Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Đánh giá tình hình công tác bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn thành phố hạ long – quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.71 KB, 105 trang )

1

MỤC LỤC


2

TÀI LIỆU THAM KHÁO
1 .Bộ Tài nguyên và Môi trường (2009): Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT
ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất.

2. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004): Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 về hướng dẫn thi hành Luật đất đai.
3. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004): Nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất
và khung giá các loại đất.

4.

Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2004): Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất.

5. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2007): Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;

6. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (2009): Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu


hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

7. Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Hạ Long: Báo cáo thuyết minh quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2015 thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

8. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (1993): Luật Đất đai ngày 14 tháng 7 năm 1993.
9. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2003): Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm
2003.

10.

Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2007): Luật đất đai năm 2003


3

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 01: Bảng kết quả bồi thường về đất
Bảng 02: Bảng kết quả bồi thường về kiến trúc, tài sản, cây hoa màu gắn
liền với đất
Bảng 03: Bảng kết quả chính sách hỗ trợ
DANH MỤC BIỂU ĐỒ


4

Bảng 01: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011 – 2014.LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, khoa
Quản lí đất đai, em đã hoàn thành tốt đợt thực tập tốt nghiệp tại Trung tâm phát
triển quỹ đất thành phố Hạ Long. Trong quá trình học tập cũng như hoàn thành báo

cáo thực tập tốt nghiệp, em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô giáo
và các anh (chị) Trung tâm.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trường Đại học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô khoa Quản lí đất đai đã đào tạo, tu dưỡng,
rèn luyện, trang bị cho em đầy đủ kiến thức về chuyên ngành cũng như mọi kiến
thức ngoài xã hội.
Đặc biệt hơn hết, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Thạc sĩ: Nguyễn Thị
Khuy – cô đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt, giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện báo cáo tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn Phòng Tài nguyên – Môi trường thành phố Hạ
Long và một số phòng chức năng của thành phố, đặc biệt là Trung tâm phát triển
quỹ đất thành phố đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình hoàn thành báo
cáo tốt nghiệp.
Trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường cũng như ở đơn vị thực tập, do
nhận thức của em còn nhiều hạn chế nên báo cáo vẫn còn nhiều thiếu sót, kính
mong được thầy cô chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ em để em có thể nâng cao được
nhận thức của mình cũng như đạt được kết quả tốt nhất trong bài báo cáo này.


5

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư,
xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai là tài sản
do Nhà nước thống nhất quản lí.
Đất đai là nguồn tài chính tiềm năng, nguồn nội lực cơ bản để phát triển kinh
tế đất nước, nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Cùng với sự phát triển của xã hội,

đất đai đã được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau và nhu cầu sử dụng đất ngày
một tăng lên. Việc sử dụng đất có hiệu quả về kinh tế - xã hội và tính bền vững môi
trường ngày càng có ý nghĩa.
Sử dụng đất đai vào các mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, đặc biệt là các dự án phát triển
đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế là một tất yếu khách quan trong
quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để có mặt bằng xây
dựng các dự án, Nhà nước phải thu hồi đất của nhân dân và thực hiện bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi.
Trong những năm qua, việc bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng, tái định
cư là hiện tượng mà Nhà nước phải đối mặt như một quy luật tất yếu và phổ biến.
Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế
- chính trị - xã hội.
Trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và
tổ chức chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Tuy nhiên, đất đai và công tác
bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vẫn
còn tồn tại nhiều vướng mắc và gây nhiều bức xúc trong nhân dân.
Quảng Ninh là một trong ba tỉnh kinh tế trọng điểm khu vực phía Bắc. Cũng
chính bởi sự phát triển về kinh tế - xã hội như vậy nên việc quy hoạch đất đai để
xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ sản xuất...ngày càng trở nên có ý nghĩa thiết
thực hơn. Đặc biệt là ở thành phố Hạ Long – thành phố trực thuộc của tỉnh có nền


6

kinh tế phát triển nhất thì vấn đề này càng trở nên quan trọng hơn cả. Đi đôi với nó
là công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất luôn trở thành đề tài nóng hổi, gây nhiều bức xúc tranh cãi trong nhân dân.
Xuất phát từ những thực tiễn trên, em đã tiến hành cuộc khảo sát thực tế trên
địa bàn thành phố Hạ Long – một trong những thành phố có nền kinh tế phát triển

khu vực miền Bắc và thực hiện nghiên cứu chuyên đề: “Đánh giá tình hình công
tác bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án
trên địa bàn thành phố Hạ Long – Quảng Ninh”. Với mục đích điều tra, tìm hiểu
thực trạng và tìm ra nguyên nhân gây cản trở, từ đó đề xuất một số giải pháp góp
phần đẩy nhanh tiến độ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính của Nhà nước.

2. Mục đích - yêu cầu
2.1. Mục đích
-

Tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn thành phố Hạ Long –
Quảng Ninh.
-

Rút ra những ưu điểm và vấn đề còn hạn chế trong việc thực hiện chính

sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại một số dự án trên địa bàn thành phố Hạ
Long – Quảng Ninh.
-

Đề xuất ý kiến, giải pháp góp phần hoàn thiện và đẩy mạnh công tác bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho mục đích quốc
phòng an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng...
2.2. Yêu cầu
-


Hiểu và nắm vững các chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng cũng

như các văn bản pháp lí có liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng.
-

Các tài liệu, số liệu đã điều tra thu thập phải phản ánh trung thực, khách quan.

-

Đưa ra những ý kiến đề xuất phải có tính khả thi phù hợp với thực trạng

của địa phương và quy định của Nhà nước về công tác bồi thường hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.


7

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất
1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư:
1.1.1. Bồi thường và chính sách bồi thường:
- Bồi thường thiệt hại có nghĩa là trả lại tương xứng giá trị hoặc công lao cho
một chủ thể nào đó bị thiệt hại vì một hành vi của chủ thể khác.
- Quyết định thu hồi đất: Là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, cá nhân sử dụng.
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất: Là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền
sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi.
- Giải phóng mặt bằng là quá trình tổ chức thực hiện các công việc liên quan
đến di dời nhà cửa, cây cối và các công trình xây dựng trên phần đất nhất định được

quy định cho việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng một công trình mới trên đó.
- Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng từ khi thành lập Hội đồng giải
phóng mặt bằng cho tới khi bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư.
1.1.2. Hỗ trợ:
Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: Là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất
thông qua đào tạo nghề mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
1.1.3. Tái định cư:
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh sống và
làm ăn. Tái định cư bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà nước thu
hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển.
Tái định cư được hiểu là một quá trình từ bồi thường thiệt hại về đất, tài sản;
di chuyển đến nơi ở mới và các hoạt động hỗ trợ để xây dựng lại cuộc sống, thu
nhập, cơ sở vật chất tinh thần tại đó.
Như vậy, TĐC là hoạt động nhằm giảm nhẹ các tác động xấu về kinh tế, xã
hội đối với một bộ phận dân cư đã gánh chịu vì sự phát triển chung.
Hiện nay ở nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì


8

người sử dụng đất được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau:
- Bồi thường bằng nhà ở;
- Bồi thường bằng giao đất ở mới;
- Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở.
Tái định cư là một bộ phận không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong
chính sách giải phóng mặt bằng.
1.2. Đặc điểm của quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các công trình mang tính đa
dạng và phức tạp.
a- Tính đa dạng thể hiện: mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác

nhau với điều kiện tự nhiên kinh tế, xã hội dân cư khác nhau. Khu vực nội thành,
mật độ dân cư cao, ngành nghề đa dạng, giá trị đất và tài sản trên đất lớn; khu vực
ven đô, mức độ tập trung dân cư khá cao, ngành nghề dân cư phức tạp, hoạt động
sản xuất đa dạng: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn bán nhỏ;
khu vực ngoại thành, hoạt động sản xuất chủ yếu của dân cư là sản xuất nông
nghiệp. Do đó mỗi khu vực bồi thường GPMB có những đặc trưng riêng và được
tiến hành với những giải pháp riêng phù hợp với những đặc điểm riêng của mỗi khu
vực và từng dự án cụ thể.
b- Tính phức tạp: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng trong
đời sống kinh tế - xã hội đối với mọi người dân. Đối với khu vực nông thôn, dân cư
chủ yếu sống nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản
xuất quan trọng trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi
nghề nghiệp khó khăn do đó tâm lý dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất,
thậm chí họ cho thuê đất còn được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn
không cho thuê. Mặt khác, cây trồng, vật nuôi trên vùng đó cũng đa dạng dẫn đến
công tác tuyên truyền, vận động dân cư tham gia di chuyển, định giá bồi thường rất
khó khăn và việc hỗ trợ chuyển nghề nghiệp là điều cần thiết để đảm bảo đời sống
dân cư sau này.


9

- Đối với đất ở lại càng phức tạp hơn do những nguyên nhân sau:
+ Đất ở là tài sản có giá trị lớn, gắn bó trực tiếp với đời sống và sinh hoạt của
người dân mà tâm lý, tập quán là ngại di chuyển chỗ ở.
+ Nguồn gốc sử dụng đất khác nhau qua nhiều thời kỳ với chế độ quản lý khác
nhau, cơ chế chính sách không đồng bộ dẫn đến tình trạng lấn chiếm đất đai xây
nhà trái phép diễn ra thường xuyên.
+ Thiếu quỹ đất do xây dựng khu tái định cư cũng như chất lượng khu tái định
cư thấp chưa đảm bảo được yêu cầu.

+ Dân cư một số vùng sống chủ yếu bằng nghề buôn bán nhỏ và sống bám vào
các trục đường giao thông của khu dân cư làm kế sinh nhai nay chuyển đến ở khu
vực mới thì điều kiện kiếm sống bị thay đổi nên họ không muốn di chuyển.
Từ các điểm trên cho thấy mỗi dự án khác nhau thì công tác GPMB được thực
hiện khác nhau.
1.3. Căn cứ pháp lí trong công tác bồi thường GPMB
1.3.1. Các văn bản pháp quy của nhà nước có liên quan đến công tác bồi thường
GPMB
- Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
+ Điều 17: Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất,
nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước
đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá,
xã hội, khoa học, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp
luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.
+ Điều 18: Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho
các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm
bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng
đất, được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật.
+ Điều 58: Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp


10

hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao thì được sử
dụng theo Điều 17 và Điều 18.
- Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
+ Điều 173: Quyền sở hữu.
+ Điều 176: Căn cứ xác lập quyền sở hữu.

+ Điều 177: Căn cứ chấm dứt quyền sở hữu.
+ Điều 180: Chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật.
+ Điều 738-774: Quy định thừa kế quyền sử dụng đất.
- Luật đất đai:
+ Luật Đất đai năm 1993.
+ Luật Đất đai năm 2003.
- Các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định:
Người sử dụng đất nông nghiệp, đất có rừng vào mục đích khác phải đền bù
thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước và bồi thường thiệt hại về
tài sản cho người có đất bị thu hồi để giao cho mình sử dụng.
+ Nghị định số 90/CP ngày 17/08/1994 của Chính phủ ban hành quy định về
đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc
phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
+ Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 của Chính phủ về việc bồi
thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành
Luật đất đai.
+ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương
pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
+ Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ về Quy định
bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện


11

quyền sử dụng đất, trình tự bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
và giải quyết khiếu nại về đất đai.

+ Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ
về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
+ Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ
sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư;
+ Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
+ Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện Nghị đinh 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Thông tư số 120/2005/TT-BTC ngày 30/12/2005 của Bộ Tài chính về hướng
dẫn thực hiện Nghị đinh số 142/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của Chính phủ về thu tiền
thuê đất, thuê mặt nước.
+ Thông tư số 69/2006/TT-BTC ngày 02/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn
sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị đinh 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
+ Thông tư số 06/2007/TT- BTNMT ngày 25/5/2007 hướng dẫn thực hiện một
số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ về Quy
định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
và giải quyết khiếu nại về đất đai.
+ Thông tư số 141/2007/TT-BTC ngày 31/11/2007 của Bộ Tài chính hướng
dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 120/2005/TT-BTC ngày 30/12/2005 của Bộ Tài


12


chính về hướng dẫn thực hiện Nghị đinh số 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005 của
Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.
+ Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục
thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất;
1.3.2. Các văn bản pháp quy của địa phương có liên quan đến công tác bồi
thường GPMB
- Quyết định số 499/2010/QĐ-UBND ngày 11/02/2010 của UBND tỉnh Quảng
Ninh “Về việc ban quy định thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.
- Quyết định số 1748/2010/QĐ-UBND ngày 11/6/2010 của UBND tỉnh Quảng
Ninh “V/v sửa đổi, bổ sung Khoản 2, Điều 17 quy định kèm theo Quyết định số
499/2010/QĐ-UBND ngày 11/02/2010 của UBND Tỉnh về bồi thường, hỗ trợ &
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”;
- Quyết định số 1766/2014/QĐ-UBND ngày 13/08/2014 của UBND tỉnh
Quảng Ninh “V/v ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất theo Luật đất đai năm 2013 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.
- Quyết định số 1768/2014/QĐ-UBND ngày 13/08/2014 của UBND tỉnh
Quảng Ninh “Quy định hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích
đất ở tối thiểu được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh”;
- Quyết định số 4166/2011/QĐ-UB ngày 26/12/2011 của UBND tỉnh Quảng
Ninh “V/v quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2012”;
- Quyết định số 398/2012/QĐ-UBND ngày 27/2/2012 của UBND tỉnh Quảng
Ninh “V/v ban hành bộ đơn giá bồi thường tài sản đã đầu tư vào đất khi Nhà nước
thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”;


13


2. CHÍNH SÁCH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ KINH
NGHIỆM CHO VIỆT NAM
2.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại
một số nước trên thế giới
Đối với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, đất đai là nguồn lực quan trọng
nhất, cơ bản của mọi hoạt động đời sống kinh tế - xã hội. Khi Nhà nước thu hồi đất
phục vụ cho các mục đích của quốc gia đã làm thay đổi toàn bộ đời sống kinh tế của
hàng triệu hộ dân và người dân, người bị ảnh hưởng không những không hạn chế về
số lượng mà còn có xu hướng ngày càng tăng. Đặc biệt, ở những nước đang phát
triển, người dân chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp đó là vấn đề sống còn của họ.
Dưới đây là một số kinh nghiệm quản lý đất đai của các nước trên thế giới sẽ phần
nào giúp ích cho Việt Nam chúng ta, đặc biệt trong chính sách bồi thường GPMB.
a. Trung Quốc
Hiến Pháp Trung quốc quy định có 2 hình thức sở hữu đất đai: Sở hữu Nhà
nước và sở hữu tập thể. Vì đất đai thuộc sở hữu Nhà nước nên khi thu hồi đất, kể cả
đất nông nghiệp tùy từng trường hợp cụ thể, Nhà nước sẽ cấp đất mới cho các chủ
sử dụng bị thu hồi đất và bồi thường cho các công trình gắn liền với đất bị thu hồi.
Về phương thức bồi thường, Nhà nước thông báo cho người sử dụng đất biết trước
cho việc họ sẽ bị thu hồi đất trong thời hạn một năm. Người dân có quyền lựa chọn các
hình thức bồi thường bằng tiền hoặc bằng nhà tại khu ở mới. Tại thủ đô Bắc Kinh và
thành phố Thượng Hải, người dân thường lựa chọn bồi thường thiệt hại bằng tiền và tự
tìm chỗ ở mới phù hợp với nơi làm việc của mình.
Về giá bồi thường, tiêu chuẩn là giá thị trường. Mức giá này cũng được Nhà
nước quy định cho từng khu vực và chất lượng nhà, đồng thời được điều chỉnh rất
linh hoạt cho phù hợp với thực tế, vừa được coi là Nhà nước tác động điều chỉnh tại
chính thị trường đó. Đối với đất nông nghiệp, bồi thường theo tính chất của đất và
loại đất (tốt, xấu).



14

Về TĐC, các khu TĐC và các khu nhà ở được xây dựng đồng bộ và kịp thời,
thường xuyên đáp ứng nhu cầu nhiều loại căn hộ với các nhu cầu sử dụng khác
nhau. Các chủ sử dụng phải di chuyển đều được chính quyền chú ý tạo điều kiện về
việc làm, đối với các đối tượng chính sách xã hội được Nhà nước có chính sách
riêng.
Khi di dời thực hiện nguyên tắc chỗ ở mới tốt hơn chỗ ở cũ. Khu TĐC được
quy hoạch tổng thể (nhà ở, trường học, chợ), cân đối được giao thông động và tĩnh.
Trong quá trình bồi thường GPMB phải lập các biện pháp xử lý theo phương thức
trước tiên là dựa vào trọng tài, sau đó khiếu tố.
Tại thành phố Thượng Hải, tiêu chuẩn sắp xếp bồi thường di dời nhà hiện nay
được thực hiện theo 3 loại:
- Loại 1: Lấy theo giá thị trường của nhà đất đối với nhà bị tháo dời cộng thêm với
“Giá tăng thêm nhân với diện tích xây dựng của ngôi nhà bị tháo dỡ”.
- Loại 2: Đổi nhà theo tiêu chuẩn giá trị, bố trí nhà lấy theo giá thị trường, giá
tương đương với giá nhà bị tháo dỡ, di dời.
- Loại 3: Bố trí nhà theo tiêu chuẩn diện tích, đây là tiêu chuẩn chính quyền
quận, huyện nơi có nhà di dời lập ra đối với những người có khó khăn về nhà ở.
Người bị di dời có thể chọn hình thức bố trí nhà ở cho phù hợp. Dựa vào khu vực
bố trí nhà ở để tăng thêm diện tích, dựa theo phân cấp từng vùng trong thành phố.
Càng ra ngoại vi hệ số tăng thêm càng cao, mức tăng thêm có thể là 70%, 80% hay
100%.
b. Thái Lan
Hiến pháp Thái Lan năm 1982 quy định việc trưng dụng đất cho các mục đích
xây dựng cơ sở hạ tầng, quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên cho đất nước, phát
triển đô thị, cải tạo đất đai và các mục đích công cộng khác phải theo giá thị trường
cho những người có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về tất cả các thiệt hại
do việc trưng dụng gây ra và quy định việc bồi thường phải khách quan cho người
chủ mảnh đất và người có quyền thừa kế tài sản đó. Dựa trên các quy định này, các

ngành có quy định chi tiết cho việc thực hiện trưng dụng đất của ngành mình.


15

Năm 1987 Thái Lan ban hành Luật về trưng dụng BĐS áp dụng cho việc trưng
dụng đất sử dụng vào các mục đích xây dựng tiện ích công cộng, quốc phòng, phát
triển nguồn tài nguyên hoặc các lợi ích khác cho đất nước, phát triển đô thị, nông
nghiệp, công nghiệp, cải tạo đất đai vào các mục đích công cộng. Luật quy định
những nguyên tắc về trưng dụng đất, nguyên tắc tính giá trị bồi thường các loại tài
sản bị thiệt hại. Căn cứ vào đó, từng ngành đưa ra các quy định cụ thể và trình tự
tiến hành bồi thường TĐC, nguyên tắc cụ thể xác định giá trị bồi thường, các bước
lập và phê duyệt dự án bồi thường, thủ tục thành lập các cơ quan, ủy ban tính toán bồi
thường TĐC, trình tự đàm phán, nhận tiền bồi thường, quyền khiếu nại, quyền khởi
kiện đưa ra tòa án. Ví dụ: trong ngành điện năng thì cơ quan điện lực Thái Lan là nơi
có nhiều dự án bồi thường TĐC lớn nhất nước, họ đã xây dựng chính sách riêng với
mục tiêu: “Đảm bảo cho những người bị ảnh hưởng một mức sống tốt hơn” thông
qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng có chất lượng và đạt mức tối đa nhu cầu, đảm bảo
cho những người bị ảnh hưởng có thu nhập cao hơn và được tham gia nhiều hơn vào
quá trình phát triển xã hội, vì thực tế đã tỏ ra hiệu quả khi nhu cầu thu hồi đất trong
nhiều dự án.
c. Hàn Quốc
Hàn Quốc là một nước nhỏ hẹp với 70% diện tích là đất đồi, núi cho nên đất
công cộng được xem là một vấn đề hết sức quan trọng. Do đó để sử dụng đất một
cách hiệu quả hơn thì các quy hoạch, và quy chế được coi như một hình thức pháp
luật.
Luật đất đai của Hàn Quốc được xác lập trên cơ sở Luật quy hoạch đô thị cho từng
đô thị và Luật quản lý sử dụng quốc thổ bao gồm tất cả các đô thị, Nhà nước chỉ định
năm khu vực sử dụng để cân bằng sự phát triển đồng bộ.
Đặc biệt, khái niệm cơ bản của luật quản lý sử dụng quốc thổ công khai rõ

ràng về đất đai. Đây có ý nghĩa là tách riêng hai phần quyền sở hữu và quyền sử
dụng đất để nhấn mạnh tầm quan trọng của đất công cộng trong xã hội. Chế độ này
giúp việc sử dụng đất một cách hữu dụng bằng cách thúc đẩy quyền sử dụng đất
nhiều hơn quyền sở hữu đất. Với khái niệm công khai đất đai, hạn chế sở hữu đất,


16

hạn chế sử dụng đất, hạn chế lợi ích phát sinh, hạn chế thanh lý các quy chế công
cộng được áp dụng theo luật pháp và cách tính các quy chế như thế này được xem là
đặc trưng của luật liên quan đến đất đai của Hàn Quốc.
Luật bồi thường GPMB của Hàn Quốc được chia ra thành hai thể chế. Một là
“đặc lệ” liên quan đến bồi thường GPMB cho đất công cộng đã đạt được theo thủ
tục thương lượng của pháp luật. Hai là luật “sung công đất” theo thủ tục quy định
cưỡng chế của công pháp.
Để thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế thì cần rất nhiều đất công cộng trong
một khoảng thời gian ngắn với mục đích cưỡng chế đất cho nên luật “sung công
đất” đã được thiết lập trước vào năm 1962. Sau đó theo pháp luật ngoài mục đích
thương lượng thu hồi đất công cộng thì còn muốn thống nhất việc này trên phạm vi
toàn quốc và đảm bảo quyền tài sản của công nên luật này đã được lập vào năm
1975 và dựa vào hai luật trên Hàn Quốc đã triển khai bồi thường cho đến nay. Tuy
nhiên dưới hai thể chế luật và trong quá trình thực hiện luật “đặc lệ” thương lượng
không đạt được thỏa thuận thì luật “sung công đất” được thực hiện bằng cách cưỡng
chế, nhưng nếu cứ như vậy thì phải lặp đi lặp lại quá trình này và đôi khi trùng lặp
cho nên thời gian có thể bị kéo dài hoặc chi phí cho bồi thường sẽ tăng lên. Do đó,
cho đến nay đã có nhiều thảo luận thống nhất hai thể chế này thành một.
Thực hiện bồi thường theo luật mới của Hàn Quốc thì sẽ thực hiện theo ba giai
đoạn:
Thứ nhất: Tiền bồi thường đất đai được giám định viên công cộng đánh giá
trên tiêu chuẩn giá quy định để thu hồi đất phục vụ cho công trình công cộng. Mỗi

năm Hàn Quốc cho thi hành đánh giá đất trên 27 triệu địa điểm trên toàn quốc và
chỉ định 470.000 địa điểm làm tiêu chuẩn và thông qua đánh giá của giám định để
dựa theo đó hình thành giá quy định cho việc bồi thường. Giá quy định không dựa
vào lợi nhuận khai thác do đó có thể đảm bảo sự khách quan trong việc bồi thường.
Thứ hai: Pháp luật có quy định không gây thiệt hại nhiều cho người có quyền
sở hữu đất trong quá trình thương lượng chấp thuận thu hồi đất. Quy trình chấp


17

thuận theo thứ tự là công nhận mục đích, lập biên bản tài sản và đất đai, thương
lượng, chấp nhận thu hồi.
Thứ ba: Biện pháp di dời là một đặc điểm quan trọng. Nhà nước hỗ trợ tích
cực về mặt chính sách đảm bảo sự sinh hoạt của con người, cung cấp đất đai cho
những người bị mất nơi cư trú do thực hiện công trình công cộng cần thiết của Nhà
nước. Đây là công việc có hiệu quả lôi cuốn người dân tự nguyện di dời và liên
quan rất nhiều tới việc GPMB. Theo luật bồi thường, nếu như tòa nhà nơi dự án sẽ
được thực hiện có trên 10 người sở hữu thì phải xây dựng cho các đối tượng này nơi
cư trú hoặc hỗ trợ 30% giá trị của tòa nhà đó. Còn nếu như các dự án xây dựng
chung cư nhà ở thì cung cấp cho các đối tượng này chung cư hoặc nhà ở thấp hơn
giá thành.
Đối với các đối tác kinh doanh để kiếm sống nhưng không có pháp nhân, các
đối tác kinh doanh nông nghiệp, gia cầm thì có chính sách mang tính chất ân huệ
ngoài biện pháp di dời còn ưu tiên cung cấp cho họ các cửa hàng hoặc khu kinh
doanh.
Luật bồi thường Hàn Quốc được thực hiện theo ba giai đoạn trên đối với đất
đai, bất động sản và các quyền kinh doanh nông nghiệp, ngư nghiệp, khoáng sản…
để cung cấp tiền bồi thường và chi phí di dời.
Chế độ và luật GPMB: theo luật sung công đất đai thì nếu như đã trả hoặc đặt
cọc tiền bồi thường xong nhưng không chịu di dời thì được xem như gây hại cho lợi

ích công cộng do đó phải thi hành cưỡng chế giải tỏa được thực hiện quyền thi hành
theo luật thực hiện thi hành hành chính và quyền thi hành ngày phải theo thủ tục
pháp lệnh cảnh cáo theo quy định. Thực chất biện pháp GPMB thường bị người dân
hoặc các người ở thuê phản đối và chống trả quyết liệt gây ảnh hưởng xấu đến xã
hội cho nên tốt nhất là phải có sự nghiên cứu tìm ra biện pháp cho dân tự nguyện di
dời là hay hơn cả.
2.2. Kinh nghiệm cho Việt Nam
Việc xây dựng và phát triển các công trình đều cần có đất. Do đất đai có hạn,
vì thế mọi Nhà nước đều phải sử dụng quyền lực của mình để thu hồi đất hoặc trưng


18

thu của người đang sở hữu, đang sử dụng để phục vụ cho nhu cầu xây dựng các
công trình phục vụ lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia. Ở mỗi nước, quyền lực thu
hồi, trưng thu đất được ghi trong Hiến pháp hoặc tại Bộ Luật đất đai hoặc một bộ
luật khác. Nếu việc thu hồi, trưng thu đã phù hợp với quy định của pháp luật mà
người sở hữu hoặc sử dụng đất không thực hiện thì Nhà nước có quyền chiếm hữu
đất đai. Việc thu hồi đất, trưng thu đất và bồi thường thiệt hại về đất tại mỗi quốc
gia đều được thực hiện theo chính sách riêng do Nhà nước đó quy định.
Qua nghiên cứu chính sách bồi thường GPMB của một số nước chúng ta cần
học hỏi các kinh nghiệm để tiếp tục hòan thiện chính sách bồi thường GPMB ở một
số điểm sau:
- Hoàn thiện các quy định về định giá đất nói chung và định giá đất để bồi
thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư nói riêng;
- Thực hiện thống nhất trình tự, thủ tục thực hiện và thực hiện tốt quy định về
thẩm định, phê duyệt, giám sát thực hiện phương án bồi thường, giải phóng mặt
bằng; quan tâm hơn nữa tới việc quy hoạch và xây dựng nơi tái định cư, tạo việc
làm của người có đất bị thu hồi; xử lý hài hòa mối quan hệ lợi ích giữa người sử
dụng đất, Nhà nước và nhà đầu tư.

3. CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ GPMB VÀ TÁI ĐỊNH CƯ Ở VIỆT
NAM
3.1. Chính sách bồi thường, hỗ trợ GPMB và tái định cư ở Việt Nam
3.1.1. Thời kỳ trước 1987
3.1.1.1. Hiến pháp 1946
Sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, lần đầu tiên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Hiến pháp vào năm 1946. Đến năm 1953, Nhà
nước ta thực hiện cuộc cải cách ruộng đất và Luật cải cách ruộng đất được ban
hành. Một trong những mục tiêu đầu tiên của cuộc cải cách là: Thủ tiêu quyền
chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và đế quốc xâm lược ở Việt Nam, xóa bỏ
chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở
hữu ruộng đất của nông dân. Sau đó, Đảng và Nhà nước ta đã vận động nông dân


19

vào làm ăn tập thể, đồng thời Nhà nước thành lập các nông trường quốc doanh, các
trạm trại nông nghiệp - hình thức sở hữu tập thể.
3.1.1.2. Nghị định số 151-TTg
Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 151-TTg Ngày 14/4/1959, quy
định về thể lệ tạm thời trưng dụng ruộng đất, là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan
đến việc bồi thường và tái định cư ở Việt Nam, sau đó Ủy ban kế hoạch Nhà nước
và Bộ Nội vụ ban hành thông tư liên bộ số 1424/TTg của Chính phủ quy định thể lệ
tạm thời về trưng dụng ruộng đất để làm địa điểm xây dựng các công trình kiến
thiết cơ bản với nguyên tắc phải đảm bảo kịp thời và diện tích đủ cần thiết cho công
trình xây dựng kiến thiết cơ bản, đồng thời chiếu cố đúng mức quyền lợi và đời
sống của người có ruộng đất. Đất thuộc sở hữu tư nhân hoặc tập thể khi bị trưng
dụng thì thuộc sở hữu của Nhà nước. Về mức bồi thường và cách tính bồi thường
theo Nghị định 151/TTg:
- Về việc bồi thường thiệt hại do lấy đất gây nên phải bồi thường hai khoản:

về đất thì bồi thường từ 1 đến 4 năm sản lượng thường niên của ruộng đất bị trưng
thu.
- Đối với hoa màu thì được bồi thường đúng mức.
- Đối với nhà cửa, vật kiến trúc và các công trình phục vụ sinh hoạt được giúp
đỡ xây dựng cái khác.
- Ngoài ra, mồ mả thì căn cứ vào tình hình cụ thể về phong tục tập quán của
địa phương mà giúp cho họ một số tiền làm phí tổn di chuyển.
Có thể nói, những nguyên tắc cơ bản của việc bồi thường thiệt hại trong nghị định
này là đúng đắn, đáp ứng nhu cầu trưng dụng đất đai trong những năm 1960. Cách bồi
thường như vậy được thực hiện cho đến khi Hiến pháp 1980 ra đời.
3.1.2. Thời kỳ 1987 đến 1993
Hiến pháp 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, chính vì vậy việc thực
hiện bồi thường về đất không được thực hiện mà chỉ thực hiện bồi thường những tài
sản có trên đất hoặc những thiệt hại do việc thu hồi đất gây nên.


20

Luật Đất đai năm 1988 ban hành quy định về việc bồi thường cũng cơ bản dựa
trên những điều quy định tại Hiến pháp 1980.
Ngày 31/5/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 186/HĐBT về
việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi bị chuyển mục đích sử dụng
vào mục đích khác thì phải bồi thường. Căn cứ để tính bồi thường thiệt hại về đất
nông nghiệp và đất có rừng theo quyết định này là diện tích, chất lượng và vị trí đất.
Mỗi hạng đất tại mỗi vị trí đều quy định giá tối đa, tối thiểu. UBND các tỉnh, thành
phố quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại của địa phương mình sát với giá đất
thực tế ở địa phương nhưng không thấp hơn hoặc cao hơn khung giá định mức. Tổ
chức, cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào
mục đích khác thì phải bồi thường về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước.
Khoản tiền này được nộp vào ngân sách Nhà nước và sử dụng vào việc khai hoang,

phục hóa, trồng rừng, cải tạo đất nông nghiệp, ổn định cuộc sống, định canh, định
cư cho vùng bị lấy đất.
Tại quyết định này, mức bồi thường còn được phân biệt theo thời hạn sử dụng
đất lâu dài hay tạm thời quy định việc miễn giảm tiền bồi thường đối với việc sử
dụng đất để xây dựng hệ thống đường giao thông, thủy lợi…
3.1.3. Thời kỳ 1993 đến 2003
3.1.3.1 Hiến pháp 1992
Hiến pháp 1992 (thay thế Hiến pháp 1980) đã quy định:
“ Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”.
- Điều 17 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong
lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời và tài sản do Nhà nước đầu tư
vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa
học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy
định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
- Điều 18 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy
hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao


21

đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách
nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử
dụng đất Nhà nước giao theo quy định của pháp luật”.
- Điều 23 quy định: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc
hữu hoá. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc
tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định”.
- Điều 58 quy định về quyền sở hữu cá nhân: “Công dân có quyền sở hữu về
thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn

và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất
được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và điều 18. Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Những quy định trên đã tạo điều kiện củng cố quyền hạn riêng của Nhà nước
trong việc thu hồi đất đai cho mục đích an ninh, quốc phòng và các lợi ích quốc gia.
3.1.3.2. Luật Đất đai năm 1993
Luật Đất đai 1993 có hiệu lực từ ngày 15/10/1993 thay thế cho Luật đất đai
1988.
Đây là văn bản pháp luật quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và bồi thường
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Luật đất đai quy định các loại đất sử dụng, các
nguyên tắc sử dụng từng loại đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Một thủ
tục rất quan trọng và là cơ sở pháp lý cho người sử dụng đất là họ được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Chính điều này làm căn cứ cho
quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Điều 12 Luật đất đai 1993 đã quy định: “Nhà nước xác định giá các loại đất
để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất hoặc cho thuê đất. Tính
giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất. Chính phủ quy định khung
giá các loại đất đối với từng vùng theo thời gian”.


22

- Điều 27 quy định: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì
người thu hồi đất được đền bù thiệt hại”.
Sau khi Luật đất đai 1993 được ban hành, Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn
bản dưới luật như Nghị định, Thông tư và các văn bản pháp quy khác về quản lý đất đai
nhằm cụ thể hoá các điều luật để thực hiện các văn bản đó, bao gồm:
- Nghị định 90/CP ngày 17/9/1994 quy định cụ thể các chính sách và phân biệt
chủ thể sử dụng đất, cơ sở pháp lý để xem xét tính hợp pháp của thửa đất để lập kế

hoạch bồi thường GPMB theo quy định khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng và
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Xét về tính chất,
nội dung, Nghị định 90/CP đã đáp ứng được một số yêu cầu nhất định, so với các
văn bản trước, Nghị định này là văn bản pháp lý mang tính toàn diện cao và cụ thể
hoá việc thực hiện chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, việc bồi thường
bằng đất cùng mục đích sử dụng, cùng hạng đất…
- Nghị định 87/CP ngày 17/8/1994 ban hành khung giá các loại đất.
- Thông tư Liên bộ số 94/TTLB ngày 14/11/1994 của Liên bộ Tài chính - Xây
dựng - Tổng cục Địa chính - Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn thi hành Nghị định
87/CP.
- Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998, thay thế Nghị định 90/CP nói
trên và quy định rõ phạm vi áp dụng, đối tượng phải bồi thường, đối tượng được bồi
thường, phạm vi bồi thường, đặc biệt người có đất bị thu hồi có quyền được lựa
chọn một trong ba phương án bồi thường bằng đất, bằng tiền hoặc bằng đất và bằng
tiền. Những nội dung mới đề cập trong NĐ 22/CP:
a- Về điều kiện được bồi thường về đất có những quy định cụ thể các đối
tượng được bồi thường. Giá đất để tính bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ
sở giá đất của địa phương ban hành theo quy định của Chính phủ nhân với hệ số K
để đảm bảo giá đất tính bồi thường phù hợp với khả năng sinh lợi và giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ở địa phương. Đối với đất bị thu hồi là do Nhà nước giao
sử dụng tạm thời, đất cho thuê, đất đấu thầu, thì người bị thu hồi đất không được


23

bồi thường về đất nhưng được bồi thường thiệt hại chi phí đã đầu tư vào đất.
Trường hợp đất thu hồi thuộc đất công ích của xã chưa giao cho ai sử dụng, khi giao
đất người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải bồi thường thiệt hại về đất
bằng tiền cho ngân sách xã. Người đang sử dụng đất công ích của xã được UBND
xã bồi thường thiệt hại chi phí đã đầu tư vào đất. Diện tích đất ở bồi thường cho mỗi

hộ gia đình theo hạn mức do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy
định, nhưng không vượt quá diện tích của đất bị thu hồi. Trong trường hợp đất ở bị
thu hồi lớn hơn diện tích đất ở được bồi thường theo quy định người bị thu hồi đất
có thể được bồi thường thêm một phần diện tích đất ở, tuỳ theo quỹ đất của địa
phương, phần còn lại được bồi thường bằng tiền.
b- Về bồi thường tài sản trên đất hợp pháp và có khả năng hợp pháp hoá được
bồi thường 100% giá trị tài sản, tài sản trên đất hợp pháp sẽ được trợ cấp 70% đến
80% mức bồi thường.
c- Về mức bồi thường, tài sản được bồi thường theo mức độ thiệt hại thực tế,
bằng giá trị hiện có của nhà và công trình, nhưng tổng mức bồi thường tối đa không
lớn hơn 100% và tối thiểu không nhỏ hơn 60% giá trị của nhà, công trình phụ độc lập
được bồi thường 100% theo bảng giá xây dựng mới.
Các Nghị định trước đây hầu như mới chỉ quan tâm đến nội dung bồi thường
cho đất bị thu hồi và các tài sản gắn liền với đất bị thu hồi thì Nghị định này đã đưa
các nội dung về công tác tổ chức thực hiện, quy định trách nhiệm của UBND các
cấp và Hội đồng bồi thường GPMB cấp huyện trong việc chỉ đạo lập phương án bồi
thường, xác định mức bồi thường hoặc trợ cấp cho từng tổ chức hộ gia đình, cá
nhân và tổ chức thực hiện bồi thường theo phương án đã được phê duyệt, tạo sự chủ
động cho các địa phương trong việc lựa chọn phương án bồi thường phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội quỹ đất của địa phương.
Điều 35 quy định: “Tuỳ theo quy mô sử dụng đất và tính chất của mỗi dự án,
UBND cấp tỉnh có thể giao trách nhiệm bồi thường cho các doanh nghiệp có chức
năng và đủ điều kiện kinh doanh cơ sở hạ tầng”.


24

Điều 39 quy định: “Trường hợp chủ dự án thoả thuận được với người có đất bị
thu hồi chấp nhận mức bồi thường thấp hơn quy định của Nghị định này và được
UBND cấp tỉnh cho phép thì được bồi thường theo mức đã thoả thuận”.

Nội dung mới được quy định là ngoài các đối tượng bị thiệt hại về đất và các
tài sản gắn liền với đất, cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp phải di chuyển khi
Nhà nước thu hồi đất cũng được công nhận là những người bị ảnh hưởng bởi dự án
và được hưởng trợ cấp ngừng việc trong thời gian ngừng sản xuất kinh doanh
nhưng không quá một năm.
d- Về phương thức và mức bồi thường đối với đất nông nghiệp, lâm nghiệp,
đất làm muối, nuôi trồng thuỷ sản bồi thường bằng đất có cùng diện tích và chất
lượng, nếu không có đất mới bồi thường bằng tiền; nếu đất được bồi thường có diện
tích nhỏ hơn và chất lượng kém hơn đất bị thu hồi, người bị ảnh hưởng được bồi
thường bằng tiền phần chênh lệch về diện tích và giá trị đất, nếu đất bồi thường có
giá trị cao hơn đất bị thu hồi thì người bị ảnh hưởng không phải nộp tiền phần
chênh lệch đó.
Đất ở đô thị là đất ở nội thành, nội thị xã, thị trấn dùng để xây nhà ở, các công
trình phục vụ nhu cầu ở và khuôn viên nếu có, phù hợp với quy hoạch đã được
duyệt. Đất được quy hoạch để xây dựng đô thị nhưng chưa có cơ sở hạ tầng thì
không được bồi thường như đất đô thị.
Đối với đất ở thuộc đô thị loại I và loại II chủ yếu bồi thường bằng nhà ở hoặc
bằng tiền do người bị ảnh hưởng quyết định. Bồi thường bằng đất chỉ được thực
hiện khi có dự án TĐC được phê duyệt. Trường hợp người bị ảnh hưởng đồng ý
nhận đất ở ngoại thành thì được hưởng có quyền đề nghị lựa chọn một trong ba
phương án bồi thường
Đối với đất ở nông thôn, người bị thu hồi đất được bồi thường bằng đất có cùng
mục đích sử dụng, mức tối đa được bồi thường bằng đất nơi ở mới không quá 400m2,
hoặc không quá 800m2 cho những vùng nông thôn có tập quán nhiều thế hệ cùng
chung sống trong một hộ hay điều kiện tự nhiên đặc biệt.


25

đ- Quy trình tiến hành nhận tiền bồi thường: Điều 34 quy định Việc lập Hội

đồng bồi thường thiệt hại GPMB có thể tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất
hoặc trước khi có quyết định thu hồi đất. Dựa trên cơ sở bản kê khai diện tích, hạng
đất, loại đất, số lượng tài sản….Hội đồng bồi thường thiệt hại GPMB kiểm tra, kiểm
kê thực tế từ đó xác định thiệt hại về đất và tài sản của các tổ chức, hộ gia đình cá
nhân có đất vị thu hồi và tài sản bị phá dỡ, tổng hợp lập án bồi thường trình các
ngành các cấp có liên quan. Trường hợp UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương quy định chế độ, mức bồi thường vượt quá quy định thì phần bồi thường vượt
mức do ngân sách địa phương có trách nhiệm chi trả. Đối với các dự án khi thực
hiện bồi thường thiệt hại GPMB chưa xác định được chủ sử dụng đất thì UBND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp tổ chức thực hiện bồi thường và chi
trả tiền bồi thường, chi phí bồi thường tính theo quy định tại Nghị định này được
phân bổ cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất thuộc phạm vi dự án chịu trách nhiệm
hoàn trả và nộp vào ngân sách Nhà nước ngay sau khi có quyết định giao đất hoặc
cho thuê đất.
e- Về cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, đối với các dự án khi bồi thường
GPMB, nếu người bị thu hồi đất thấy quyết định bồi thường không đúng với quy định
của pháp luật, thì được quyền khiếu nại và được giải quyết theo quy định của Pháp lệnh
khiếu nại và tố cáo. Tuy nhiên, trong khi chờ giải quyết khiếu nại vẫn phải chấp hành
di chuyển GPMB và giao đất đúng kế hoạch.
3.1.3.3. Luật sửa đổi một số điều của Luật Đất đai năm 1998
Luật sửa đổi một số điều của Luật Đất đai năm 1998 được Quốc hội thông qua
ngày 02/12/1998. Về cơ bản, Luật Đất đai sửa đổi năm 1998 vẫn dựa trên nền tảng
cơ bản của Luật cũ, chỉ một số điều được bổ sung thêm cho phù hợp thực tế.
Tháng 10/1999, Cục quản lý Công sản - Bộ Tài chính đã tiến hành dự thảo lần
thứ nhất về sửa đổi bổ sung Nghị định 22/1998/NĐ-CP về việc bồi thưòng thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất. Trong đó, một số điều cơ bản đã được đề nghị sửa đổi
như xác định mức đất để tính bồi thường, giá bồi thường, lập khu tái định cư, quyền
và nghĩa vụ của người bị thu hồi đất phải chuyển đến nơi ở mới, các chính sách hỗ



×