MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:...........................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài :.........................................................................................2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài:.....................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu:...................................................................................3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:......................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu:.............................................................................4
II. PHẦN NỘI DUNG:......................................................................................4
1. Cơ sở lý luận:.................................................................................................4
2.Thực trạng:......................................................................................................5
2.1 Thuận lợi- khó khăn:.....................................................................................6
2.2 Thành công- hạn chế:....................................................................................7
2.3 Mặt mạnh- mặt yếu:.......................................................................................7
2.4Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: …………………………………….7
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra:.................8
3. Giải pháp, biện pháp:....................................................................................9
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:................................................................9
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:................................10
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp:.....................................................15
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp:..................................................16
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu:....................16
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu:......................................................................................................................17
III. Phần kết luận, kiến nghị:...........................................................................17
1. Kết luận:.........................................................................................................17
2. Kiến nghị:.......................................................................................................19
1
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của
giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn
ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn ngữ còn
là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức,
tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là
một nhiệm vụ quan trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho trẻ.
Ở lứa tuổi Mầm non, văn học là một môn nghệ thuật, văn học xây dựng nên
những tác phẩm phản ánh cuộc sống và những tình cảm hết sức đa dạng, phong phú
của con người. Văn học là phương tiện hiệu quả góp phần phát triển nhân cách trẻ
một cách toàn diện. Văn học được giáo viên Mầm non sử dụng một cách có mục đích,
phù hợp, sáng tạo sẽ giúp trẻ thu nhận kinh nghiệm tích cực và tạo cảm giác hưng
phấn, vui tươi. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì
vậy cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn học là con đường phát triển ngôn ngữ cho
trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất.
Văn học là một môn học độc lập của trẻ trước tuổi. Nó giúp trẻ nắm được một số
khái niệm sơ đẳng về hình tượng các nhân vật. Nếu cảm nhận các tác phẩm văn học
tốt sẽ giúp trẻ cảm thụ, thể hiện tác phẩm văn học hiệu quả hơn. Ngoài ra giáo viên
mầm non sử dụng các thể loại truyện kể để ổn định lớp, vào bài, chuyển tiếp tác
phẩm, trong giờ học hoặc chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác tạo sự hứng
thú, thư giãn, gây sự chú ý cho trẻ.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng, trẻ rất nhạy cảm với
nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát ru, đồng dao, ca dao, dân ca
sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc biệt hấp dẫn
trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy trẻ kể
chuyện sáng tạo là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất, hiệu quả nhất. Ở
giai đoạn này, cảm nhận thẩm mĩ đã có một bước phát triển trong tiếp nhận văn học.
Sự tiếp nhận tác phẩm đầy đủ hoàn thiện hơn, biểu hiện trước tiên là sự hiểu biết
những câu chuyện cổ tích, bài thơ, những đoạn văn xuôi hay và sự làm giàu tình cảm
qua quá trình tích lũy hình tượng nghệ thuật.
2
Đối với trẻ mẫu giáo lớn thì sự quan tâm tới tác phẩm văn học sẽ giúp trẻ hiểu
được nội dung tác phẩm, các nhân vật trong tác phẩm trở nên gần gũi dễ hiểu hơn. Sự
cảm thông với nhân vật, sự lo lắng cho số phận của nhân vật của trẻ đã mang đặc
điểm cá tính hơn. Sự hồi hộp, lo lắng này của trẻ em đã nếm trải ngay cả trong sự kiện
đời sống hàng ngày.
Thông qua việc trẻ kể chuyện sáng tạo giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc
tưởng tượng sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện,
ngôn ngữ của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết
trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ
của trẻ.
Là giáo viên dạy trẻ mầm non 5 - 6 tuổi tôi đã nhận thức rõ được tầm quan trọng
của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện sáng
tạo. Từ đó tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra " Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mầm non 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo tại trường
mầm non Hoa Cúc". Hy vọng với đề tài nghiên cứu này tôi sẽ tìm ra giải pháp tốt nhất
trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
nhằm giúp trẻ tích lũy và mở rộng vốn từ phong phú, đa dạng, giúp trẻ diễn đạt rõ
ràng, mạch lạc, là điều kiện tốt để trẻ học đọc sau này.
Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp thích trò chuyện với những người xung
quanh, thích đưa ra những câu hỏi và trả lời rõ ràng, mạch lạc
Giáo viên có kinh nghiệm hơn trong việc tổ chức dạy trẻ kể chuyện sáng tạo
3. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sư phạm nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ nghiên cứu: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ.
Đối tượng khảo sát: Học sinh mầm non 5-6 tuổi lớp lá 2, trường mầm non Hoa
Cúc Thị trấn Buôn Trấp, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk.
3
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2015- 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp khảo sát
Qua khảo sát thực tế tại lớp tôi chủ nhiệm ở lớp Lá 2 với số lượng là 34 trẻ. Tôi
đã khảo sát trên trẻ các mặt như: kể diễn cảm, phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt, phát
âm rõ ràng mạch lạc, tích cực tham gia vào hoạt động môn làm quen văn học, hứng
thú tham gia kể chuyện sáng tạo, biết thể hiện ngôn ngữ hoàn cảnh (kể chuyện sáng
tạo), khả năng diễn xuất hoạt cảnh, đóng kịch.
Kết quả cụ thể như sau:
Khi chưa áp dụng
hình thức đổi mới
Tỉ lệ
Kể diễn cảm
15/34
44,1 %
Phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt
18/34
52,9 %
Phát âm rõ ràng mạch lạc
23/34
67,6 %
Tích cực tham gia vào hoạt động môn
làm quen văn học
24/34
70,6 %
Hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo
13/34
38,2 %
Biết thể hiện ngôn ngữ hoàn cảnh (kể
chuyện sáng tạo)
9/34
26,5 %
Khả năng diễn xuất hoạt cảnh, đóng kịch
10/34
29,4 %
Nội dung
b. Phương pháp quan sát, đàm thoại
Tôi đã dùng phương pháp quan sát và đàm thoại với trẻ một số câu hỏi xem trẻ
trả lời như thế nào, đặc điểm phát triển ngôn ngữ trẻ như thế nào.
Ví dụ: Con có thích câu chuyện cáo, thỏ và gà trống không? Tại sao? Con thích
nhất nhân vật nào? Con có thể kể tóm tắt câu chuyện cho cô nghe được không? Hoặc
trong giờ hoạt động góc trẻ chơi góc bác sĩ, trẻ bế búp bê giả vờ khám cho búp bê, cô
có thể đến bên cạnh trẻ hỏi trẻ đang làm gì, và kể cho cô nghe búp bê bị bệnh gì, hoặc
4
đang khám bệnh cho cô giáo....Cô lắng nghe và hướng dẫn trẻ kể câu chuyện trẻ
muốn kể một cách sáng tạo giúp kích thích sự sáng tạo và trí tưởng tượng của trẻ.
c. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Trước tiên tôi lập thư mục thống kê các sách báo, tài liệu liên quan đến đề tài
nghiên cứu về sự phát triển ngôn ngữ trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động dạy
trẻ kể chuyện sáng tạo.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Trẻ 5- 6 tuổi sử dụng lượng lớn ngôn ngữ và vận dụng linh hoạt vào giao tiếp và
vận dụng từ ngữ chính xác hơn. Trẻ sử dụng ngữ pháp phức tạp hơn, chính xác hơn.
Trẻ thể hiện bản thân với tông giọng khác nhau. Khả năng nói trình bày ý nghĩa, hiểu
ngôn ngữ hoàn cảnh của trẻ cũng đã phát triển hơn.
Các nhân vật trong những câu chuyện mở ra cho trẻ một tầm nhìn về cuộc sống
với xã hội và thiên nhiên, các mối quan hệ qua lại của con người. Những câu từ diễn
tả tính cách của nhân vật đã giúp trẻ nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ
ngữ trong tác phẩm văn học.
Ở trường mầm non phát triển ngôn ngữ cho trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng.
Giáo viên cần phải khơi dậy ở trẻ tình yêu đối với từ ngữ nghệ thuật thông qua cách
đọc kể diễn cảm, cao hơn nữa là biết dùng ngôn ngữ của mình để kể chuyện sáng tạo.
Đây là một nhiệm vụ rất phức tạp, yêu cầu khi kể chuyện sáng tạo trẻ phải tự nghĩ ra
một nội dung câu chuyện, tạo ra cấu trúc logic được thể hiện trong hình thức nói
tương ứng (lời nói kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan).
Để thực hiện được yêu cầu này đòi hỏi trẻ phải có vốn từ phong phú, các kỹ năng
tổng hợp, kỹ năng truyền đạt ý nghĩ của mình một cách chính xác, tập trung chú ý và
nói biểu cảm. Những kỹ năng này trẻ lĩnh hội được trong quá trình nhận thức có hệ
thống bằng con đường luyện tập thường xuyên hàng ngày.
2. Thực trạng
Ban đầu khi chưa thực hiện nghiên cứu đề tài trẻ của tôi mặc dù đã nói rõ ràng
nhưng ngôn ngữ của trẻ vẫn còn nhiều hạn chế, trong câu nói của trẻ chưa có tư duy
5
nhiều, chưa thật sự sáng tạo. Trẻ chưa hứng thú trong việc kể chuyện sáng tạo. Giáo
viên ít cho trẻ kể chuyện sáng tạo
2.1. Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi
Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu trường mầm non Hoa Cúc về
chuyên môn xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục
mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình mầm non mới, đầu tư
về cơ sở vật chất đầy đủ. Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt
chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập và rút
kinh nghiệm.
Phụ huynh quan tâm đến con em mình, nhiệt tình ủng hộ cùng tôi trong việc dạy
dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng dạy học
và vui chơi cho các cháu.
Bản thân là giáo viên được phân công chủ nhiệm lớp 5 tuổi, được sự tín nhiệm
và tin cậy của phụ huynh, có trình độ đạt chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình yêu nghề
mến trẻ. Có khả năng đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết định hướng cho trẻ kể
chuyện sáng tạo có hiệu quả đã tạo được môi trường hoạt động ở lớp phong phú.
* Khó khăn
Nhà trường chưa có phòng chức năng riêng, chưa có nhiều trang phục để trẻ
được nhập vai diễn phù hợp với từng nội dung câu chuyện.
Do kinh nghiệm sống của trẻ còn ít, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ
dùng từ không chính xác, câu lủng củng, trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ
của người lớn xung quanh trẻ. Một số trẻ mới đi học chưa có nề nếp học tập cũng như
kiến thức của trẻ còn hạn chế, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt
động cho trẻ kể chuyện sáng tạo.
Đa số phụ huynh bận công việc hoặc một lí do khách quan nào đó ít có thời gian
trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ chưa được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu mà trẻ
cần giao tiếp.
Phụ huynh phần lớn là lao động nghèo, nên rất khó khăn trong việc hỗ trợ đóng
góp kinh phí để tạo góc hoạt động văn học cho trẻ.
6
Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp các môn
học khác và chưa đầu tư sưu tầm các câu chuyện ngoài chương trình.
Qua các năm thực hiện chuyên đề cho trẻ làm quen tác phẩm văn học giáo viên
đã thực sự có nhiều đầu tư vào việc nâng cao các phương pháp, hình thức cho trẻ, đã
chú trọng nhiều đến việc đọc, kể diễn cảm và dạy trẻ kể lại chuyện, kể sáng tạo dưới
nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Song việc dạy trẻ đóng kịch còn có nhiều hạn
chế.
Bên cạnh đó khả năng cảm nhận các tác phẩm truyện kể của giáo viên còn hạn
chế giọng đọc và cách phối hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ, minh họa chưa bộc lộ cảm
xúc hấp dẫn cuốn hút trẻ, phương pháp lồng ghép tích hợp chưa linh hoạt sáng tạo,
kết quả trên trẻ chưa cao, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy
học chưa có khoa học, dẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý, hiệu quả trên tiết học
chưa cao.
2.2. Thành công và hạn chế
* Thành công
Ngôn ngữ của trẻ tăng dần, trong giờ học kể chuyện sáng tạo trẻ có hứng thú
tham gia vào hoạt động. Giáo viên có khả năng thu hút trẻ tham gia vào hoạt động kể
chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ
* Hạn chế
Trẻ chưa thật sự hứng thú kể chuyện sáng tạo chính vì vậy ngôn ngữ của trẻ chưa
phong phú, chưa mạch lạc. Giáo viên chưa có sáng tạo trong việc chuyển thể từ
chuyện kể sang kịch bản sân khấu, không tạo ra được tính kịch - sự kiện, lời thoại còn
dài dòng khó hiểu.
2.3: Mặt mạnh- mặt yếu
* Mặt mạnh
Trẻ thích tham gia vào hoạt động kể chuyện sáng tạo, giáo viên biết khắc phục
khó khăn của nhà trường, lên chương trình đầy đủ, phù hợp với trẻ và chủ đề trẻ đang
học.
* Mặt yếu
7
Nhiều trẻ chưa mạnh dạn, chưa có ý tưởng để kể chuyện sáng tạo, chưa dám kể
chuyện theo ý của mình nên việc phát triển ngôn ngữ còn yếu
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Môi trường lớp học chưa trang trí phù hợp, chưa lôi cuốn được trẻ vào tham gia
hoạt động phát triển ngôn ngữ như mong muốn
Trẻ chưa được trực tiếp sử dụng nhân vật nhiều, hầu hết là cô hoặc được một vài
trẻ sử dụng. Khi trẻ trực tiếp cầm các nhân vật thì trẻ mới hứng thú tham gia vào hoạt
động từ đó mới khơi gợi ý tưởng trẻ mới nói lên những suy nghĩ của bản thân về nhân
vật.
Giáo viên chưa chủ động linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động đóng kịch
cho trẻ. Nếu có thì chủ yếu là trong tiết học. Còn trong các giờ chơi, các buổi sinh
hoạt thì hầu như chưa có.
Đồ dùng trực quan còn ít, chưa đa dạng phong phú, thẩm mỹ chưa đạt, giá trị sử
dụng chưa cao. Đặc biệt là đồ dùng cho trẻ hoạt động còn rất ít.
Chưa chú ý lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
Công tác tuyên truyền phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động dạy trẻ
kể chuyện chưa sâu sắc, chưa thuyết phục phụ huynh
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Môi trường trang trí chưa phù hợp, trước đây chưa chú trọng vào việc phát triển
ngôn ngữ qua hoạt động kể chuyện sáng tạo cho trẻ nên trang trí chưa nổi bật chưa
làm cho trẻ thật sự hứng thú tham gia vào kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ.
Vì vậy khi thực hiện nghiên cứu đề tài này tôi đã có hướng thay đổi tạo môi trường có
các nhân vật trong các câu chuyện để khơi gợi sự tư duy, tò mò của trẻ, từ đó trẻ thích
kể nói về các nhân vật kể các tình tiết trong câu chuyện theo ý của trẻ
Việc khảo sát thực tế cũng là một bước rất cần thiết và quan trọng khi chưa thực
hiện nghiên cứu tôi chỉ đánh giá trẻ chung chung nhưng khi bước vào nghiên cứu tôi
nhận thấy rằng cần phải khảo sát kỹ hơn để biết được trẻ đã đạt ở mức độ nào từ đó
tìm ra các biện pháp khác phù hợp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
Trong giờ học giáo viên rất ít cho trẻ cầm đồ dùng là các nhân vật có trong câu
chuyện để trẻ khám phá, tò mò tự kể câu chuyện theo ý thích của trẻ. Vì lý do là sợ trẻ
8
làm hư hỏng đồ dùng, cho trẻ kể được sử dụng các nhân vật để kể lại câu chuyện còn
những trẻ còn lại chỉ ngồi lắng nghe và quan sát. Qua một thời gian nghiên cứu tôi
thấy nên dạy trẻ mầm non 5 - 6 tuổi cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời
kể sáng tạo. Để làm được điều này giáo viên cần dành thời gian làm đồ dùng đồ chơi
là các nhân vật trong các câu chuyện, đồ dùng đồ chơi phải phong phú và đa dạng
nhiều hình thức. Cho tất cả các trẻ đều được sử dụng các nhân vật, được đội mũ các
nhân vật đóng kịch không những trong giờ học mà trong giờ đón trẻ, trả trẻ cô cũng
có thể cho trẻ tiếp xúc làm quen đặc biệt là những trẻ rụt rè, nhút nhát.
Khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo tôi chưa lồng ghép các môn học khác vào nên
chưa tạo được không khí mới lạ trong câu chuyện. Vì vậy cần phải lồng ghép các môn
học khác như âm nhạc, câu đố, ca dao… vào khi kể chuyện sáng tạo là rất cần thiết
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên
Trước đây công tác tuyên truyền phụ huynh tôi thường tuyên truyền cách chăm
sóc sức khỏe, cách dạy con học toán, chữ cái, v.v…còn việc tuyên truyền cho phụ
huynh phát triển ngôn ngữ cho trẻ là rất ít và chưa cụ thể rõ ràng. Nếu trẻ được phát
triển ngôn ngữ thông qua kể chuyện sáng tạo ở lớp rồi về nhà được phụ huynh rèn
luyện nữa thì ngôn ngữ của trẻ sẽ phát triển rất mạnh. Mà ngôn ngữ là một trong năm
lĩnh vực giúp trẻ phát triển toàn diện.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Tôi chọn các giải pháp này dựa vào đặc điểm phát triển của trẻ lớp tôi đang chủ
nhiệm, dựa vào điều kiện thực tế về môi trường, đồ dùng đồ chơi, nhận thức của phụ
huynh trẻ. Tôi nhận thấy các giải pháp này là cần thiết, vì mỗi giải pháp đều góp phần
giúp cho trẻ phát triển ngôn ngữ. Khi tạo môi trường hoạt động phù hợp, đẹp mắt sẽ
tạo cho trẻ sự hứng thú từ đó trẻ sẽ hứng thú tham gia vào hoạt động kể chuyện sáng
tạo. Sử dụng biện pháp khảo sát thực tế đầu năm giúp cho giáo viên biết trẻ đang phát
triển ngôn ngữ ở mức độ nào từ đó có biện pháp phát triển tiếp theo cho phù hợp.
Biện pháp dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo giúp
cho trẻ tự tin hơn, trẻ sẽ hiểu được nội dung của câu chuyện, biết được đặc điểm tính
cách của các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình. Với biện pháp lồng ghép các
môn học khác khi dạy trẻ mầm non 5 - 6 tuổi kể chuyện sáng tạo sẽ làm cho môn học
9
thêm phong phú, sáng tạo hơn về mặt ngôn ngữ. Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh
để phụ huynh nhận thức được rằng phát triển ngôn ngữ là rất quan trọng đặc biệt là
thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Nếu các biện pháp này được kết hợp hài hòa
và đầy đủ tôi tin chắc rằng ngôn ngữ của trẻ sẽ ngày càng rõ ràng hơn, mạch lạc hơn,
sử dụng ngôn ngữ phong phú và đa dạng hơn không những giờ kể chuyện mà còn
trong giao tiếp hàng ngày.
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
* Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động cho trẻ mầm non 5 - 6 tuổi kể chuyện
sáng tạo.
Tạo môi trường cho trẻ hoạt động là rất cần thiết trong chương trình giáo dục
mầm non mới. Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích thích trẻ phát
triển ngôn ngữ, tham gia vào các hoạt động và kết quả đạt được rất cao. Với mỗi chủ
điểm khác nhau, tôi luôn trang trí các góc bằng cách làm mới để kích thích tính tò mò
của trẻ. Tôi đặc biệt quan tâm đến góc văn học của bé để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trên các mảng tường tại góc tôi thường trang trí các nhân vật có trong các câu chuyện
hay những câu chuyện có kèm hình ảnh để trẻ kể chuyện sáng tạo… từ đó cũng cố
vốn từ cho trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Hơn thế nữa tôi còn mày mò viết tập truyện tranh chữ to và sưu tầm một số bộ
truyện tranh ngoài chương trình để đưa vào giảng dạy tạo cho trẻ sự hứng thú tham
gia vào hoạt động. Những câu chuyện được thể hiện ở góc văn học, những nhân vật
và truyện tranh sưu tầm đó sẽ giúp trẻ dễ tri giác, trẻ được thảo luận, bàn bạc về câu
chuyện đó.
Từ đó trẻ biết vận dụng những kiến thức đó vào kể chuyện sáng tạo một cách dễ
dàng. Ngoài việc tạo những bức tranh nhân vật ở góc văn học, những tập truyện tranh
chữ to tôi còn đi sâu làm một số đồ dùng trực quan cho trẻ hoạt động như: một số con
rối dẹt có bánh xe, có cử động tay chân và tận dụng những truyện tranh cũ, những sản
phẩm vẽ của trẻ, cắt dán bôi bìa cứng cho trẻ ghép tranh kể chuyện sáng tạo hoặc cắt
rời các con vật cho trẻ tự chọn các con vật đó để kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của
mình.
10
Qua cách nghĩ và làm như vậy tôi đã tạo ra một góc văn học với đầy đủ chủng
loại về đồ dùng trực quan đa dạng phong phú, đã giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt
động và trẻ có thể nảy ra nhiều ý tưởng hay khi trẻ kể chuyện sáng tạo.
Tạo môi trường cho trẻ kể chuyện sáng tạo là một việc làm vô cùng quan trọng
bởi nó là chỗ dựa, là cơ sở vững chắc cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Đòi hỏi cô giáo phải
biết tạo cảm xúc cho trẻ bằng các con vật ngộ nghĩnh, đáng yêu, đồng thời cũng phải
biết hướng lái, gợi mở cho trẻ có cảm xúc tích cực khi tham gia hoạt động kể chuyện
sáng tạo.
Qua nội dung các bức tranh, các nhân vật, các con rối trẻ được xem và nói lên
nhận xét của mình về các đồ dùng đó.
Như vậy ngôn ngữ của trẻ sẽ được phát triển một cách phong phú và đa dạng
hơn.
* Biện pháp 2: Dạy trẻ mầm non 5 - 6 tuổi cách sử dụng nhân vật phù hợp với
ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Không những tạo môi trường hoạt động với đầy đủ các loại đồ dùng trực quan đa
dạng phong phú, thu hút sự hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo của trẻ thì chúng ta
còn phải dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Giờ đón, trả trẻ hay giờ chơi hàng ngày tôi thường đọc kể cho trẻ nghe những
câu chuyện truyện tranh mà tôi sưu tầm. Đây là hình thức cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học, là cơ sở cho trẻ có kiến thức vững vàng khi thực hiện kể chuyện sáng
tạo. Với cách làm quen như vậy trẻ biết đánh giá, nhận xét về đặc điểm tính cách của
các nhân vật thông qua ngôn ngữ nói của mình.
Ví dụ: Dê con thật thà, sói già hung ác, cô Tấm hiền lành, bà tiên ông bụt thì tốt
bụng còn phù thuỷ, mụ gì ghẻ thì độc ác.
Ngoài ra tôi thường xuyên quan tâm định hướng cho trẻ quan sát các tranh
chuyện, cho trẻ xem qua đĩa hình các câu chuyện . Đồng thời kết hợp tri giác với đàm
thoại giữa cô và trẻ, giúp trẻ nhận xét đánh giá nội dung truyện một cách chính xác và
nói lên ý tưởng của mình qua sự nhận thức. Từ đó trẻ sẽ có nền tảng để kể chuyện
sáng tạo theo ý riêng của mình.
11
Tôi dạy trẻ kể chuyện theo từng nhóm, theo thời gian thực hiện một tuần hoặc
hai tuần, kết hợp lồng ghép các môn học khác, các trò chơi để củng cố và khắc sâu
kiến thức, mở rộng vốn hiểu biết về thế giới xung quanh cho trẻ.
* Sau đây là một số cách dạy trẻ sử dụng đồ dùng trực quan:
- Dạy trẻ sử dụng rối tay: dạy trẻ sử dụng từng con một, kết hợp với lời nói, ngôn
ngữ biểu cảm cùng với cách diễn rối qua cử động các con rối đi lại.
- Dạy trẻ ghép tranh kể chuyện: chọn những tranh mà trẻ thích ghép thành một
dải câu chuyện sau đó kể từng tranh kết hợp với lời nói chỉ dẫn thông qua các nhân
vật trong tranh.
- Dạy trẻ ghép các nhân vật kể chuyện: chọn những nhân vật mà trẻ thích, sau đó
ghép các nhân vật với nhau tạo thành một câu chuyện theo ý tưởng của trẻ.
- Dạy trẻ kể chuyện bằng sa bàn: chọn những nhân vật mà trẻ thích kết hợp di
chuyển các nhân vật đó trên sa bàn. Nói đến đâu đưa nhân vật ra đến đó, lời kể đi theo
nhân vật sử dụng.
Qua cách dạy trẻ tôi đã tiến hành tổ chức một giờ hoạt động có chủ đích kể
chuyện sáng tạo, chủ đề thế giới thực vật như sau:
Bước 1: Hát bài “ Lí cây bông ”. Hỏi trẻ bài hát nói đến những bông hoa gì ?
màu gì ?.
Bước 2: Nghe cô kể mẫu diễn cảm chuyện sáng tạo của cô ( Truyện: Sự tích hoa
hồng ), cô sử dụng rối kể 1 lần. Đàm thoại với trẻ về câu chuyện của cô (tên nhân vật,
đặc điểm nhân vật, đặt tên cho câu chuyện).
Bước 3: Trẻ đi chọn đồ dùng trực quan mà trẻ yêu thích. Trẻ kể chuyện sáng tạo
theo nhóm, cá nhân. Cô cho trẻ đánh giá và nhận xét câu chuyện của bạn kể. Theo dõi
cách sử dụng đồ dùng trực quan của trẻ để cô góp ý nhận xét.
Qua cách làm này, bước đầu tôi đã thành công trong việc thực hiện dạy trẻ kể
chuyện sáng tạo, giúp trẻ linh hoạt sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với nghe, tay
sử dụng”.
Sau đây là một số câu chuyện của trẻ khi thực hiện kể chuyện sáng tạo:
12
Câu chuyện “Bé làm bác sĩ ” cháu Bảo Ngọc với đồ dùng là một con búp bê và
các dụng cụ khám chữa bệnh được cháu thể hiện như sau:
- Hôm nay em bé chíp (cháu đặt tên cho con búp bê) của tôi bị ốm. Ôi chắc là bị
sốt rồi, tôi phải mau mau khám bệnh cho em chíp mới được. Nhưng mà phải đo nhiệt
kế cái đã xem em sốt mấy độ rồi nào. Em ngoan nhé! Chị sẽ khám cho em rồi em sẽ
mau lành bệnh thôi. Em chíp sốt 40 độ luôn, nhưng nhờ có bác sĩ tôi đây, em đã hạ sốt
lại rồi.
Câu chuyện “Cáo, Thỏ, Gà trống ” của cháu Gia Bảo, Đức Kiên và Thúy Ngân.
Đồ dùng là con cáo, thỏ và gà từ sản phẩm làm bằng rối tay, câu chuyện được các bé
thể hiện như sau:
+ Bạn thỏ ơi cho tôi ở nhờ nhà bạn nhé.
+ Ừ, bạn cứ vào nhà tớ chơi đi.
+ Ha ha ha... cút đi thỏ, đây sẽ là nhà của tao.
+ Hu hu hu…Có ai giúp tôi không? Cáo lấy mất nhà tôi rồi.
+ Bạn thỏ, bạn bị làm sao thế? Được rồi tôi sẽ giúp bạn lấy lại nhà.
+ Ôi cảm ơn bạn nhiều lắm...
+ Cáo kia, hãy mau trả lại nhà cho thỏ đi!.........
Qua phần thể hiện của các cháu tôi nhận thấy các cháu sử dụng rối rất tốt. Ngôn
ngữ của các cháu được thể hiện một cách rất tự nhiên và phong phú. Các cháu đã biết
kết hợp với nhau sử dụng các nhân vật phù hợp ăn khớp với lời kể.
Trong quá trình nghiên cứu và tiến hành kể chuyện sáng tạo đến nay ở lớp tôi đa
số trẻ đã kể chuyện sáng tạo theo ý tưởng của mình. Trẻ rất thích được sử dụng các
nhân vật để kể chuyện sáng tạo. Từ những việc làm đó không những trẻ sử dụng
thành thạo đồ dùng trực quan về các con vật mà còn biết vận dụng sử dụng đồ dùng
trực quan ở các chủ đề khác. Thông qua các câu chuyện sáng tạo của trẻ, trẻ sử dụng
các ngữ điệu, ngắt nghỉ để truyền đạt thái độ, tình cảm của mình đối với tác phẩm. Trẻ
bắt chước giọng kể diễn cảm của cô, trẻ có thể hiểu được một từ dùng với đồ vật này
lại có thể vào các đồ vật khác nữa. Từ đó ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh mẽ, vốn từ
được làm giàu thêm qua đó trẻ cảm nhận được sự phong phú của ngôn ngữ.
13
* Biện pháp 3: Lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ mầm non 5 - 6 tuổi kể
chuyện sáng tạo.
Kể chuyện sáng tạo không những chỉ kể diễn cảm, sử dụng đồ dùng trực quan
sinh động mà còn phải biết kết hợp lồng ghép các môn học vì nó làm thay đổi không
khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. Bằng những lời ca, lời đối thoại, những
câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay một số trò chơi xen lẫn.
Để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng câu chuyện một cách
hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân đòi hỏi giáo viên phải tổ chức kể chuyện một cách
sinh động, hấp dẫn.
Một số cháu đã kể chuyện được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh
ảnh sưu tầm...Sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tạo mọi cơ hội cho
trẻ được kể chuyện sáng tạo.
Âm nhạc là môn bổ trợ cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dễ gây ấn tượng
cho người xem, vì thế tôi cho trẻ hát thuộc các bài hát: “Rửa mặt như mèo”, “ Chú khỉ
con”, “đố biết con gì”,…giúp trẻ khi kể chuyện về con vật nào trẻ có thể hát về các
con vật đó phù hợp với nội dung câu chuyện.
Trò chơi là hình thức chuyển tiếp giữa các lần kể hay thay cho phần củng cố câu
chuyện mà các tiết dạy thường áp dụng. Tôi cho trẻ chơi một số trò chơi ở dạng động
như trò chơi: Bắt chước tiếng kêu con vật, mèo và chim sẻ, gà gáy vịt kêu, trời nắng
trời mưa, cáo và thỏ…
Việc tích hợp các môn học khác, các trò chơi vào cho trẻ kể chuyện sáng tạo là
việc cung cấp thêm một số kiến thức bổ trợ cho câu chuyện sinh động hơn.
Việc tích hợp các môn học khác giáo viên phải linh hoạt, lựa chọn nội dung sao
cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ tham gia vào hoạt động một cách tích
cực nhất và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ nhất.
* Biện pháp 4: Bồi dưỡng cho những cháu yếu.
Để chất lượng Giáo dục nâng lên bản thân tôi luôn tìm ra những biện pháp tối ưu
để bồi dưỡng giúp đỡ trẻ yếu, những trẻ cá biệt. Tôi không những cho những trẻ khá
giỏi tham gia kể chuyện sáng tạo mà còn khuyến khích, gây ấn tượng cho những trẻ
yếu cũng được tham gia kể chuyện sáng tạo. Đoạn nào trẻ kể được tôi dùng hình thức
14
khen trẻ để trẻ được tự tin hơn. Lúc đầu có thể trẻ kể được ít nhưng dần dần trẻ sẽ tiến
bộ hơn, thích học môn học này.
Ngoài ra tôi còn có kế hoạch bồi dưỡng, dạy mọi lúc, mọi nơi và thường xuyên
trao đổi trực tiếp với phụ huynh với nhiều hình thức. Với các trẻ này tôi thường xuyên
quan tâm, chú ý hơn thường xuyên động viên khuyến khích trẻ nhất là trong các giờ
học.
Đối với những trẻ cá biệt tôi thường xuyên trò chuyện, gần gủi để tạo niềm tin
cho trẻ, động viên trẻ cùng làm với bạn. Những lời động viên kịp thời có tác dụng rất
nhiều khuyến khích trẻ hứng thú tham gia các giờ học sau.
* Biện pháp 5: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Trẻ mẫu giáo dễ hứng thú nhưng cũng nhanh chán, dễ nhớ nhưng cũng nhanh
quên. Nếu phối hợp được với phụ huynh ôn luyện thêm ở nhà thì hiệu quả chăm sóc,
giáo dục sẽ rất cao. Vì vây trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi nêu tầm quan trọng
của lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện
sáng tạo. Hàng tháng tuyên truyền với phụ huynh qua các biểu bảng nêu lên nội dung
về chủ điểm, về các câu chuyện sáng tạo của cô và trẻ.
Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và có biện
pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình.
Ví dụ: Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện sáng tạo trẻ đã kể, yêu
cầu phụ huynh về nhà cho trẻ kể lại câu chuyện đó hoặc kích thích trẻ kể các câu
chuyện khác.
Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một cách phong phú và đa dạng.
Huy động phụ huynh đóng góp ủng hộ tạo góc văn học hoặc thu nhập những
nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm như báo, vải vụn, len vụn, các vỏ hộp, mút xốp…kết
hợp trong và ngoài giờ đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.
Có thể nói công tác tuyên truyền với phụ huynh là một việc làm rất quan trọng
trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên phải nắm được đặc điểm của trẻ để có biện pháp phát triển ngôn ngữ
phù hợp
15
Lập kế hoạch khảo sát học sinh từ đầu năm học
Nhiệt tình, kiên nhẫn dành thời gian để tạo được môi trường cho trẻ hoạt động kể
chuyện sáng tạo, thường xuyên làm đồ dùng đồ chơi các nhân vật trong các câu
chuyện đẹp mắt, sáng tạo nhằm tạo hứng thú cho trẻ tham gia vào hoạt động
Biết cách phối hợp nhịp nhàng giữa phụ huynh trẻ với cô giáo, tạo được niềm tin
cho phụ huynh
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các biện pháp này có mối quan hệ gắn bó, hỗ trợ nhau giúp cho trẻ phát triển
ngôn ngữ tốt nhất thông qua hoạt động kể chuyện sáng tạo. Trước hết là tạo môi
trường hoạt động cho trẻ kể chuyện sáng tạo. Tiếp đến là khảo sát thực tế học sinh
đầu năm. Sau đó dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể sáng tạo.
Kết hợp lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo. Cuối cùng là
tuyên truyền kết hợp với phụ huynh để có biện pháp giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ
một cách tốt nhất.
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Kết quả cụ thể mà tôi đã thực hiện trong thời gian qua như sau:
Khi đã áp dụng
hình thức đổi mới
Tỉ lệ
Kể diễn cảm
30/34
88,2 %
Phát triển ngôn ngữ, diễn đạt tốt
31/34
91,2 %
Phát âm rõ ràng mạch lạc
30/34
88,2 %
Tích cực tham gia vào hoạt động môn
làm quen văn học
32/34
94,1 %
Hứng thú tham gia kể chuyện sáng tạo
28/34
82,3%
Biết thể hiện ngôn ngữ hoàn cảnh (kể
chuyện sáng tạo)
25/34
73,5 %
Khả năng diễn xuất hoạt cảnh, đóng kịch
27/34
79,4 %
Nội dung
16
- Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu là giúp giáo viên mầm non có thêm một
số kinh nghiệm và biện pháp để phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động kể chuyện
sáng tạo
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu
Sau khi thực hiện các biện pháp tôi đã thu được một số kết quả sau:
* Về bản thân:
Tôi đã rút ra được nhiều kinh nghiệm qua cách dạy trẻ kể chuyện sáng tạo, sưu
tầm được nhiều truyện tranh, học thuộc nhiều truyện ngoài chương trình.
Tạo được môi trường cho trẻ hoạt động tốt ở các góc, đặc biệt là góc văn học.
Tôi đã tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại rối phong
phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo.
Các tiết dạy kể chuyện sáng tạo của trường tôi tham gia và các hội thi đều được
xếp loại giỏi.
* Kết quả trên trẻ:
Qua các tiết học trẻ rất hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, ngôn ngữ
của trẻ trở nên mạch lạc hơn so với trước đây.
Trẻ hoạt động không bị áp đặt để phát huy năng lực bản thân, được trao đổi,
được nhận xét nên trẻ trở nên năng động hơn.
* Đối với phụ huynh:
- Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc dạy trẻ kể chuyện sáng tạo để phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Đã nhiệt tình đóng góp hỗ trợ kinh phí và nhiều nguyên vật liệu để tạo góc văn
học cho lớp.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Một trong những cơ sở để đánh giá sự phát triển của trẻ là khả năng phát âm
chuẩn, trả lời câu hỏi rõ ràng mạch lạc, kể chuyện sáng tạo. Vì vậy, việc rèn luyện
17
ngôn ngữ cho trẻ hiện nay là một vấn đề quan trọng hàng đầu. Phát triển ngôn ngữ tốt
giúp trẻ nhận thức tốt hơn. Ngoài ra ngôn ngữ còn đóng vai trò quan trọng trong cuộc
sống hàng ngày của trẻ. Trẻ tích cực giao tiếp hơn, thích tham gia vào các hoạt động,
tò mò ham khám phá những điều xung quanh.
Nhìn chung, trẻ em lứa tuổi mầm non đều có những đặc tính tâm lí như sau: Dễ
tiếp thu và cũng dễ phân tán sự tập trung tư tưởng, dễ xúc cảm, hồn nhiên và dễ tin, tư
duy mang tính chất cụ thể và biểu cảm. Những đặc tính đó của lứa tuổi nhỏ đã giúp
cho việc dạy học diễn ra rất dễ dàng. Tính hồn nhiên dễ tiếp thu, xúc cảm và tính cụ
thể của tư duy các em đã tạo nên cơ sở tuyệt vời để phát triển trí tưởng tượng tái hiện
và sáng tạo ra những câu chuyện thật là ngộ nghĩnh, dễ thương... Đặc tính này khiến
cho chúng ta dễ dàng khơi gợi những cảm xúc của các em, kích thích các em đọc, kể
một cách thích thú những câu chuyện mà các em đã được học. Từ đó:
- Giáo viên phải đi sâu nghiên cứu để tạo ra được môi trường tốt cho trẻ hoạt
động một cách tích cực nhất, biết tạo cảm xúc cho trẻ khi kể chuyện sáng tạo. Thường
xuyên trò chuyện với trẻ, khơi gợi trẻ đặt tên cho nội dung vừa trò chuyện hoặc tóm
tắt ngắn gọn những điều vừa trò chuyện.
- Khuyến khích trẻ nói những ý nghĩ của trẻ qua nội dung hay chủ điểm nào đó
nhằm giúp trẻ luyện cách trình bày, diễn đạt ý.
- Cho trẻ tham quan, hướng dẫn từ quan sát sự vật, hiện tượng nhằm mở rộng
vốn hiểu biết cho trẻ; kết hợp đàm thoại để trẻ hiểu sâu bản chất của sự vật, hiện
tượng và nói lên nhận xét của mình.
- Phối hợp tuyên truyền với phụ huynh ở nhà cho trẻ xem băng đĩa các loại
truyện thiếu nhi có ý nghĩa giáo dục nhằm gây cảm xúc và kích thích sự sáng tạo đối
với trẻ. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua các hoạt động dạy trẻ kể chuyện sáng tạo là
một việc làm thiết thực nhất trong chương trình đổi mới hiện nay, đòi hỏi cô giáo phải
có sự sáng tạo linh hoạt khi dạy trẻ, phải có sự kiên trì rèn luyện giữa cô và trẻ thì sẽ
đem lại kết quả cao.
Bằng những kiến thức và kinh nghiệm vốn có, hãy dốc hết tâm sức của mình để
“ Tất cả vì trẻ thơ ”. Như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói:
“Trẻ thơ như búp trên cành
18
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Đúng như vậy, trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu, tâm hồn trẻ thơ ngây, hồn
nhiên như tờ giấy trắng. Mọi hoạt động học tập và vui chơi trong quá trình chăm sóc
giáo dục trẻ ở trường mầm non đều đem lại cho trẻ những điều kỳ lạ, thần tiên.
2. Kiến nghị:
* Đối với nhà trường
- Cần tạo điều kiện cho giáo viên tham quan học tập ở các đơn vị bạn để trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn.
- Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự quan tâm giúp đỡ
của ban giám hiệu trường mầm non Hoa Cúc, của các chị em đồng nghiệp. Nhưng
vẫn không tránh khỏi những thiếu sót rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của
các cấp, sự đóng góp ý kiến của ban lãnh đạo cấp trên và các bạn đồng nghiệp để sáng
kiến ngày càng tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Buôn Trấp, ngày 20 tháng 3 năm 2016
Người viết
Trần Thị Kim Loan
19
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
...
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
20
STT Tên tài liệu
Tác giả
TS Đinh Thị Tứ và PGS-TS
1
Phan Trọng Ngọ. Do NXB giáo
2
3
4
5
- Sách tâm lý học trẻ em lúa t mầm non
dục phát hành
- Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho Trung tâm nghiên cứu giáo dục
trẻ .
Mầm non.
- Phát triển ngôn ngữ chọn lọc .
Đặng Thu Quỳnh
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ Trần Thị Trọng
5-6 tuổi
- Bồi dưỡng thường xuyên
Phạm Thị Sửu
21