Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

Tình hình quản trị vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bia Sài GónPhú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.17 KB, 108 trang )

Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài.
Vốn là một phạm trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh
nghiệp, ngành nghề kinh tế kỹ thuật, dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến
hành hoạt động kinh doanh được, doanh nghiệp phảo nắm giữ một số lượng
vốn nhất định. Số vốn này thể hiện giá trị toàn bộ tài sản và các nguồn lực của
doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy vốn kinh doanh có vai trò
quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển doanh nghiệp.
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà Nước đã thực hiện chính sách
mở cửa nền kinh tế dẫn đến nhiều biến đổi, đặc biệt kể từ khi Việt Nam tham gia
vào tổ chức Thương Mại thế giới WTO, kinh tế nước ta đang có những bước
chuyển mình đi lên cùng nền kinh tế thế giới. Điều đó cho thấy một xu thế quốc
tế hóa đang trong giai đoạn diễn ra mạnh mẽ, nền kinh tế thế giới phát triển theo
xu thế toàn cầu hóa mang lại sức mạnh về tài chính, tận dụng công nghệ làm
giảm chi phí cho đầu tư, nghiên cứu, phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trước sự cạnh tranh gay gắt của yếu tố thị trường mang tính hội nhập như hiện
nay, huy động vốn mới chỉ là bước đầu; quan trọng hơn và mang tính chất quyết
định hơn là nghệ thuật phân bổ, sử dụng số vốn với hiệu quả cao nhất, đòi hỏi
đem lại lợi ích và góp phần nâng cao vị thế cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp luôn coi tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu hàng
đầu. Để thực hiện mục tiêu đó một cách thuận lợi thì doanh nghiệp phải xây
dựng các kế hoạch đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình một cách
hiệu quả nhất. Do vậy việc quả lý sử dụng vốn kinh doanh phải đúng mục đích
và hợp lý, được quay vòng một cách hiệu quả và mang lại lợi nhuận.
Vì thế, công tác tổ chức, quản lý, bảo toàn và sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả là công việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó quyết định trước tiên
đến sự tồn tại, tiếp đó là tới sự tăng trưởng phát triển của doanh nghiệp, là


điều kiện tiên quyết giúp doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình
trong nền kinh tế thị trường.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả tổ chức sử
dụng vốn kinh doanh kết hợp với quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần Bia
Sài Gòn-Phú Thọ,cùng với sự hướng dẫn tận tình của Th.s. Vũ Thị Hoa, em
xin đi sâu nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Tình hình quản trị vốn kinh doanh
tại Công ty Cổ phần Bia Sài Gón-Phú Thọ”
Đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Đối tượng của đề tài là lý luận và thực tiễn tình hình quản trị vốn kinh
doanh tại Công ty Cổ phần Bia Sài Gòn-Phú Thọ.
Luận văn nghiên cứu lý luận chung về quản trị vốn kinh doanh để sử
dụng có hiệu quả nhằm nâng cáo sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường. Đồng thời, đề tài đi sâu phân tích, đánh giá tình trạng của công
ty, tình hình sử dụng vốn kinh doanh và quản trị vốn kinh doanh, cùng các nhân tố
ảnh hưởng tới vốn kinh doanh của công ty. Từ đó, luận văn nghiên cứu những lợi thế
và hạn chế về sử dụng vốn kinh doanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty Cổ phần Bia Sài Gòn-Phú Thọ; đề ra các phương hướng và giải pháp sử dụng hiệu
quả vốn kinh doanh của công ty.
Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình quản trị vốn kinh doanh của Công
ty Cổ phần Bia Sài Gòn-Phú Thọ trong hai năm 2013 – 2014 thông qua các
chỉ tiêu báo cáo tài chính.
Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp

phân tích, so sánh, tổng hợp để tiến hành phân tích và đánh giá các mặt hoạt
động của doanh nghiệp. Đồng thời, đề tài cũng dùng những chỉ tiêu đánh giá
mang tính định lượng để đánh giá một cách toàn diện hoạt động quản trị vốn
tại Công ty Cổ phần Bia Sài Gòn-Phú Thọ.
Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm những nội dung chính như sau:


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vốn kinh doanh và quản trị
vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản trị Vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần
Bia Sài Gòn-Phú Thọ trong thời gian qua.
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản trị Vốn kinh
doanh tại Công ty Cổ phần Bia Sài Gòn-Phú Thọ.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính
CHƯƠNG 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN KINH DOANH VÀ
QUẢN TRỊ VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 VỐN KINH DOANH VÀ NGUỒN VỐN KINH DOANH CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1.1 Khái niệm, đặc trưng, vai trò của vốn kinh doanh.

1.1.1.1 Khái niệm
Trong nền kinh tể thị trường các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản
xuất kinh doanh đều với mục đích là sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để trao
đổi với các đơn vị kinh tế khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Tuy
nhiên, để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần thiết phải có một
lượng vốn nhất định. Vậy vốn là gì?
Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về vốn, và mỗi khái niệm đều
có những ưu điểm khác nhau, tuỳ điều kiện, mục đích nghiên cứu mà người ta
có thể tiếp cận vốn dưới giác độ nào.
Theo các nhà kinh tế học cổ điền tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật,
“vốn là yếu tổ đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh”.Đây là cách hiểu
phù hợp với trình độ quản trị còn sơ khai, nó rất đơn giản, dễ hiểu nhưng chưa
đầy đủ và chưa phản ánh hết mặt tài chính của vốn.
Theo quan điếm của Mác dưới góc độ các yếu tố sản xuất, “Vốn (tư
bản) là giá trị mang lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản
xuất”. Định nghĩa của C.Mác có tầm khái quát lớn, tuy nhiên trong bối cảnh
lúc đó khi mà nền kinh tể chưa phát triển, C.Mác quan niệm chỉ có khu vực
sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Và tiền chỉ được gọi là
vốn khi nó được dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
với mục đích là lợi nhuận. Quan điểm này đã chi rõ mục tiêu của quản trị và


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

sử dụng vốn, nhưng quan điểm này lại mang tính trừu tượng, do đó hạn chế
về ý nghĩa nhất là đối với các vấn đề như hạch toán, phân tích tình hình quản
trị và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Theo Paul-Sammelson, nhà kinh tể học theo trường phái tân cổ điển đã

kế thừa quan niệm về các yểu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia yểu
tổ đầu vào của quá trinh sản xuất ra làm ba loại: đất đai, lao động và vốn.
Theo ông, “Vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá trình sản
xuất mới, là đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp”. Khái niệm này không đề cập đến các loại tài sản khác, các giấy tờ có
giá trị có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó, cũng không phản
ánh đẩy đủ mặt tài chính của vốn.
Theo một sổ nhà tài chính thì “Vốn là tổng số tiền do những người có
cổ phần trong công ty đóng góp và họ nhân được phần thu nhập chia cho các
chứng khoán của công ty”. Quan điểm này đã đề cập đến mặt tài chính của
vốn, khuyến khích các nhà đầu tư tăng cường đàu tư, mở rộng và phát triển
sản xuất. Song nó có hạn chế là không nói rõ nội dung và trạng thái của vốn
trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cũng có quan niệm lại cho rằng: “Vốn kinh doanh là giá trị của các tài
sản hiện có của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền”, nhưng quan điểm
này mới dừng lại ở mặt hình thái của vốn mà không phản ánh trạng thái, mục
đích của vốn nên cũng không thuận lợi cho phân tích kinh tế.
Như vậy, các quan điểm về vốn ở trên một mặt đã thể hiện được vai trò
của vốn trong những điều kiện lịch sủ cụ thể với những yêu cầu, mục đích
nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt khác, trong cơ che thị trường hiện nay, đứng
trên góc độ hạch toán và quản trị, các quan điểm đó còn gây khó khăn, chưa
đáp ứng được yêu cầu của quản trị vốn hiệu quả.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Trong điều kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá -tiền tệ, khái niệm
về vốn sản xuất kinh doanh phải thể hiện những vấn đề sau:

-

Nguồn gốc sâu xa của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận của thu

nhập quốc dân được tái đầu tư (khác vốn đất đai, vốn nhân lực).
-

Trạng thái vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật

chất (tài sản cố định, tài sản dự trữ) và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi
ngân hàng, các chửng khoán, tín phiếu...) là cơ sở để ra biện pháp quản trị vốn
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách hiệu quả.
-

Mối quan hệ mật thiết giữa vốn và các nhân tố khác trong quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (đất đai, lao động). Điều này
đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả vốn.
-

Mục đích của quá trình đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh là tìm kiếm

lợi nhuận, vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản trị kinh doanh nói
chung và quản trị vốn nói riêng.
Như vậy có thể nói: “Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản được huy động, sử dụng vào hoạt động
sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời”. Nói cách khác, đó là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ giá trị các tài sản mà doanh nghiệp đã đầu tư và sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận.
1.1.1.2 Đặc trưng của vốn kinh doanh

Thứ nhất: Vốn được biểu hiện bằng một lượng tài sản có thực.
Đây là đặc trưng cơ bản của vốn kinh doanh – vốn là một lượng tiền đại
diện cho một lượng hàng hóa nhất định, một tài sản có thực. Tài sản đó có thể
là hình thái vật chất cụ thể (TSHH) hoặc không có hình thái vật chất cụ thể
(TSVH) được đưa vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai: Vốn phải được tích tụ, tập trung thành một lượng nhất định,
đủ sức đầu tư vào một phương án kinh doanh.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Việc huy động vốn của doanh nghiệp cần đạt tới một giới hạn nhất định
nào đó mới đủ sức phát huy tác dụng, cũng như đáp ứng được yêu cầu của
phương án đầu tư. Nếu vốn không được tích tụ đầy đủ (thiếu vốn) thì hoạt
động đầu tư sẽ bị ngưng trệ, và đồng thời hiệu quả sử dụng vốn bị giảm sút.
Thứ ba: Trong nền kinh tế thị trường, vốn phải vận động sinh lời.
Mục đích vận động của vốn là sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có
thể thay đổi hình thái Bảnghiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của
vòng tuần hoàn phải là tiền, lượng tiền thu về phải lớn hơn lượng tiền bỏ ra. Đây
là nguyên tắc cơ bản của việc bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Phương thức vận động của vốn do phương thức đầu tư kinh doanh quy
định. Có thể mô tả quá trình vận động của vốn qua sơ đồ sau:
Trong lĩnh vực sản xuất: T – H……..Sx…….. – H’ – T’
Trong lĩnh vực thương mại: T……..H……..T’
Trong lĩnh vực đầu tư tài chính: T…………….T’
Và T’ = T+∆T.
Thực tế một doanh nghiệp có thể vận dụng một hoặc đồng thời cả ba
phương thức đầu tư trên, miễn sao là bảo toàn và phát triển được vốn, đạt được

mức sinh lời cao nhất. Quá trình tuần hoàn chu chuyển vốn kinh doanh của
doanh nghiệp nhanh hay chậm phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của
từng ngành kinh doanh, vào tổ chức sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Thứ tư: Vốn có giá trị về mặt thời gian và gắn liền với chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế thị trường, một đồng vốn ở thời điểm này có giá trị
khác với giá trị của đồng vốn ở thời điểm khác, đó là giá trị thời gian của vốn.
Vốn có giá trị về mặt thời gian là do trong nền kinh tế thị trường có sự tồn tại
của các nhân tố như: giá cả thị trường, làm phát, khủng hoảng… Các nhân tố
này tồn tại một cách cố hữu, tiềm ẩn trong hoạt động kinh tế thị trường.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Trong nền kinh tế thị trường, vốn luôn gắn liền với chủ sở hữu. Các
doanh nghiệp không thể mua bán quyền sở hữu vốn mà chỉ có thể mua bán
quyền sử dụng vốn kinh doanh trên thị trường tài chính. Giá cả của quyền sử
dụng vốn kinh doanh chính là chi phí cơ hội trong việc sử dụng vốn kinh
doanh của doanh nghiệp.
Thứ năm: Vốn được coi như loại hàng hóa đặc biệt.
Những người có vốn nhàn rỗi đưa vốn vào thị trường, còn những người
cần vốn thì tìm nguồn để mua “quyền sử dụng vốn”. Để có được quyền sử
dụng vốn đó, người mua phải trả cho người bán một giá nhất định, đó là chi
phí sử dụng vốn. Rõ ràng việc nhận thức đúng đắn đặc trưng này sẽ giúp
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.1.1.3 Vai trò của vốn kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ
hoá, do vậy bẩt kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù ở bất cứ cấp độ
nào: cá nhân, tổ chức, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có

một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, bản
quyền phát minh,...là điều kiện tiền đề quyết đinh sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
Về mặt kinh tế:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp,
vốn không những đảm bảo mua sắm máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục, thường xuyên.
Vốn cũng là yếu tố quyết định việc mở rộng phạm vi hoạt động của
doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng thỉ sau
mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải có lãi đảm bảo cho vốn


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triền. Đó là cơ sở để doanh nghiệp
tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường,
nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Nhu cầu về vốn xét trên giác độ mỗi doanh nghiệp là điều kiện để duy
trì sản xuất, đổi mới thiết bị công nghệ, mờ rộng sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu nhập cho người lao động, đóng góp cho
xã hội... Như vậy:
- Vốn sản xuất kinh doanh là công cụ quan trọng để thực hiện các nhiệm
vụ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn sản xuất kinh doanh phản ánh các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa
doanh nghiệp vói doanh nghiệp trong vấn đề đầu tư.
- Vốn sản xuất kinh doanh cho phép khả năng lựa chọn của doanh nghiệp

trong sự phân tích nhu cầu thị trường là: quyết định sản xuất cái gì; sản
xuất như thế nào; sản xuất cho ai; sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Về mặt pháp lý:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện tiên quyết là doanh
nghiệp phải có một lượng vốn nhất định. Đối với một số ngành, lĩnh vực thì
lượng vốn đó tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định (do Nhà nước quy
định). Nếu không, doanh nghiệp sẽ không được thành lập. Và trong suốt quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lượng vốn doanh nghiệp không đạt điều
kiện Nhà nước quy định thì doanh nghiệp sẽ tự tuyên bố chấm dứt hoạt động
như phá sản, sát nhập với doanh nghiệp khác. Như vậy, với một số ngành,
vốn có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự
tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn, các doanh nghiệp nhất thiết
phải tìm mọi cách huy động, bảo toàn và phát triển vốn bằng cách sử dụng tiểt
kiệm, hợp lý vốn , tức là phái nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.2 Phân loại vốn kinh doanh
1.1.2.1 Phân loại theo nguồn vốn kinh doanh
Vốn chủ sở hữu
Là số vốn góp của các chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn
này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh
toán, không phải chịu lãi suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do sản xuất kinh
doanh có lãi của doanh nghiệp sẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần
vốn góp của mình. Tuỳ theo từng loại hỉnh doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu

được hình thành theo các hỉnh thức khác nhau, thông thường là:
- Vốn góp
Là số vốn do các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp đóng góp,
sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước
thì đây là nguồn vốn do nhà nước cấp. Đối với công ty liên doanh thì là phần
vốn góp của các đối tác trong và ngoài nước tham gia thành lập liên doanh, số
vốn này được bổ sung hoặc rút bớt trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Lãi chưa phân phối
Là số vốn có nguồn gốc từ lợi nhuận hay các khoản thu nhập hợp pháp
khác của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản phải nộp hay thanh toán,
số lãi trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng
trong sản xuất kinh doanh như vốn chủ sờ hữu.
Vốn vay
Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn chủ sở hữu được hình thành từ
nguồn vốn đi vay, đi chiếm dụng của các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong và ngoài
nước và sau một thời gian nhất định, doanh nghiệp phải trả cho người cho vay cả
gốc lẫn lãi. Phần vốn này, doanh nghiệp được sử dụng với những điều kiện nhất
định (như thời hạn sử dụng, lãi suất, thế chấp,...) nhưng không thuộc quyền sở
hữu của doanh nghiệp, vốn vay luôn được ưu tiên chi trả trước vốn chủ sở hữu


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

trong bất cứ hoàn cảnh nào đặc biệt kể cả khi doanh nghiệp khó khăn về tài
chính. Doanh nghiệp càng sử dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao
nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là nguồn huy động vốn rất lớn tuỳ
thuộc vào khả năng thế chấp, tinh hình sản xuất kinh doanh, uy tín của doanh
nghiệp. Vốn vay có hai loại: vốn vay, nợ ngắn hạn và vốn vay, nợ trung, dài hạn

với nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, hùn vốn qua phát hành
trái phiếu, tín dụng cầm đồ hoặc thế chấp tài sản...
Thông thường, một doanh nghiệp đều nên phối hợp cả hai nguồn vốn
trên để đảm bảo nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như bảo đảm nguyên tắc
phân tán rủi ro trong đầu tư. Kết cấu hợp lý của hai nguồn vốn này tuỳ thuộc
đặc điểm ngành doanh nghiệp đang hoạt động, quyết định của nhà quản trị
doanh nghiệp trên cở sờ xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp và tình
hình chung của nền kinh tế đất nước.
1.1.2.2 Phân loại theo kết quả của hoạt động đầu tư
Theo tiêu thức này vốn kinh doanh được chia thành vốn kinh doanh đầu
tư vào tài sản lưu động, tài sản cố định và tài sản tài chính.
Vốn kinh doanh đầu tư vào TSLĐ là số vốn đầu tư để hình thành nên
các tài sản lưu động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, bao gồm các loại vốn bằng tiền, vốn vật tư hàng hóa, các khoản phải
thu, các TSLĐ khác của doanh nghiêp.
Vốn kinh doanh đầu tư vào TSCĐ là số vốn đầu tư để hình thành nên
tài sản cố định cho doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định vô hình và tài sản
cố định hữu hình.
Vốn kinh doanh đầu tư vào tài sản tài chính là số vốn doanh nghiệp
đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệ, trái
phiếu chính phủ, kỳ phiếu ngân hàng, chứng chỉ quỹ đầu tư và các giấy tờ có
giá khác.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.2.3 Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn
Theo đặc điểm luân chuyển của vốn, vốn kinh doanh của doanh nghiệp

được chia thành vốn cố định và vốn lưu động.
Vốn cố định
Vốn cố định (VCĐ) là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước để hình
thành tài sản cố định. Là vốn đầu tư ứng trước cho tài sản cố định nên quy mô
của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định đến quy mô của tài sản cố định,
ảnh hưởng lớn đến trình độ trang bị kĩ thuật công nghệ và năng lực sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của
tài sản cố định trong quá trình sử dụng cũng có những ảnh hưởng quyết định
đến đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển vốn cố định.
Vốn lưu động
Vốn lưu động (VLĐ) của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước
dùng để mua sắm, hình thành các TSLĐ dùng trong sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp như nguyên nhiên vật liệu dự trữ sản xuất, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các khoản vốn bằng tiền, vốn trong
thanh toán.
Cách phân loại này cho thấy đặc điểm luân chuyển của từng loại vốn
kinh doanh, từ đó giúp cho doanh nghiệp có biện pháp tổ chức quản lý, phân
bổ sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp sao cho phù hợp. Trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp vốn kinh doanh luân chuyển càng nhanh
càng có hiệu quả. Điều đó không chỉ giúp doanh nghiệp nhanh chóng thu hồi
vốn, hạn chế được các rủi ro có thể gặp trong kinh doanh mà còn khắc phục
được các khó khăn về vốn, bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh của
doanh nghiệp.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.3 Khái quát chung về vốn cố định và vốn lưu động trong doanh nghiệp.

1.1.3.1 Vốn cố định
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có
giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài.
Để có được các tài sản cố định cần thiết cho hoạt động kinh doanh,
doanh nghiệp phải đầu tư ứng trước một lượng vốn tiền tệ nhất định. Là một
bộ phận của vốn kinh doanh, vốn cố định là toàn bộ số tiền ứng trước mà
doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư hình thành nên các TSCĐ dùng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. VCĐ có
đặc điểm này là do TSCĐ tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp và phát huy tác
dụng trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì VCĐ là hình thái Bảnghiện bằng tiền
của TSCĐ nên VCĐ cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
- Vốn cố định luân chuyển dần, từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện
vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần, tức là nó bị hao
mòn, và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng, thì giá trị của nó cũng bị
giảm đi.
- Vốn cố định hoàn thành một vòng luân chuyển sau nhiều chu kỳ sản
xuất. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần VCĐ được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm dần tăng lên, tương ứng với phần đầu tư ban đầu vào TSCĐ giảm
xuống. Cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị TSCĐ được chuyển
dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành một vòng
luân chuyển.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.3.2 Vốn lưu động

Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài các tài sản cố định, doanh
nghiệp cần phải có các tài sản lưu động. Tài sản lưu động của doanh nghiệp
gồm hai bộ phận: Tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông.
- Tài sản lưu động sản xuất: Gồm một bộ phận là những vật tư dự trữ
để đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục như: nguyên vật liệu chính,
vật liệu phụ, nhiên liệu,… và một bộ phận là những sản phẩm đang trong quá
trình sản xuất như: sản phẩm dở dang, bán thành phẩm đang trong quá trình
sản xuất.
- Tài sản lưu động lưu thông: Là những tài sản lưu động nằm trong quá
trình lưu thông của doanh nghiệp như: thành phẩm trong kho chờ tiêu thụ,
vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán…
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động sản xuất và tài
sản lưu động lưu thông luôn thay thế chỗ cho nhau, vận động không ngừng
nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục và thuận lợi.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hóa
lần lượt qua nhiều hình thái khác nhau. Đối với doanh nghiệp sản xuất, vốn
lưu động từ hình thái ban đầu là tiền được chuyển hóa sang hình thái vật tư dự
trữ, sản phẩm dở dang, thành phẩm hàng hóa, khi kết thúc quá trình tiêu thụ
lại trở về hình thái ban đầu là tiền. Đối với doanh nghiệp thương mại, sự vận
động của vốn lưu động nhanh hơn từ hình thái vốn bằng tiền chuyển hóa sang
hình thái hàng hóa và cuối cùng chuyển về hình thái tiền. Quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra liên tục, lặp đi lặp lại có tính chất chu kỳ
tạo thành sự chu chuyển của vốn lưu động.
Do bị chi phối bởi các đặc điểm của tài sản lưu động nên vốn lưu động
của doanh nghiệp có các đặc điểm sau:


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính


- Vốn lưu động trong quá trình chu chuyển luôn thay đổi hình thái
biểu hiện.
- Vốn lưu động chuyển hóa toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được
hoàn lại toàn bộ sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
- Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ
kinh doanh.
Từ những phân tích đó có thể rút ra: Vốn lưu động của doanh nghiệp là
số vốn ứng ra để hình thành nên các tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vốn
lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được thu hồi toàn bộ,
hoàn thành một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.
1.1.4 Nguồn hình thành vốn kinh doanh
Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp là tổng cộng các nguồn tài
chính mà doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng trong một thời kì nhất
định nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để có được lượng vốn cần thiết để hình thành nên tài sản giúp cho
doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thường xuyên, liên tục
và đạt được mục tiêu đề ra thì yêu cầu doanh nghiệp phải có tổ chức và lựa
chọn cách thức huy động vốn thật hiệu quả, phù hợp với đặc điểm, loại hình
kinh doanh của doanh nghiệp. Tùy thuộc vào mục tiêu quản lý ta có thể chia
nguồn vốn doanh nghiệp thành các tiêu thức khác nhau.
1.1.4.1 Theo quan hệ sở hữu
Theo tiêu thức này, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành
từ hai nguồn:
-

Nguồn vốn chủ sở hữu (NVCSH) là phần vốn thuộc sở hữu của

chủ doanh nghiệp bao gồm số vốn góp của chủ sở hữu và phần vốn bổ sung từ

lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, cùng với nguồn vốn liên doanh, liên kết,
vốn tài trợ của nhà nước nếu có. Nguồn vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho chủ doanh
nghiệp thế chủ động trong sản xuất, tự chủ về mặt tài chính. Vốn chủ sở hữu
tại một thời điểm được xác định bằng:
Vốn chủ sở hữu = Giá trị tổng tài sản – Nợ phải trả
Nợ phải trả (NPT) là các khoản nợ phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán lãi và nợ gốc
đúng thời hạn cam kết.
Việc phân loại nguồn vốn kinh doanh theo tiêu thức này giúp nhà quản
trị tài chình doanh nghiệp xác định được mức độ an toàn trong công tác huy
động vốn.
1.1.4.1

Theo phạm vi hình thành vốn

Theo cách phân loại này, vốn kinh doanh đươc chia thành nguồn vốn
bên trong và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố
định, lợi nhuận để tái đầu tư, các khoản dự phòng, thu từ thanh lý nhượng
bán…Nguồn vốn này góp phần giúp cho doanh nghiệp phát huy tính tự chủ
trong việc sử dụng vốn cũng như khả năng tự tài trợ của mình. Do vậy nó có
tính chất quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp bao gồm vốn vay ngân hàng và các tổ

chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu, nợ người cung cấp và các khoản nợ
khác.Trong điều kiện kinh tế thị trường, ngoài vốn chủ sở hữu thì số vốn
doanh nghiệp huy động từ bên ngoài ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng
số vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc phân loại vốn theo tiêu thức này giúp cho doanh nghiệp có khả
năng lựa chọn cách huy động vốn nhằm tối ưu hóa cơ cấu vốn hay hình thành
cơ cấu vốn với chi phí thấp nhất và hiệu quả mang lại là cao nhất.
1.1.4.2 Theo thời gian huy động và sử dụng vốn


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Với cách phân loại này, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành
nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời:
- Nguồn vốn thường xuyên bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay
dài hạn. Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định mà doanh nghiệp có thể sử
dụng. Nguồn vốn này được đầu tư cho TSCĐ và một bộ phận cho TSLĐ
thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn tạm thời là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn có tính chất tạm thời, bất
thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn này gồm các khoản vay ngắn hạn của Ngân hàng, các tổ chức tín
dụng, các khoản nợ ngắn hạn khác.
Cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý có điều kiện thuận lợi
trong việc huy động vốn một cách phù hợp với thời gian sử dụng, đáp ứng
đầy đủ, kịp thời vốn sản xuất kinh doanh và góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong doanh nghiệp.
1.2 QUẢN TRỊ VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.2.1 Khái niệm quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Quản trị vốn kinh doanh là tiến trình hoạch định, tổ chức,và kiểm soát
các hoạt động về vốn gồm có vốn cố đinh và vốn lưu động, tác động vào vốn
bằng tiền, nợ phải thu, hàng tồn kho và tài sản cố định nhằm đạt được mục
tiêu nhất định cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ phát triển.
Quản trị là sự tác động của chủ thể quản trị lên đối tượng quản trị nhằm
đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường.
Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra quyết định tài chinh,
tổ chức thực hiện các quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động tài chính
của doanh nghiệp, đó là tối đa hóa lợi nhuận, không ngừng làm gia tăng giá trị
doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Nhiệm vụ quan trọng của quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp là
huy động vốn nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho các hoạt động; tổ
chức sử dụng vốn tiết kiệm, có hiệu quả, nhằm tối đa hóa lợi ích cho chủ sở hữu
doanh nghiệp; lên kế hoạch để xác đinh các nhu cầu về vốn nhằm chuẩn bị đủ
vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và tìm các biện pháp để huy động các
nguồn vốn khác để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài ra còn cần phải có sự đánh giá về tình hình sử dụng vốn có thực sự hiệu
quả hay không, để từ đó đề ra các biện pháp để khắc phục kịp thời.
1.2.2 Nội dung quản trị vốn kinh doanh
1.2.2.1 Tổ chức đảm bảo nguồn vốn kinh doanh
Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của công ty được tiến hành
thường xuyên,liên tục thì tương ứng với một quy mô kinh doanh nhất định
thường xuyên phải có một lượng TSLĐ nhất định nằm trong các giai đoạn

luân chuyển như các tài sản dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang,
thành phẩm, bán thành phẩm, và nợ phải thu của khách hàng. Những tài sản
này gọi là TSLĐ thường xuyên, nó là một bộ phận của tài sản thường xuyên.
Nguồn vốn lưu động thường xuyên tạo ra mức độ an toàn cho doanh
nghiệp trong kinh doanh, về cơ bản, nguồn vốn lưu động thường xuyên đảm
bảo cho vốn lưu động thường xuyên, còn nguôn vốn lưu động tạm thời sẽ
đảm bảo cho nhu cầu vốn lưu động tạm thời, song không nhất thiết phải hoàn
toàn như vậy. Để tạo điều kiện cho việc sử dụng linh hoạt nguồn tài chính,ta
sẽ xem xét một số mô hình tài trợ vốn sau:


Mô hình tài trợ thứ nhất.
Toàn bộ TSCĐ và TSLĐ thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn vốn

thường xuyên, toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Sử dụng mô hình này giúp cho doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong thanh
toán, mức độ an toàn cao hơn, đồng thời, giảm bớt được chi phí trong sử dụng
vốn. Tuy nhiên việc ứng dụng mô hình tài trợ này chưa tạo ra sự linh hoạt
trong việc tổ chức sử dụng vốn.


Luân văn tốt nghiệp


Học viện Tài chính

Mô hình tài trợ thứ hai.
Toàn bộ TSCĐ,TSLĐ thường xuyên và một phần của TSLĐ tạm thời

được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, và một phần TSLĐ tạm thời

còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Sử dụng mô hình này, khả năng thanh toán và độ an toàn ở mức cao. Tuy
nhiên doanh nghiệp phải sử dụng nhiều khoản vay dài hạn và trung hạn nên
doanh nghiệp phải trả chi phí nhiều hơn cho việc sử dụng vốn.


Mô hình tài trợ thứ ba.
Toàn bộ TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên được đảm bảo bằng

nguồn vốn thường xuyên, còn một phần TSLĐ thường xuyên và toàn bộ
TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Mô hình hình chi phí sử dụng vốn sẽ được hạ thấp, vì sử dụng nhiều
hơn nguồn vốn tín dụng ngắn hạn, việc sử dụng vốn sẽ được linh hoạt hơn.
Trong thực tế mô hình này thường được các doanh nghiệp lựa chọn vì một
phần tín dụng ngắn hạn được xem như dài hạn thường xuyên, đối với các
doanh nghiệp mới lại càng cần thiết. Việc áp dụng mô hình này cũng cần
năng động trong việc tổ chức nguồn vốn ở các doanh nghiệp, vì khả năng gặp
rủi ro cao.
1.2.2.2 Phân bổ nguồn vốn kinh doanh hợp lý
Phân bổ nguồn vốn kinh doanh là việc doanh nghiệp đưa ra quyết định
về sử dụng nguồn vốn đã huy động như thế nào, có thể phân bổ vốn theo từng
thành phần vốn nhằm đảm bảo sự phù hợp với các đặc điểm ngành nghề kinh
doanh và chức năng, nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp. Hay có thể nói phân bổ
nguồn vốn là việc đưa ra quyết định đầu tư vào các loại tài sản nào của doanh
nghiệp. Các quyết định này bao gồm:
-

Đầu tư vào tài sản lưu động: Quyết định tồn quỹ, tồn kho, các

quyết định về chính sách bán hàng, quyết định đầu tư tài chính ngắn hạn…



Luân văn tốt nghiệp
-

Học viện Tài chính

Đầu tư vào tài sản lưu động: Quyết định mua sắm tài sản cố định,

quyết định đầu tư dự án, đầu tư tài chính dài hạn…
-

Quyết định về cơ cấu giữa việc đầu tư vào tài sản cố định hay tài

sản lưu động, quyết định sử dụng đòn bẩy kinh doanh…
Các quyết định đầu tư được coi là một yếu tố vô cùng quan trọng trong
số các quyết định tài chính của doanh nghiệp bởi chúng tạo ra giá trị cho
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có quyết định đầu tư đúng đắn sẽ tạo cơ hội
làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp, từ đó đem lại lợi ích cho chủ sở hữu và
những thành viên trong doanh nghiệp và ngược lại, nếu quyết định đầu tư sai
sẽ đem lại những ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình hoạt động của công ty,
làm tổn thất về kinh tế, thiệt hại về tài sản cho chính chủ sở hữu.
1.2.2.3 Quản trị vốn cố định của doanh nghiệp
Quản trị vốn cố định là một nội dung quan trọng trong quản lý vốn kinh
doanh của các doanh nghiệp. Điều đó không chỉ ở chỗ vốn cố định thường
chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp, có ý
nghĩa quyết định tới năng lực sản xuất của doanh nghiệp mà còn do việc sử
dụng vốn cố định thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn
chậm và dễ gặp rủi ro.
Quản trị vốn cố định có thể khái quát thành ba nội dung cơ bản là: khai

thác tạo lập vốn, quản lý sử dụng vốn và phân cấp quản lý, sử dụng vốn cố
định trong doanh nghiệp.
Khai thác và tạo lập nguồn vốn cố định của doanh nghiệp
Để dự báo các nguồn vốn đầu tư vào tài sản cố định các doanh nghiệp
có thể dựa vào các căn cứ sau đây:
+ Quy mô và khả năng sử dụng quỹ đầu tư phát triển hoặc quỹ khấu hao
để đầu tư mua sắm tài sản cố định hiện tại và các năm tiếp theo.
+ Khả năng ký kết các hợp đồng với các doanh nghiệp khác.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

+ Khả năng huy động vốn vay dài hạn từ các ngân hàng thương mại hoặc
phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn.
+ Các dự án đầu tài sản cố định tiền khả thi và khả thi đã được cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
Quản lý sử dụng vốn cố định
Vốn cố định của doanh nghiệp có thể được sử dụng cho các hoạt động
đầu tư dài hạn (mua sắm, lắp đặt, xây dựng các tài sản cố định hữu hình và vô
hình) và các hoạt động kinh doanh thường xuyên sản xuất các sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ) của doanh nghiệp.
Bảo toàn vốn cố định về mặt hiện vật không phải chỉ là giữ nguyên
hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định mà quan
trọng hơn là duy trì thường xuyên năng lực sản xuất ban đầu của nó. Điều đó
có nghĩa là trong quá trình sử dụng doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ không
làm mất mát tài sản cố định, thực hiện đúng quy chế sử dụng, bảo dưỡng
nhằm duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của tài sản cố định, không để tài
sản cố định bị hư hỏng trước thời hạn quy định.

Để bảo toàn và phát triển vốn cố định của doanh nghiệp cần đánh giá
đúng các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không bảo toàn được vốn để có biện
pháp xử lý thích hợp. Có thể nêu ra một số biện pháp chủ yếu sau đây:
+ Phải đánh giá đúng giá trị của tài sản cố định tạo điều kiện phản ánh
chính xác tình hình biến động của vốn cố định, quy mô vốn phải bảo toàn.
Điều chỉnh kịp thời giá trị của tài sản cố định để tạo điều kiện tính đúng, tính
đủ chi phí khấu hao, không để mất vốn cố định. Thông thường có 3 phương
pháp đánh giá chủ yếu:
 Đánh giá tài sản cố định theo giá nguyên thuỷ (nguyên giá).
 Đánh giá tài sản cố định theo giá trị khôi phục.
 Đánh giá tài sản cố định theo giá trị còn lại.
+ Lựa chọn phương pháp khấu hao và xác định mức khấu hao thích hợp.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

+ Chú trọng đổi mới trang thiết bị, phương pháp công nghệ sản xuất.
+ Thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng, sửa chữa dự phòng tài sản cố định.
+ Doanh nghiệp phải chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh để hạn chế tổn thất vốn cố định do các nguyên nhân
khách quan như: Mua bảo hiểm tài sản, lập quỹ dự phòng tài chính, trích
trước chi phí dự phòng giảm giá các khoản đầu tư tài chính.
Phân cấp quản lý vốn cố định
Theo quy chế hiện hành các doanh nghiệp Nhà nước được quyền:
+ Chủ động trong sử dụng vốn, quỹ để phục vụ kinh doanh theo nguyên
tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Nếu sử dụng vốn, quỹ khác với mục
đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn, quỹ đó thì phải theo nguyên tắc có
hoàn trả.

+ Doanh nghiệp được quyền cho các tổ chức và cá nhân trong nước
thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để nâng
cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập song phải theo dõi, thu hồi tài sản cho
thuê khi hết hạn. Các tài sản cho thuê hoạt động doanh nghiệp vẫn phải trích
khấu hao theo chế độ quy định.
+ Doanh nghiệp được quyền đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử
dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín
dụng theo trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
+ Thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn phục vụ cho việc phát triển
vốn kinh doanh có hiệu quả hơn.
+ Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu
về kỹ thuật để thu hồi vốn sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Được quyền thanh lý những tài sản cố định đã
lạc hậu mà không thể nhượng bán được hoặc đã hư hỏng không có khả năng
phục hồi.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Riêng đối với các tài sản cố định quan trọng muốn thanh lý phải được
phép của cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được sử dụng vốn, tài sản, giá trị quyền sử dụng đất hoặc
tiền thuê đất để đầu tư ra ngoài doanh nghiệp theo các quy định của pháp luật
hiện hành.
1.2.2.4 Tổ chức quản trị vốn lưu động dưới từng hình thái biểu hiện
khác nhau.
1.2.2.4.1 Quản trị vốn tồn kho dự trữ
Hàng tồn kho là những tài sản mà doanh nghiệp dự trữ để đưa vào sản

xuất hoặc bán ra trong tương lai. Căn cứ vào vai trò của chúng, hàng tồn kho
được chia làm ba loại: Tồn kho nguyên vật liệu, tồn kho sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, tồn kho thành phẩm. Mỗi loại tồn kho dự trữ trên có vai trò
khác nhau trong quá trình sản xuất, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục và ổn định.
- Tầm quan trọng của việc quản lý vốn về hàng tồn kho.
+Vốn về hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của doanh
nghiệp và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động của doanh nghiệp.
+Việc duy trì hợp lý vốn về hàng tồn kho sẽ tạo cho doanh nghiệp thuận
lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh giúp doanh nghiệp tránh được tình
trạng ứ đọng vật tư hàng hóa
- Các biện pháp chủ yếu quản lý vốn dự trữ hàng tôn kho.
+ Xác định đúng đắn lượng vật tư cần mua trong kỳ và lượng tồn kho dữ
trữ hợp lý.
+ Xác định và lựa chọn nguồn cung ứng và người cung ứng thích hợp.
+ Lựa chọn phương tiện vận tải phù hợp để tối thiểu hóa chi phí vận
chuyển, bốc rỡ.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

+ Thường xuyên theo dõi sự biến động của thị trường về giá cả của vật tư,
thành phẩm, hàng hóa để trách tình trạng mất mát, hao hụt quá mức.
+ Thường xuyên kiểm tra, nắm vững tình hình dự trữ, phát hiện kịp thời
tình trạng vật tư ứ đọng vật tư, không phù hợp để có biện pháp giải phòng
nhanh số vật tư đó, thu hồi vốn.
+ Thực hiện tốt việc mua bảo hiểm hàng hóa đối với vật tư hàng hóa, lập
dự phòng giảm giá hàng tồn kho.

- Các phương pháp quản lý vốn tồn tại kho dự trữ
+ Phương pháp chi phí tối thiểu EOQ (Economic Order Quantity)
Là mô hình quản lý hàng tồn kho dự trữ trên cơ sở tối thiểu hóa tổng chi phí
tồn kho dự trữ.
+ Phương pháp tồn kho bằng không JIT (Just In Time)
Theo mô hình này doanh nghiệp hầu như không tồn kho. Chi phí lưu kho, chi
phí tồn kho thấp; thường chỉ có ở các doanh nghiệp trong cùng một khu công
nghiệp.
1.2.2.4.2 Quản trị vốn bằng tiền
Vốn bằng tiền là một bộ phận cấu thành tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp. Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển. Trong các doanh nghiệp, nhu cầu lưu trữ vốn bằng tiền thường do ba
lý do chính: Đáp ứng các yêu cầu giao dịch, thành toán hàng ngày của doanh
nghiệp; giúp doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội đầu tư sinh lời hoặc kinh doanh
nhằm tối đa hóa lợi nhuận; đáp ứng nhu cầu dự phòng và khắc phục rủi ro bất
ngờ có thể xảy ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tầm quan trọng của việc quản lý vốn bằng tiền
+ Vốn bằng tiền là loại tài sản có tình thanh khoản cao nhất và là yếu tố
trực tiếp quyết định khả năng thanh toán của một doanh nghiệp.


Luân văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

+ Vốn bằng tiền là một lại tài sản có tính linh hoạt cao và cũng dễ là đối
tượng của các hành vi tham ô, gian lận, lợi dụng.
- Nội dung chủ yếu của quản lý vốn bằng tiền
+


Xác định mức dự trữ vốn tiền mặt một cách hợp lý, tối thiểu để đáp

ứng nhu cầu chi tiêu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.Có nhiều phương
pháp xác định mức dự trữ tiền mặt hợp lý của doanh nghiệp: có thể căn cứ
vào số liệu thống kê nhu cầu chi dùng tiền mặt bình quân một ngày và số
ngày dự trữ tiền mặt hợp lý hoặc vận dụng mô hình tổng chi phí tối thiểu
trong quản trị vốn tồn kho dự trữ để xác định mức tồn quỹ tiền mặt mục tiêu
của doanh nghiệp.
+

Quản lý chặt chẽ các khoản phải thu chi bằng tiền.

+Chủ động lập và thực hiện kế hoạch lưu chuyển tiền tệ hàng hóa.
1.2.2.4.3 Quản trị các khoản phải thu
Các khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu
hàng hóa hoặc dịch vụ. Trong kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp đều có
các khoản nợ phải thu nhưng với quy mô, mức độ khác nhau. Nếu các khoản
phải thu quá lớn, tức số vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng cao, hoặc không
kiểm soát được sẽ gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy, quản trị các khoản phải thu là một nội dung quan trong
trong quản trị tài chính.
- Tầm quan trọng của quản lý phải thu
Quản lý khoản phải thu của khách hàng là một vấn đề rất quan trọng vì
+

Khoản phải thu từ khách hàng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu

động của doanh nghiệp.
+


Việc quản lý các khoản phải thu từ khách hàng liên quan chặt chẽ

đến việc tiêu thụ sản phẩm, tổ chức và bảo toàn VLĐ tổng doanh nghiệp.


×