... Bài ca của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ bài Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi. Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nh-ng một dân tộc. Hịch của
Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt ch-a từng thấy,
biểu d-ơng chiến thắng làm rạng rỡ n-ớc nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc
ca những ng-ời anh hùng thất thế, nh-ng vẫn hiên ngang...
(Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đình Chiểu tấm g-ơng yêu n-ớc và lao động
nghệ thuật,
Viện Văn học NXB Khoa học xã hội,
1973)
Tự tình___________________________________ hồ xuân h-ơng
(Bài II)
24


I Gợi dẫn
1. Hồ Xuân H-ơng là nữ sĩ tài năng, là hiện t-ợng văn học trung đại Việt Nam,
song cũng là nhà thơ mà cuộc đời còn rất nhiều bí ẩn. Có rất nhiều giai thoại về hoàn
cảnh xuất thân, cuộc sống và cá tính của bà. Hiện nay phần đông các nhà nghiên cứu
thống nhất ý kiến : Bà là con ông Hồ Phi Diễn, một nhà nho nghèo quê ở Nghệ An.
Ông Hồ Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân H-ơng. Gia đình
bà từng sống ở Thăng Long và bà từng dựng ngôi Cổ Nguyệt đ-ờng để đón tiếp, giao
du với khách văn ch-ơng. Bà giao du rộng rãi, đ-ờng tình duyên của bà gặp nhiều trắc
trở.
2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân H-ơng. Chùm thơ bộc lộ
tâm sự của một ng-ời phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nh-ng luôn gặp
những điều bất hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là ng-ời phụ nữ đằm thắm, cá tính
mãnh liệt nh-ng không thiếu sự dịu dàng, yếu đuối của nữ tính.

3. Trong khi đọc, chú ý cách gieo vần theo niêm luật của thơ thất ngôn bát cú.
II Kiến thức cơ bản
Những nhà thơ có cá tính mạnh mẽ đều là những ng-ời tinh tế tr-ớc b-ớc chuyển
của thời gian. Thời gian vô thuỷ, vô chung, đời ng-ời thì hữu hạn. Hoặc giả thời gian
nếu có tuần hoàn thì tuổi trẻ vẫn qua đi. Thế đối nghịch giữa thời gian với cuộc đời,
đặc biệt là với tuổi trẻ và tình yêu khơi nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ mà tâm
trạng của nhân vật trữ tình th-ờng là buồn đau da diết. Bài Tự tình của Hồ Xuân
H-ơng là một bài thơ nh- thế.
Đ-ờng tình duyên vốn đã chẳng êm xuôi, lại thêm tính tình Xuân H-ơng khẳng
khái có chút ngang tàng, tất cả khiến ng-ời nữ sĩ không thể gò đ-ợc mình vào cái
khung vừa chật hẹp, vừa hà khắc của thời phong kiến. Sự bẽ bàng và chua chát xuất
phát từ đây. Cuộc đời hai lần phải đi làm lẽ, với ng-ời phụ nữ thời phong kiến, nhvậy cũng có thể xem là đã "chẳng còn gì". Nh-ng còn buồn hơn, ở Hồ Xuân H-ơng,
sự gắng g-ợng ấy lại còn chẳng đến đâu. Xem thơ Hồ Xuân H-ơng thì dễ thấy, những
bài thơ dự đoán là đ-ợc làm vào giai đoạn sau này có nhiều bài tỏ ra chán nản (trong
đó có bài Tự tình này). Thơ ít thấy cái khẩu khí mạnh mẽ và quyết liệt. Giọng thơ
trầm, sâu lắng và nhiều "tâm sự" hơn.
Nh- đã nói, bài Tự tình này khai thác thế đối nghịch giữa thời gian với tuổi trẻ và
tình yêu. Bài thơ là mạch cảm xúc của nhiều niềm tâm sự. Niềm tâm sự ấy đến vào
25


×