Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

Các giải pháp nhằm tăng cường quản trị vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần chế tác đá Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.28 KB, 144 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình
thực tế của đơn vị thực tập.

Tác giả luận văn tốt nghiệp
Sinh viên
Nguyễn Hải Linh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BQ
DN
EBIT
GVHB
HTK
LNST
LNTT
NCVLĐTX
NPT
SXKD
TSCĐ
TSDH
TSLĐ
TSNH
VCĐ
VKD
VLĐ

Bình quân


Doanh nghiệp
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Lợi nhuận sau thuế
Lợi nhuận trước thuế
Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
Nợ phải trả
Sản xuất kinh doanh
Tài sản cố định
Tài sản dài hạn
Tài sản lưu động
Tài sản ngắn hạn
Vốn cố định
Vốn kinh doanh
Vốn lưu động


DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BẢNG BIỀU
Tên hình
Hình 2.1

Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý Công ty

Hình 2.2

Tổ chức bộ máy kế toán của Công ty

Hình 2.3


Kết cấu doanh thu bán hàng

Hình 2.4

Sự biến động của DTT và LNST

Hình 2.5

Tình hình biến động quy mô, cơ cấu VKD của Công ty

Hình 2.6

Tình hình biến động quy mô, cơ cấu nguồn vốn năm 2013-2014

Hình 2.7

Cơ cấu TSLĐ
Tên bảng

Bảng 2.1

Kết quả kinh doanh của Công ty hai năm gần đây

Bảng 2.2

Một số chỉ tiêu chính của các doanh nghiệp trong ngành

Bảng 2.3

Doanh thu bán hàng


Bảng 2.4

Cơ cấu và sự biến động của tài sản

Bảng 2.5

Cơ cấu nguồn vốn theo thời gian huy động và sử dụng vốn

Bảng 2.6

Cơ cấu và sự biến động của tài sản

Bảng 2.7

Tình hình biến động TSCĐ của Công ty năm 2014

Bảng 2.8

Tình trạng kỹ thuật của TSCĐ năm 2014

Bảng 2.9

Tình hình quản lý, sử dụng TSCĐ và VCĐ của Công ty


Bảng 2.10

Kết cấu và sự biến động của TSLĐ


Bảng 2.11

Tình hình quản lý Nợ phải thu

Bảng 2.12

Tình hình công nợ

Bảng 2.13

Tình hình quản lý Hàng tồn kho

Bảng 2.14

Bảng hệ số khả năng thanh toán

Bảng 2.15

Hiệu suất và hiệu quả sử dụng VLĐ

Bảng 2.16

Các chỉ tiêu đánh giá hiệu suất và hiệu quả sử dụng VKD


LỜI NÓI ĐẦU
I.

Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì trước hết phải có vốn.


Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của vốn càng trở nên cấp
thiết hơn bao giờ hết. Vốn là chìa khóa, là phương tiện để biến các ý tưởng
trong kinh doanh thành hiện thực. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn sẽ góp phần
quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên vốn chỉ là điều kiện cần,
vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp phải có các biện pháp tạo lập hữu hiệu và
phù hợp, đồng thời phải có chính sách sử dụng hiệu quả và hợp lý. Sử dụng
hình thức tạo lập nào, thời gian dài hay ngắn, chi phí sử dụng cao hay thấp…
bắt buộc doanh nghiệp phải có sự cân nhắc, vừa đảm bảo hoạt động sản xuất
kinh doanh, vừa tối thiểu hóa chi phí, hạn chế thấp nhất rủi ro nhằm tối đa hóa
giá trị doanh nghiệp. Thực tiễn nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã
cho thấy bên cạnh những doanh nghiệp sử dụng vốn tốt, làm ăn có hiệu quả
thì cũng có không ít các doanh nghiệp sử dụng vốn lãng phí gây thất thoát vốn
dẫn đến thua lỗ, phá sản, gây tổn thất cho nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gây gắt như hiện nay cùng với
sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, doanh nghiệp muốn đứng
vững trên thương trường thì nhu cầu về vốn cho việc mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng lớn. Chính vì vậy, bất kỳ một doanh nghiệp nào
dù lớn hay nhỏ cũng đều quan tâm đến vốn và vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn.
Xuất phát từ vai trò, vị trí của vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp,
qua thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Chế tác đá Việt Nam, em đã quyết
định chọn đề tài: “Các giải pháp nhằm tăng cường quản trị vốn kinh doanh
tại Công ty Cổ phần chế tác đá Việt Nam” với hy vọng góp một phần nhỏ
trong sự phát triển của Công ty.

1


2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu này tại Công ty Cổ phần Chế tác đá Việt Nam nhằm
những mục tiêu sau :
• Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về tài chính doanh nghiệp và
phân tích khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
• Tìm hiểu thực trạng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, xem xét và
đánh giá tình hình biến động cơ cấu vốn kinh doanh, hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong năm 2014 so với
2013 từ đó đưa ra kết luận những kết quả đã được và những điều
còn hạn chế trong quản trị vốn kinh doanh.
• Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường quản trị vốn kinh doanh
tại đơn vị trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Tình hình tổ chức, sử dụng và quản lý vốn kinh
doanh tại Công ty Cổ phần Chế tác đá Việt Nam
 Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đề cập đến công tác tổ chức sử dụng
vốn kinh doanh của Công ty Cổ phần Chế tác đá Việt Nam trong hai
năm 2013 và 2014 (có sự kết hợp với nghiên cứu trong một số năm
trước và một số doanh nghiệp trong ngành).
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: Em đã tiến hành thu thập số liệu thông qua
Báo cáo tài chính của Công ty, Tài liệu họp Đại hội đồng cổ đông thường
niên, số liệu trên các trang web và tài liệu tham khảo có liên quan.
- Phương pháp phân tích: Dựa trên số liệu thu thập được, em tiến hành tính
toán, phân tích theo yêu cầu của đề tài nghiên cứu.

2


- Phương pháp so sánh: Dự trên các số liệu đã phân tích, em tiến hành so sánh
số liệu dự tính với thực tế và so sánh số liệu thực tiễn giữa các năm để đưa ra

kết luận chính xác.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:Những lý luận chung về vốn kinh doanh và quản trị vốn
kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng quản trị vốn kinh doanh tại Công ty cố phần
Chế tác đá Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quản trị vốn kinh
doanh tại Công ty cổ phần Chế tác đá Việt Nam.
Do kiến thức còn hạn hẹp cả về lý luận lẫn thực tiễn, luận văn của em
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, hướng
dẫn của các thầy cô để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy, cô giáo
trong khoa Tài chính doanh nghiệp - Học viện Tài chính, đặc biệt là sự hướng
dẫn tỉ mỉ của Tiến sĩ Bùi Văn Vần, sự hỗ trợ của Ban lãnh đạo, các anh chị
phòng Tài chính - Kế toán và các bộ phần phòng ban liên quan của Công ty
Cổ phần Chế tác đá Việt Nam đã tạo điều kiện giúp em hoàn thành đề tài
nghiên cứu này.

3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN KINH DOANH VÀ QUẢN
TRỊ VỐN KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1 Vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng, vai trò và thành phần vốn kinh doanh
trong doanh nghiệp.

1.1.1.1. Khái niệm vốn kinh doanh
Doanh nghiệp là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải có các
yếu tố cơ bản là tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Mỗi DN
đều có những đặc thù riêng song trong quá trình SXKD đều phải có điểm chung
là bắt đầu bằng các yếu tố đầu vào và kết thúc là các yếu tố đầu ra. Muốn vậy
các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn tiền tệ nhất định, phù hợp với quy mô và
điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư mua
sắm, hình thành các tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói: “ Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền
ứng trước mà doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư hình thành các tài sản cần thiết
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Nói cách khác là biểu
hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị các tài sản mà doanh nghiệp đã đầu tư và sử
dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh của doanh nghiệp
không ngừng vận động, chuyển đổi hình thái biểu hiện. Từ hình thái vốn tiền tệ
ban đầu sang hình thái vốn vật tư, hàng hoá và cuối cùng lại trở về hình thái
vốn tiền tệ. Cụ thể, với từng loại hình pháp lí tổ chức, doanh nghiệp có phương

4


thức thích hợp tạo lập số vốn tiền tệ ban đầu, từ số vốn tiền tệ đó doanh nghiệp
mua sắm máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… Sau khi thực hiện sản xuất xong,
doanh nghiệp thực hiện bán hàng hoá và thu được tiền bán hàng hoá. Quá trình
này được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu

được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí bỏ ra và có lãi.
Như vậy, số tiền ứng ra phải được sử dụng có hiệu quả thì mới đảm bảo cho sự
phát triển lành mạnh của doanh nghiệp.
1.1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của vốn kinh doanh.
- Một là: Vốn được biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản nhất định: Có
nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và
vô hình như nhà xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, vị
trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền phát minh sáng chế…
mà doanh nghiệp huy động, sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
- Hai là: Vốn phải được vận động để sinh lời, đạt được mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình vận động vốn tồn tại dưới nhiều
hình thức khác nhau, nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của quá trình
tuần hoàn vốn đều phải được biểu hiện bằng giá trị bằng tiền. Muốn nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn thì số vốn thu được cuối kỳ phải luôn lớn hơn hoặc
bằng số vốn bỏ ra đầu kỳ.
- Ba là: Vốn kinh doanh được coi là một loại hàng hóa đặc biệt: Khác
với các loại hàng hóa thông thường, các doanh nghiệp không thể mua bán
quyền sở hữu vốn mà chỉ có thể mua, bán quyền sử dụng vốn kinh doanh trên
thị trường tài chính. Người mua quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định
phải trả cho người sở hữu một khoản tiền được gọi là lãi. Lãi suất chính là giá
phải trả để có quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Lãi suất cũng
tuân theo quy luật cung cầu của thị trường.
- Bốn là: Vốn kinh doanh có giá trị về mặt thời gian: Do tác động của
các yếu tố như lạm phát,giá cả, tiến bộ khoa học kỹ thuật, rủi ro tỷ giá hối

5


đoái…nên vốn kinh doanh luôn có giá trị theo thời gian. Một đồng vốn ngày
hôm nay và một đồng vốn kinh doanh trong tương lai sẽ có giá trị khác nhau.

- Năm là: Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có
thể phát huy tác dụng. Nghĩa là để tiến hành bất kỳ hoạt động SXKD nào cũng
đều cần phải có một lượng vốn tối thiểu nhất định. Trong quá trình SXKD các
doanh nghiệp không chỉ khai thác tiềm năng về vốn sẵn có mà mà còn phải tìm
cách thu hút vốn, huy động thêm vốn đầu tư cho hoạt động SXKD.
- Sáu là: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu và phải được quản lý chặt
chẽ. Tùy từng loại hình doanh nghiệp mà người sở hữu vốn có đồng thời là
người sử dụng vốn hay không. Tuy nhiên, trong trường hợp nào thì vốn cũng
gắn với một chủ sở hữu nhất định và có chi phí sử dụng vốn khác nhau.
Nắm bắt được một cách đúng đắn các đặc điểm trên của vốn kinh doanh
là những vấn đề hết sức quan trọng để các doanh nghiệp huy động, quản lý sử
dụng vốn kinh doanh một cách tiết kiệm và hiệu quả.
1.1.1.3. Vai trò của vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
- VKD là cơ sở để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng
là chỉ tiêu đánh giá kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
- Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến năng lực sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thương trường.
Mặt khác doanh nghiệp muốn mở rộng phạm vi hoạt động thị sau một
chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp phải có lãi, đảm bảo vốn có thể bảo toàn và phát
triển. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, VKD là điều kiện tiên quyết cho
sự ra đời của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp cần phải huy động, quản lý
sử dụng VKD của mình một cách tiết kiệm và hiệu quả.
1.1.1.4. Phân loại vốn kinh doanh

6



Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều loại, để phục vụ cho yêu cầu
quản lý, sử dụng vốn kinh doanh một cách tiết kiệm và hiệu quả, ta có thể
phân loại chúng theo những tiêu thức nhất định
a, Phân loại theo kết quả của hoạt động đầu tư
Theo tiêu thức này vốn kinh doanh của doanh nghiệp được phân loại
thành VKD đầu tư vào tài sản lưu động, tài sản cố định và tài sản tài chính
của doanh nghiệp.
 Vốn kinh doanh đầu tư vào TSLĐ là số vốn đầu tư để hình thành các
TSLĐ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao
gồm các loại vốn bằng tiền, vốn vật tư hàng hoá, các khoản phải thu, các loại
TSLĐ khác của doanh nghiệp.
 Vốn kinh doanh đầu tư vào TSCĐ là số vốn đầu tư để hình thành các
TSCĐ hữu hình và vô hình như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện
vận tải, thiết bị truyền dẫn, thiết bị, dụng cụ quản lý, các khoản chi phí mua
bằng phát minh, sang chế, nhãn hiệu sản phẩm độc quyền, giá trị lợi thế về vị
trí địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
 Vốn kinh doanh đầu tư vào tài sản tài chính (TSTC) là số vốn doanh
nghiệp đầu tư vào các TSTC như: cổ phiểu, trái phiếu doanh nghiệp, trái
phiếu Chính phủ, kì phiếu ngân hàng, chứng chỉ quỹ đầu tư và các giấy tờ có
giá khác.
Mỗi loại tài sản đầu tư vào doanh nghiệp có thời hạn sử dụng và đặc
điểm thanh khoản khác nhau. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian
luân chuyển của vốn kinh doanh cũng như mức độ rủi ro trong sử dụng vốn
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế cách phân loại trên giúp cho doanh
nghiệp có thể lựa chọn được cơ cấu tài sản đầu tư hợp lý, hiệu quả.
b, Phân loại theo đặc điểm luân chuyển của vốn
Theo tiêu thức này, VKD của doanh nghiệp được chia thành Vốn cố định
và Vốn lưu động.

7



 Vốn cố định của doanh nghiệp
Vốn cố định của doanh nghiệp là số vốn đầu tư để xây dựng hoặc mua
sắm các TSCĐ sử dụng trong kinh doanh.
TSCĐ là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn, có thời gian sử
dụng lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo
quy định hiện hành ở nước ta, các tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải có
giá trị từ 30 triệu đồng và thời gian sử dụng 1 năm trở lên. Các tư liệu lao
động không đủ các tiêu chuẩn trên được gọi là các công cụ lao động nhỏ,
được đầu tư bằng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Là số vốn tiền tệ ứng trước để xây dựng, mua sắm TSCĐ nên quy mô
của VCĐ nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô, năng lực và trình độ kỹ thuật của
TSCĐ. Ngược lại các đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật của TSCĐ lại chi phối
đặc điểm luân chuyển của VCĐ.
So với VLĐ, VCĐ có các đặc điểm cơ bản sau:
 VCĐ tham gia vào nhiều chu kì SXKD và giữ nguyên hình thái vật
chất ban đầu. VCĐ có đặc điểm này vì TSCĐ được sử dụng lâu dài trong
nhiều chu kỳ SXKD nhất định. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong quá trình
quản lý, ngay từ khâu đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh nghiệp cần phải quan
tâm đến những tiến bộ khoa học kỹ thuật vì nó có ảnh hưởng rất lớn đến năng
lực và trình độ kỹ thuật của TSCĐ.
 VCĐ chu chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Trong mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh chỉ có một bộ phận VCĐ được
chu chuyển và cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh dưới hình thức khấu hao
TSCĐ tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. Bộ phận còn lại chưa
chu chuyển tồn tại dưới hình thức là giá trị còn lại của TSCD. Bộ phận này
ngày một giảm đi cùng với sự gia tăng về thời gian sử dụng của TSCĐ.
 VCĐ chỉ hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ đã hết thời hạn
sử dụng.


8


Chính vì VCĐ có đặc điểm luân chuyển như trên nên đòi hỏi việc quản
trị VCĐ phải luôn gắn liền với việc quản trị hình thái hiện vật của nó là
TSCĐ bên cạnh đó phải có những biện pháp tổ chức và sử dụng VCĐ sao cho
vừa bảo toàn vừa phát triển được VCĐ. Không những thế, VCĐ là một bộ
phận quan trọng trong toàn bộ vốn đầu tư nói riêng và VKD nói chung. Do
đó, việc quản trị VCĐ có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp việc quản trị VKD
của doanh nghiệp.
 Vốn lưu động của doanh nghiệp
Vốn lưu động (VLĐ) của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước dùng
để mua sắm, hình thành các TSLĐ dùng trong SXKD của doanh nghiệp như
nguyên nhiên vật liệu dự trữ sản xuất, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm,
thành phẩm chờ tiêu thụ, các khoản vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
Đặc điểm cơ bản của VLĐ:
 VLĐ chỉ tham gia vào một chu kỳ SXKD và luôn thay đổi hình thái
biểu hiện. Quy mô, nhu cầu VLĐ tuỳ thuộc vào từng chu kỳ, theo quy mô
kinh doanh của từng chu kỳ.Từ hình thái ban đầu là tiền VLĐ được chuyển
hóa sang hình thái vật tư dự trữ, sản phẩm dở dang, thành phần hàng hóa và
kết thúc quá trình tiêu thụ trở về hình thái ban đầu là tiền.
 VLĐ chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn
bộ sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
 VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn khi doanh nghiệp kết thúc chu
kỳ SXKD.
Từ đặc điểm của VLĐ đòi hỏi quản trị VLĐ cần phải quan tâm đến các
vấn đề sau:
- Phải xác định được VLĐ cần thiết tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ, tránh tình trạng ứ đọng vốn gây

trở ngại hoặc thiếu vốn làm cho quá trình sản xuất bị gián đoạn.
- Tăng cường tổ chức khai thác các nguồn tài trợ VLĐ đảm bảo cho
VLĐ luôn đầy đủ, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phải luôn

9


quan tâm tìm giải pháp thích ứng nhằm tổ chức quản lý sử dụng VLĐ luôn
đạt hiệu quả cao.
Cách phân loại này cho thấy đặc điểm luân chuyển của từng loại VKD,
từ đó giúp cho doanh nghiệp có biện pháp tổ chức quản lý, phân bổ sử dụng
VKD của doanh nghiệp sao cho phù hợp.
1.1.2. Nguồn hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một yếu tố và là tiền đề cần thiết cho
việc hình thành và phát triển hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Để
có thể biến những ý tưởng và kế hoạch kinh doanh thành hiện thực, doanh
nghiệp cần phải có một lượng vốn nhằm hình thành nên những tài sản cần
thiết cho hoạt động của doanh nghiệp để đạt được mục tiêu đề ra. Do đó đòi
hỏi doanh nghiệp phải tổ chức tốt nguồn vốn.
Để tổ chức và lựa chọn hình thức huy động vốn một cách thích hợp và
hiệu quả cần phải có sự phân loại nguồn vốn của doanh nghiệp thành nhiều
loại khác nhau.
 Dựa vào quan hệ sở hữu vốn
Dựa vào tiêu thức này có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành hai
loại: Vốn chủ sở hữu và Nợ phải trả.
-Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp,
bao gồm số vốn chủ sở hữu bỏ ra và phần bổ sung từ kết quả kinh doanh. Vốn
chủ sở hữu tại một thời điểm có thể được xác định bằng công thức sau:
Vốn chủ sở hữu = Giá trị tổng tài sản – Nợ phải trả
-Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có

trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác. Nợ phải trả bao
gồm vốn chiếm dụng và các khoản nợ vay.
Vốn chiếm dụng bao gồm: NPT người cung cấp, thuế và các khoản phải
nộp nhà nước, nợ phải trả công nhân viên…

10


Các khoản nợ vay bao gồm: vốn vay từ các ngân hàng thương mại, tổ
chức tài chính, vốn vay thông qua phát hành trái phiếu.
Thông thường doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn: Vốn chủ
sở hữu và Nợ phải trả để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao.
 Dựa vào thời gian huy động và sử dụng vốn
Căn cứ vào tiêu thức này có thể chia nguồn vốn của doanh nghiệp thành
hai loại: Nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.
- Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một
năm) doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các yêu cầu có tính chất tạm
thời phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn tạm
thời thường bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, các
khoản nợ ngắn hạn khác.
- Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn
định mà doanh nghiệp có thể sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn
này thường được sử dụng để mua sắm, hình thành TSCĐ và một bộ phận
TSLĐ thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp tại một thời điểm có thể
được xác định bằng công thức:
Nguồn vốn thường xuyên= Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn
Hoặc
Nguồn vốn thường xuyên = Giá trị tổng tài sản của doanh nghiệp – Nợ
ngắn hạn

Nguồn vốn lưu động thường xuyên: là nguồn vốn ổn định, có tính chất
dài hạn để hình thành hay tài trợ cho tài sản lưu động (TSLĐ) thường xuyên
cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (có thể là một phần hay
toàn bộ tài sản lưu động thường xuyên tuỳ thuộc vào chiến lược tài chính của
doanh nghiệp).

11


Nguồn vốn lưu động thường xuyên của một doanh nghiệp tại một thời
điểm có thế được xác định theoo công thức sau:
Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tổng nguồn vốn thường xuyên
của doanh nghiệp – Tài sản dài hạn
Hoặc
Nguồn vốn lưu động thường xuyên = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
Phân loại theo cách này giúp DN xem xét, huy động các nguồn vốn phù
hợp với thời gian sử dụng tài sản và có cơ sở để lập các kế hoạch tài chính.
 Dựa vào phạm vi huy động vốn
Căn cứ vào tiêu thức này, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành
nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài.
- Nguồn vốn bên trong: Là nguồn vốn có thể huy động được vào đầu tư
từ chính hoạt động của bản thân doanh nghiệp tạo ra. Nguồn vốn bên trong
thế hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp. Nguồn vốn từ bên trong của
doanh nghiệp bao gồm: Lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư. Đây là nguồn tăng
thêm tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn bên ngoài của doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh
nghiệp có thể huy động từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn từ bên ngoài bao hàm một số nguồn
vốn chủ yếu sau:
+ Vay người thân (đối với doanh nghiệp tư nhân)

+ Vay Ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác
+ Gọi góp vốn liên doanh liên kết
+ Tín dụng thương mại của nhà cung cấp
+ Thuê tài sản
+ Huy động vốn bằng phát hành chứng khoán (đối với một số loại hình
doanh nghiệp được pháp luật cho phép)
Với cách phân loại này giúp doanh nghiệp có sự lựa chọn khi huy động
vốn sao cho cơ cấu vốn tối ưu hay cơ cấu vốn có chi phí thấp nhất và mang lại

12


hiệu quả cao nhất. Nguồn vốn bên trong là rất quan trọng nhưng thường
không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp nên cần phải tìm
kiếm nguồn vốn từ bên ngoài. Tuỳ từng loại hình doanh nghiệp và đặc điểm
kinh tế - kỹ thuật của các ngành nghề khác nhau mà có các cách kết hợp các
nguồn tài trợ khác nhau.
1.2. Quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm, mục tiêu quản trị vốn kinh doanh
Trong cơ chế bao cấp trước đây các doanh nghiệp không thực sự coi
trọng vấn đề hiệu quả quản trị vốn.Tuy nhiên khi nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải cạnh tranh rất gay gắt để có thể tồn
tại và phát triển. Đối với mỗi doanh nghiệp, có vốn chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa đủ để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu của mình. Bởi lẽ, có vốn nhưng
công tác quản trị vốn không hiệu quả thì doanh nghiệp khó có thể bảo toàn
vốn, đứng vững và phát triển trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường.
Quản trị tài chính doanh nghiệp nói chung là việc lựa chọn, đưa ra quyết
định và tổ chức thực hiện các quyết định tài chính nhằm đạt được các mục
tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm
các hoạt động của người quản lý liên quan đến việc đầu tư, mua sắm, tài trợ

và quản lý tài sản của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Quản trị vốn kinh doanh là một nội dung của quản trị tài chính doanh
nghiệp. Quản trị VKD trong doanh nghiệp là quá trình doanh nghiệp tạo lập,
sử dụng VKD một cách hiệu quả, qua đó giúp doanh nghiệp tìm kiếm lợi
nhuận, tối đa hóa giá trị.
Trong quá trình hoạt động, mục tiêu chung của doanh nghiệp là nhằm
tìm kiếm lợi nhuận, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Quản trị VKD cũng là
hoạt động giúp doanh nghiệp hướng tới mục tiêu chung ấy. Vốn dù tạo lập từ
nhiều nguồn khác nhau thì trong quá trình sử dụng, doanh nghiệp luôn phải

13


đối mặt với chi phí sử dụng. Việc sử dụng vốn vì thế cần đảm bảo về quy mô,
cơ cấu vốn hợp lý đáp ứng nhanh chóng kịp thời nhu cầu vốn của doanh
nghiệp; hiệu suất sử dụng cao giúp đẩy nhanh vòng quay của vốn, gia tăng
hiệu suất hiệu quả sử dụng. Mỗi đồng vốn khi đó sẽ tạo ra được lợi nhuận lớn
hơn chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra, doanh nghiệp sẽ đạt mục tiêu chung tối đa
hóa giá trị doanh nghiệp.
1.2.2 Nội dung quản trị vốn kinh doanh
1.2.2.1. Tổ chức đảm bảo nguồn vốn kinh doanh
a, Xác định đúng đắn nhu cầu VKD
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra thường
xuyên, liên tục. Trong quá trình đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng
vốn lưu động cần thiết để đáp ứng các yêu cầu mua sắm vật tư dự trữ, bù đắp
chênh lệch các khoản phải thu, phải trả giữa doanh nghiệp với khách hàng,
đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hàng
bình thường, liên tục. Đó chính là nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, cần
thiết của doanh nghiệp.
Như vậy, “Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết là số vốn

lưu động tối thiểu cần thiết phải có để đảm bảo cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành bình thường, liên tục.”
Chính vì vậy, trong quản trị VKD, các doanh nghiệp phải chú trọng
đến công tác xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết, phù hợp
với quy mô và điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi lẽ nếu xác định
dưới mức thực tế thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều
khó khăn, có thể gây đình trệ, gián đoạn sản xuất. Tuy nhiên nếu xác định trên
mức này thì có thể gây ra tình trạng ứ đọng vốn, sử dụng vốn lãng phí, kém
hiệu quả.
* Các phương pháp xác định nhu cầu vốn lưu động

14


 Phương pháp trực tiếp :
Nội dung cơ bản của phương pháp này là: Xác định trực tiếp nhu cầu
vốn cho hàng tồn kho, các khoản phải thu, các khoản phải trả nhà cung cấp rồi
tập hợp lại thành tổng nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp.
• Xác định nhu cầu vốn hàng tồn kho
+ Xác định nhu cầu VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất:.
Nhu cầu vốn HTK
Trong đó:
Mij : Chi phí sử dụng bình quân một ngày của HTK i
Nij : Số ngày dự trữ của HTK i
n

: Số loại hàng tồn kho cần dự trữ

m


: Số khâu (giai đoạn) cần dự trữ hàng tồn kho

+ Dự kiến khoản phải thu: Các khoản nợ phải thu có thể xác định theo
công thức sau:

Vpt = Dtn x Npt

Trong đó:
Vpt : Vốn nợ phải thu.
Dtn : Doanh thu bán hàng bình quân một ngày
Npt : Kỳ thu tiền trung bình (ngày)
+ Dự kiến khoản phải trả: Dự kiến các khoản phải trả nhà cung cấp được
xác định theo công thức sau:
Vpt = Dmc x Nmc
Vpt : Nợ phải trả kỳ kế hoạch
Dmc : Doanh thu mua chịu bình quân một ngày kỳ kế hoạch
Nmc : Kỳ trả tiền trung bình cho nhà cung cấp
Ưu điểm: xác định nhu cầu VLĐ tương đối chính xác.
Nhược điểm: việc tính toán phức tạp, khối lượng tính toán nhiều.

15


 Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu vốn lưu động thường xuyên
của doanh nghiệp:
Phương pháp này dựa vào phân tích tình hình thực tế sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp năm báo cáo, sự thay đổi về quy mô kinh doanh và tốc độ luân
chuyển VLĐ năm kế hoạch hoặc sự biến động nhu cấu VLĐ theo doanh thu
thực hiện năm báo cáo để xác định nhu cầu VLĐ năm kế hoạch.
Cụ thể:

- Phương pháp điều chỉnh theo tỷ lệ phần trăm nhu cầu VLĐ so với năm
báo cáo: Dựa vào thực tế nhu cầu VLĐ năm báo cáo và điều chỉnh nhu cầu
theo quy mô kinh doanh và tốc độ luân chuyển VLĐ năm kế hoạch.
- Phương pháp dựa vào tổng mức luân chuyển vốn và tốc độ luân chuyển
vốn năm kế hoạch: Nhu cầu VLĐ được xác định căn cứ vào tổng mức luân
chuyển VLĐ (doanh thu thuần) và tốc độ luân chuyển VLĐ dự tính của năm
kế hoạch.
- Phương pháp dựa vào tỷ lệ phần trăm trên doanh thu: Dựa vào sự biến
động theo tỷ lệ trên doanh thu của các yếu tố cấu thành VLĐ của doanh
nghiệp năm báo cáo để xác định nhu cầu VLĐ theo doanh thu năm kế hoạch.
Dự báo nhu cầu vốn lưu động
Xác định mức chênh lệch = (NCVLĐTX thực tế - NCVLĐTX dự tính)/
(NCVLĐTX dự tính) x 100%
Thông qua mức chênh lệch giữa NCVLĐTX thực tế với NCVLĐTX dự
tính ta có thể đánh giá được mức độ chính xác, phù hợp của phương pháp xác
định nhu cầu VLĐ mà doanh nghiệp đang áp dụng. Nếu mức chênh lệch càng
lớn phản ánh mức sai lệch khá lớn giữa nhu cầu vốn thực tế với nhu cầu dự
tính. Như vậy phương pháp mà doanh nghiệp đang áp dụng là chưa hợp lý,
doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp xác định phù hợp hơn nhằm xác

16


định một cách chính xác nhất nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho kỳ kế
hoạch.
b, Tổ chức hợp lý nguồn vốn kinh doanh
Để đáp ứng nhu cầu VKD cho hoạt động của doanh nghiệp, doanh
nghiệp cần phải tổ chức và huy động vốn từ các nguồn tài trợ một cách hợp lý
nhằm duy trì hoạt động liên tục của doanh nghiệp và đạt hiệu quả cao nhất với
chi phí sử dụng vốn thấp nhất. Doanh nghiệp huy động vốn từ các nguồn:

- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy động
được vào đầu tư từ chính hoạt động của bản thân doanh nghiệp tạo ra. Nó thể
hiện khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp. Nguồn vốn bên trong của doanh
nghiệp bao gồm: Lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư. Đây là nguồn tăng thêm tài
sản và nguồn vốn của công ty.
- Nguồn vốn bên ngoài: Bao gồm một số nguồn vốn chủ yếu như: Vay
ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác, gọi góp vốn liên doanh
liên kết, tín dụng thương mại của nhà cung cấp, các khoản vốn chiếm dụng
khác như tiền lương phải trả người lao động, Thuế và các khoản phải nộp Nhà
nước, người mua trả tiền trước… Đi vay vốn từ bên ngoài có thể mang lại
nhiều rủi ro cũng như áp lực thanh toán đúng hạn cho doanh nghiệp nhưng
nếu sử dụng hiệu quả có thể làm gia tăng lợi ích của chủ sở hữu vì chi phí sử
dụng vốn của nó thấp hơn sử dụng nguồn vốn bên trong doanh nghiệp.
Mặt khác, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm nguồn vốn tạm thời
và nguồn vốn thường xuyên.
- Nguồn vốn tạm thời: Bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức
tín dụng. các khoản nợ ngắn hạn khác. Nguồn vốn này có tính chất ngắn hạn
(dưới một năm) doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các yêu cầu có tính
chất tạm thời phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

17


- Nguồn vốn thường xuyên: Là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn
định mà doanh nghiệp có thể sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn
này thường được sử dụng để mua sắm, hình thành TSCĐ và một bộ phận
TSLĐ thường xuyên cần thiết cho hooạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy vốn là yếu tố, là tiền đề cần thiết cho việc hình thành và phát
triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dù lựa chọn hình thức huy
động vốn nào thì doanh nghiệp cũng phải đánh đổi giữa chi phí sử dụng vốn

và rủi ro có thể gặp phải. Do đó, việc tổ chức hợp lý nguồn vốn kinh doanh là
điều hết sức quan trọng.
1.2.2.2. Phân bổ vốn kinh doanh
Sau khi đã xác định số vốn đem đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh
thì công việc tiếp theo là phải phân bổ VKD sao cho hợp lý. Thực chất của
việc phân bổ VKD là xác định cơ cấu, tỷ trọng của từng loại vốn thành phần
sao cho phù hợp. Quyết định phân bổ vốn kinh doanh hết sức quan trọng với
doanh nghiệp, vì mỗi ngành nghề khác nhau đòi hỏi cơ cấu vốn kinh doanh là
hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn như với ngành khai khoáng thì yêu cầu một
lượng vốn cố định rất lớn, còn đối với ngành thương mại dịch vụ thì lại yêu
cầu lượng vốn lưu động lớn hơn so với lượng vốn cố định.
Qua việc xem xét tỷ trọng, cơ cấu từng loại vốn thành phần ta có thể
thấy được chính sách đầu tư vốn của doanh nghiệp như thế nào, đã thực sự
hiệu quả và phù hợp với ngành nghề hay chưa. Doanh nghiệp cần phải quan
tâm đến vấn đề phân bổ vốn ngắn hạn, dài hạn để có một cơ cấu nguồn vốn
tối ưu nhằm cân đối được giữa rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp, từ đó tối
đa hóa giá trị doanh nghiệp.
1.2.2.3.Quản trị vốn lưu động của doanh nghiệp
` a, Quản trị vốn bằng tiền

18


Vốn bằng tiền (gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển) là
một bộ phận cấu thành tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Đây là loại tài sản
có tính thanh khoản cao nhất và quyết định đến khả năng thanh toán nhanh
của doanh nghiệp. Tuy nhiên vốn bằng tiền bản thân nó không tự sinh lời, nó
chỉ sinh lời khi được đầu tư vào mục đích nhất định. Hơn nữa với đặc điểm là
tài sản có tính thanh khoản cao nên vốn bằng tiền cũng dễ bị thất thoát, gian
lận, lợi dụng.

 Tầm quan trọng của quản trị vốn bằng tiền
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn có nhu
cầu dự trữ vốn bằng tiền ở một mức độ nhất định. Có ba lý do như sau: Nhằm
đáp ứng các yêu cầu giao dịch, thanh toán hàng ngày như trả tiền mua hàng,
trả tiền lương, tiền công, thanh toán cổ tức hay nộp thuế của doanh nghiệp;
giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội đầu tư sinh lời hoặc kinh doanh
nhằm tối đa hóa lợi nhuận; từ nhu cầu dự trữ hoặc khắc phục các rủi ro bất
ngời có thể xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp…
 Nội dung quản trị vốn bằng tiền của doanh nghiệp
- Xác định mức dự trữ tiền mặt hợp lý
Việc xác định mức tồn dự trữ tiền mặt hợp lý có ý nghĩa quan trong giúp
doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán bằng tiền mặt cần thiết trong kỳ,
tránh được rủi ro không có khả năng thanh toán. Giữ được uy tín với các nhà
cung cấp và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chớp được cơ hội kinh doanh
tốt, tạo được khả năng thu được lợi nhuận cao.
- Quản lý chặt chẽ các khoản thu chi tiền mặt
Hoạt động thu chi vốn bằng tiền của doanh nghiệp diễn ra hàng ngày,
hàng giờ. Hơn nữa với đặc điểm là tài sản có khả năng thanh khoản cao nhất
nên vốn bằng tiền rất dễ bị mất mát, gian lận, lợi dụng. Vì vậy, doanh nghiệp

19


cần phải có biện pháp quản lý, sử dụng vốn bằng tiền chặt chẽ, thực hiện mọi
khoản chi tiền mặt đều phải qua quỹ nhằm tránh tình trạng thất thoát loại vốn
này.
- Chủ động lập và thực hiện kế hoạch lưu chuyển tiền tệ hàng năm
Doanh nghiệp cần phải có biện pháp hợp lý đảm bảo cân đối thu chi tiền
mặt và sử dụng nguồn tiền mặt tạm thời nhàn rỗi (đầu tư tài chính ngắn hạn).

Thực hiện dự báo và quản lý có hiệu quả các dòng tiền nhập, xuất ngân quỹ
trong từng thời kỳ để chủ động đáp ứng nhu cầu thanh toán khi đáo hạn.
b, Quản trị các khoản phải thu
Khoản phải thu là số vốn của doanh nghiệp bị khách hàng chiếm dụng
do mua chịu hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc phát sinh các khoản phải thu là
hết sức bình thường. Nhưng nợ phải thu phải đảm bảo ở một mức độ hợp lý,
không quá lớn, có thể kiểm soát được. Nếu các khoản phải thu quá lớn, tức là
số vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng cao, không thể kiểm soát nổisẽ ảnh
hưởng xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy,
quản trị các khoản phải thu là một trong những trọng tâm của quản trị vốn lưu
động nói riêng, của quản trị tài chính nói chung.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để thu hút khách hàng, nhanh
chóng tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp thường áp dụng phương thức bán
chịu đối với khách hàng. Bởi lẽ, nếu không tiêu thụ được sản phẩm có nghĩa
là doanh nghiệp mất đi cơ hội tiêu thụ hàng hóa và thu được lợi nhuận. Tuy
nhiên việc bán chịu cũng làm tăng thêm một số chi phí đối với doanh nghiệp
như chi phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, rủi ro nợ xấu. Bằng việc
so sánh giữa lợi nhuận có thể thu được và chi phí phải bỏ ra để quản lý các
khoản phải thu doanh nghiệp sẽ quyết định có bán chịu hay không. Do đó,

20


quản trị các khoản phải thu là một nội dung quan trọng trong quản trị vốn lưu
động, doanh nghiệp cần có biện pháp quản lý tốt khoản nợ này.
Để quản trị tốt các khoản phải thu, doanh nghiệp cần phải chú trọng thực
hiện các biện pháp sau đây:
+ Xác định chính sách bán chịu hợp lý với từng đối tượng khách hàng:
tuy khoản phải thu là thiết yếu với mỗi doanh nghiệp, nhưng việc bán chịu

phải dựa trên cơ sở uy tín, mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn của khách hàng.
Tùy theo mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn này, rủi ro mà khách hàng đem lại
mà doanh nghiệp áp dụng chính sách bán chịu nới lỏng hay thắt chặt. Doanh
nghiệp cũng cần xây dựng chính sách bán chịu với các điều khoản, thời hạn
bán chịu cũng như tỷ suất chiết khấu thanh toán. Về nguyên tắc, doanh nghiệp
cũng chỉ bán chịu khi lợi ích đem lại cho nghiệp lớn hơn các chi phí doanh
nghiệp bỏ ra để quản trị các khoản phải thu.
+ Phân tích uy tín tài chính của khách hàng mua chịu:
Đánh giá uy tín tài chính thông qua báo cáo tài chính, các thông tin thu
thập... để thấy được khả năng thanh toán của khách là cần thiết để công ty xây
dựng chính sách tín dụng thương mại với từng khách hàng.
+ Áp dụng các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả thu hồi nợ:
Trước những nguy cơ về thất thoát vốn do các khoản nợ phải thu đem
lại, doanh nghiệp cần có cho mình các biện pháp cụ thể như: Sử dụng kế toán
thu hồi nợ chuyên nghiệp hay xác định trọng tâm quản lý và thu hồi nợ trong
từng thời kỳ để có chính sách thu hồi nợ thích hợp. Các biện pháp cần căn cứ
vào điều kiện cụ thể để áp dụng một cách có hiệu quả.
c, Quản trị vốn tồn kho dự trữ
Tồn kho dự trữ là những tài sản mà doanh nghiệp dự trữ để đưa vào sản
xuất hoặc bán ra sau này.

21


×