Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Một số biện pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện tại bảo hiểm xã hội thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.24 KB, 88 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi .
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả

Lưu Thị Hà Phương


ii
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Vũ Trụ Phi đã tận tình
hướng dẫn, bổ sung kiến thức và gợi mở nhiều vấn đề giúp tôi hoàn thành luận
văn này.
Bên cạnh đó tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô
giáo, người đã truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức vô cùng hữu ích trong
những năm tháng học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Hải Phòng.
Cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau
đại học – Đại học Hải Phòng đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng và các cơ quan đã
hợp tác cung cấp thông tin trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Hải Phòng, ngày 20 tháng 4 năm 2015
Tác giả

Lưu Thị Hà Phương


iii
MỤC LỤC


LỜI CẢM ƠN................................................................................................................ii
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Vũ Trụ Phi đã tận tình hướng dẫn, bổ
sung kiến thức và gợi mở nhiều vấn đề giúp tôi hoàn thành luận văn này...................ii
Bên cạnh đó tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã
truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức vô cùng hữu ích trong những năm tháng học
tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Hải Phòng.........................................................ii
Cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học – Đại
học Hải Phòng đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập. Xin chân thành cảm ơn
Bảo hiểm xã hội thành phố Hải Phòng và các cơ quan đã hợp tác cung cấp thông tin
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.........................................................................ii


iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
ASXH

Giải thích
An sinh xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BHTN


Bảo hiểm thất nghiệp

HĐND

Hội đồng nhân dân

LLLĐ

Lực lượng lao động

TP

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân


v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1
2.2
2.3

2.4
2.5
2.6
2.7
2.8

Số người lao động không được tham gia các chính sách
ngắn hạn
Số thu BHXH qua các năm
Số thu BHXH tự nguyện tính đến ngày 31/12/2014 theo
khối quận huyện
Số người tham gia BHXH tự nguyện
Tổng số người tham gia BHXH tự nguyện từ năm 2008
đến 31/12/2014
Số người tham gia BHXH tự nguyện tại thành phố Hải
Phòng theo ngành nghề
Độ tuổi tham gia BHXH tự nguyện
Nguồn thông tin được tiếp cận về chính sách BHXH tự
nguyện

Trang
42
43
44
44
45
50
51
51


2.9

Về hình thức tham gia BHXH từ trước đến nay

51

2.10

Về mức đóng BHXH tự nguyện

52

2.11

Về điều kiện tham gia BHXH tự nguyện

52

2.12

2.13

Ý kiến về khả năng tài chính tham gia BHXH tự
nguyện
Ý kiến về mức hưởng quyền lợi từ BHXH tự nguyện

53

54



1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nội dung nghiên cứu
Bảo hiểm xã hội là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống an sinh xã hội, là
trụ cột cơ bản của ASXH. BHXH được hình thành từ hàng trăm năm trước đây,
khi kinh tế hàng hóa hình thành và phát triển. BHXH đã trải qua một quá trình
phát triển và thay đổi cả về mô hình nội dung và hình thức thực hiện, từ chế độ
BHXH đầu tiên được thực hiện là chế độ bảo hiểm khi ốm đau đến nay đã có 9
chế độ BHXH được thực hiện trên thế giới, đồng thời đối tượng tham gia BHXH
cũng được mở rộng theo. Một trong những mục tiêu và triết lý của BHXH là ổn
định và phát triển xã hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản, thiết yếu của đời sống
con người.
Trong xã hội hiện đại, các quốc gia, một mặt nỗ lực hướng vào và phát
huy mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, nâng cao
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, tạo ra bước phát triển bền vững và ngày
càng phồn vinh cho đất nước; mặt khác, không ngừng hoàn thiện hệ thống
ASXH, trước hết là BHXH để giúp cho con người, người lao động có khả năng
chống đỡ với các rủi ro xã hội, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro
xã hội khác. Kinh tế ngày càng phát triển theo hướng thị trường, thì ASXH càng
phải đảm bảo tốt hơn.
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và coi trọng thực hiện
các chính sách xã hội đối với người lao động. Chính vì vậy, ngay từ khi thành
lập nước, Chính phủ đã ban hành các đạo luật về BHXH. Chính sách BHXH
trong từng thời kỳ đã đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo ASXH cho đất
nước.
Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài chính sách BHXH cũng chỉ phục vụ
đối tượng người lao động thuộc các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước. Đến
năm 1995, khi Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm
1995, tại Điều 140 đó quy định các loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tự



2
nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để
bảo đảm cho người lao động được hưởng các chế độ bảo hiểm thích hợp.
Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu
vào nền kinh tế thế giới, hệ thống an sinh xã hội, nhất là BHXH phải được phát
triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người lao động, của nhân dân, là một
trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm nhu cầu về an sinh xã
hội, trước hết là nhu cầu về BHXH, là một trong những mục tiêu rất quan trọng,
thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN, đồng thời cũng phù hợp với xu thế
chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an
toàn. Sự phát triển kinh tế thị trường đã mang lại cho đất nước những biến đổi
sâu sắc về kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, thu nhập bình quân của người lao động ngày càng cao,
đời sống kinh tế và xã hội của nhân dân có sự cải thiện rõ rệt. Vấn đề cải thiện
và nâng cao mức sống của người lao động luôn là mục tiêu trước mắt, cũng như
lâu dài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh việc ban hành các chính
sách nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, Nhà nước luôn quan tâm và
coi trọng thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: "Từng bước mở rộng
vững chắc hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ
bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân". Vì vậy, việc
thực hiện chính sách BHXH đặc biệt là BHXH tự nguyện đối với người lao
động tự do, lao động ở khu vực phi chính thức là hết sức cần thiết.
Luật BHXH ra đời có hiệu lực thi hành từ năm 2007. Riêng chế độ
BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam
đã thể chế hóa ở mức cao một nhu cầu rất cơ bản về an sinh xã hội của con
người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp),
trong đó BHXH tự nguyện chủ yếu cho đối tượng là người lao động khu vực phi

chính thức tức là người lao động làm việc không thuộc phạm vi tham gia BHXH
bắt buộc. Như vậy, lần đầu tiên người lao động ở mọi khu vực có quyền lợi


3
trong tham gia BHXH và thụ hưởng chính sách BHXH. Việc triển khai BHXH
tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng do hệ thống BHXH đã phân cấp tổ chức bộ
máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi cho
người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua 7 năm triển khai thực hiện
số lượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện còn rất hạn chế (khoảng
173.000 người) chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động, cũng như định
hướng của Đảng và Nhà nước.
Nguyên nhân số lượng người tham gia còn ít do đặc điểm lao động của
đối tượng tham gia BHXH tự nguyện ở nước ta là: trình độ học vấn và nhận thức
xã hội còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc làm bấp
bênh, thu nhập thấp là những vấn đề ảnh hưởng lớn đến việc triển khai thực hiện
BHXH tự nguyện cho người lao động đặc biệt là người lao động ở khu vực phi
chính thức. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được
sự cần thiết tham gia BHXH; Giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của
người lao động khi thu nhập bấp bênh; Vấn đề thể chế và tổ chức thực hiện, đội
ngũ cán bộ quản lý, thực hiện. Xuất phát từ những lý do trên, em xin chọn đề tài
"Một số biện pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Bảo hiểm xã hội
thành phố Hải Phòng" làm nội dung nghiên cứu.
Luận văn sẽ hệ thống hoá và bổ sung những vấn đề lý luận về BHXH tự
nguyện, từ thực trạng tình hình tham gia BHXH tự nguyện của người lao động
trong thời gian qua, phân tích những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết và kiến
nghị giải pháp phát triển đối tượng BHXH tự nguyện thời gian tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu chủ yếu sau đây:
- Đánh giá thực trạng việc tham gia BHXH và khả năng tham gia BHXH

tự nguyện của người lao động trên địa bàn TP Hải Phòng.
- Đề xuất các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện tại Hải Phòng trong
thời gian tới.


4
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Chính sách BHXH tự nguyện;
- Hiện trạng BHXH tự nguyện ở Hải Phòng.
* Phạm vi nghiên cứu
BHXH tự nguyện ở Hải Phòng giai đoạn 2011 đến 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác- Lê nin.
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê,
phân tích số liệu từ năm 2011 đến năm 2014, nhằm phân tích, đánh giá về thực
trạng hoạt động BHXH tự nguyện tại Hải Phòng và đưa ra các biện pháp nhằm
phát triển đối tượng tham gia BHXH của cơ quan BHXH TP Hải Phòng.
5. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa những vấn đề lý luận về BHXH, BHXH bắt buộc
và BHXH tự nguyện.
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển BHXH tự nguyện tại thành phố
Hải Phòng, qua đó rút ra những kết quả đã đạt được đồng thời chỉ ra nguyên
nhân của những hạn chế về việc phát triển BHXH tự nguyện trên địa bàn thành
phố Hải Phòng.
- Luận văn đã đề xuất hai nhóm biện pháp và kiến nghị một số biện pháp
nhằm phát triển BHXH tự nguyện tại thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề chung về BHXH và BHXH tự nguyện

Chương 2: Thực trạng về việc phát triển BHXH tự nguyện tại TP Hải
Phòng
Chương 3: Một số biện pháp phát triển BHXH tự nguyện tại BHXH TP
Hải Phòng


5
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1. Khái niệm về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội tự nguyện
Trong cuộc sống không phải con người lúc nào cũng khoẻ mạnh, có khả
năng lao động, gặp may mắn để tạo ra thu nhập nuôi sống mình và gia đình. Khi
gặp phải những rủi ro, các nhu cầu thiết yếu phục vụ cuộc sống của con người
không vì thế mà mất đi trái lại có nhu cầu còn tăng thêm thậm chí phát sinh mới
như ốm đau cần được chữa bệnh, sinh con cần thêm thu nhập để nuôi con. Bởi
vậy, con người một mặt tìm cách tự khắc phục “tích cốc phòng cơ, tích y phòng
hàn” một mặt nhờ sự tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng.
Sự phát triển của phân công lao động và trao đổi hàng hoá làm xuất hiện
nền kinh tế hàng hoá. Nhu cầu mở rộng sản xuất dẫn đến việc thuê mướn lao
động. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động nhưng về sau đã phải
cam kết đảm bảo cho người lao động làm thuê một số thu nhập nhất định để họ
trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị rủi ro như: ốm đau, tai nạn,
thai sản, v.v… Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và
người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập,
buộc họ phải bỏ ra những khoản tiền lớn cho người lao động mà họ không
muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc
giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có
tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế- xã hội. Do vậy Nhà nước đã phải đứng
ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn bằng cách buộc giới chủ và giới thợ phải
đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên

cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Sự can thiệp này đã nâng
cao vai trò Nhà nước, số tiền đóng góp của giới chủ và giới thợ hình thành một
quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Ngoài ra, quỹ này còn được bổ sung
từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm bảo đảm đời sống cho người lao động
khi gặp phải những rủi ro, bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó
mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao


6
động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình
có lợi và việc bảo vệ sản xuất kinh doanh được diễn ra bình thường. Vì vậy,
nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả
năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo. Để quá trình tái
sản xuất của xã hội được diễn ra thường xuyên, liên tục và đời sống của người
lao động được đảm bảo an toàn cần phải có BHXH như một tất yếu khách quan.
Như vậy xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi
thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH
và cần thiết được BHXH. Một xã hội không có bảo hiểm như “cầu thang không
có tay vịn”. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu phát triển hệ thống BHXH
càng lớn.
Bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu và sự tồn tại
của nó là tất yếu nhưng đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về BHXH do
có nhiều cách tiếp cận BHXH khác nhau. Có thể đưa ra khái niệm về BHXH
như sau:
"Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm
hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử
dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người sử dụng lao
động, người lao động và sự bảo trợ của Nhà nước, nhằm đảm bảo an toàn đời
sống cho người lao động và cho gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã

hội" [2]
Với tác dụng to lớn trong việc giảm gánh nặng ngân sách, cải thiện đời
sống cho đối tượng, bảo đảm an sinh xã hội bền vững, bảo hiểm xã hội phát
triển rộng rãi bảo đảm cho mọi người lao động đều được tham gia. Nhu cầu tiêu
dùng của người được bảo hiểm xã hội và trợ cấp ngày càng cao, trong xã hội
xuất hiện hình thức bảo hiểm xã hội tự nguyện, mới đầu áp dụng cho những đối
tượng đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà có nhu cầu, có khả năng tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện (chi cho những người tham gia quan hệ lao


7
động). Hiện nay, trên thế giới tồn tại 2 mô hình bảo hiểm xã hội tự nguyện: thứ
nhất là bảo hiểm xã hội tự nguyện áp dụng như là một hình thức bảo hiểm xã hội
bổ sung cho bảo hiểm xã hội bắt buộc, thứ hai là bảo hiểm xã hội tự nguyện mở
cho bất cứ người lao động nào tự nguyện tham gia. Mặc dù mang tính chất tự
nguyện nhưng chính sách BHXH tự nguyện vẫn là chính sách do Nhà nước ban
hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Nhà nước quy định mức
đóng góp để hình thành Quỹ BHXH tự nguyện đủ lớn để chi trả cho người tham
gia BHXH tự nguyện và xây dựng các chế độ mà người tham gia BHXH được
hưởng (bao gồm điều kiện hưởng, mức hưởng) để bảo đảm bù đắp rủi ro cho
người tham gia BHXH tự nguyện. Dưới góc độ tiếp cận đó, có thể đưa ra khái
niệm về BHXH tự nguyện như sau:
''Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một loại hình BHXH do Nhà nước ban
hành để đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao
động bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự tự
nguyện đóng góp một phần thu nhập của người lao động, người sử dụng lao
động nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và cho gia đình họ,
góp phần bảo đảm an toàn xã hội” [2]
Loại hình Bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ có thể được hình thành và thực

hiện trên các cơ sở sau:
Một là, có nhiều người lao động tham gia và có thể cả người sử dụng lao
động tự nguyện tham gia với điều kiện: có nhu cầu thực sự về BHXH; có khả
năng tài chính để đóng phí BHXH tự nguyện; có sự thống nhất với những quy
định cụ thể (mức đóng, mức hưởng, quy trình thực hiện, phương pháp quản lý,
sử dụng quỹ BHXH tự nguyện…) của loại hình BHXH tự nguyện.
Hai là, có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện chế độ, chính sách BHXH tự
nguyện: thu phí BHXH tự nguyện, quản lý quỹ BHXH tự nguyện, quản lý đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện, thực hiện chi trả trợ cấp BHXH tự nguyện
cho các đối tượng được thụ hưởng…


8
Ba là, được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết: bảo hộ quỹ BHXH
tự nguyện, có chính sách ưu đãi cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH tự nguyện.
1.2. Bản chất của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.1. Bản chất kinh tế của BHXH và BHXH tự nguyện
Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng thể
hiện ở chỗ những người tham gia cùng đóng góp một khoản tiền trích trong thu
nhập (khoản đóng góp này sau khi đã chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu và các
nhu cầu cần thiết và không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất – kinh
doanh của cá nhân) để lập một quỹ dự trữ. Mục đích của việc hình thành quỹ
này để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn
đến giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu
nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP được xã hội
phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm
đau, sinh đẻ, già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH
được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là
sự phân phối giữ chính bản thân người lao động theo thời gian (giữa thời gian
lao động và thời gian nghỉ hưu). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa

những người khoẻ mạnh với người ốm đau; giữa người trẻ và người già; giữa
người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Nhờ sự phân phối lại thu
nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được đảm bảo trước
những bất trắc và rủi ro xã hội.
Tóm lại, BHXH tự nguyện được đặc trưng bằng sự vận động của các
nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện nhằm
góp phần ổn định cuộc sống của người tham gia và gia đình họ khi gặp rủi ro
làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động.
1.2.2. Bản chất xã hội của BHXH và BHXH tự nguyện
Bản chất xã hội của BHXH và BHXH tự nguyện được thể hiện ngay trong
mục tiêu của nó. BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của
bất kỳ hệ thống BHXH nào cũng là mục tiêu xã hội. Điều này được thể hiện


9
thông qua việc chi trả chế độ BHXH. Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất khả lao động.
Do có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHXH tự nguyện nên mặc dù
chỉ đóng một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho Quỹ BHXH tự nguyện
nhưng có thể được bồi hoàn một khoản thu nhập đủ lớn để giúp họ trang trải rủi
ro. Ở đây, Quỹ BHXH tự nguyện đã thực hiện nguyên tắc "lấy của số đông, bù
cho số ít" và BHXH tự nguyện được hiểu như một chính sách xã hội nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm, bị mất. Trên góc
độ vĩ mô, BHXH tự nguyện góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Tóm lại, hoạt động BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận mà
hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần
ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điều này giải thích tại sao BHXH được coi là
một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.
Tuy nhiên bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH không tách rời

mà đan xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao động và gia
đình họ là nói đến tính xã hội của BHXH. Ngược lại khi nói đến sự đóng góp ít
nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
1.3. Vai trò của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm xã hội tự nguyện
Trong đời sống kinh tế - xã hội, BHXH nói chung và BHXH tự nguyện
nói riêng đóng vai trò to lớn được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, BHXH tự nguyện góp phần ổn định đời sống của người tham
gia BHXH, đảm bảo an toàn xã hội. Những người tham gia BHXH tự nguyện sẽ
được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng
lao động, mất việc làm, chết... Nhờ có sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập
kịp thời mà người tham gia BHXH tự nguyện nhanh chóng khắc phục được
những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục
quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản thân.


10
Thứ hai, BHXH tự nguyện góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân
phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối
lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho
những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người
khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải
những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH
góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo; giữa
những người đang cống hiến và những người đã cống hiến.
Thứ ba, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của
đất nước.
Trong nền kinh tế hàng hoá, vốn là tiền đề của quá trình sản xuất kinh
doanh. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về vốn càng lớn, các chủ thể có
thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau: Tự tiết kiệm, phát hành cổ phiếu,
đi vay… Quỹ BHXH tự nguyện được hình thành từ sự đóng góp của người lao

động, sự hỗ trợ của Nhà nước và được dùng để chi trả các chế độ BHXH cho
người tham gia. Việc sử dụng Quỹ BHXH tự nguyện không thực hiện cùng một
lúc mà dàn trải theo thời gian vì vậy trong khoản thời gian người lao động chưa
đến tuổi nghỉ hưu, Quỹ BHXH tự nguyện có một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
được sử dụng cho hoạt động đầu tư sinh lời. Quỹ BHXH tự nguyện sẽ tham gia
vào thị trường tài chính và trở thành nguồn cung ứng vốn ổn định, lâu dài đem
đầu tư cho các công trình, dự án lớn phát triển kinh tế- xã hội, góp phần vào
công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Với sức mạnh về
tài chính của mình cùng với sự quản lý của Nhà nước, BHXH tự nguyện sẽ góp
phần ổn định tài chính, tiền tệ quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế đất nước.
1.4. Nội dung của bảo hiểm xã hội tự nguyện
Trong Công ước 102 (ILO, 1984) quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
của Tổ chức lao động quốc tế quy định 9 chế độ BHXH, nhưng không bắt buộc


11
các quốc gia phải thực hiện cả 9 chế độ đó mà chỉ khuyến khích các nước thành
viên thực hiện ít nhất 3 chế độ (đặc biệt lưu ý chế độ 3, 4, 5, 8, 9).
1) Chăm sóc y tế
2) Phụ cấp ốm đau
3) Trợ cấp thất nghiệp
4) Trợ cấp tuổi già
5) Trợ cấp tai nạn lao động
6) Trợ cấp gia đình
7) Trợ cấp thai sản
8) Trợ cấp tàn phế
9) Trợ cấp mất người nuôi dưỡng
Cơ sở để xác định thực thi mỗi chế độ BHXH tự nguyện là căn cứ vào
trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Tại Việt Nam có một số quy

định cụ thể như sau:
1.4.1. Đối tượng áp dụng [9]
Đối tượng áp dụng BHXH theo loại hình BHXH tự nguyện quy định tại
điều 2 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP và hướng dẫn tại Phần 1 Thông tư số
02/2008/TT-BLĐTBXH là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi đối
với nam và từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ không thuộc diện áp dụng
của pháp luật về BHXH bắt buộc, bao gồm:
- Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động dưới thời hạn 3 tháng;
- Cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và ở tổ dân phố;
- Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ;
- Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã;
- Người lao động tự tạo việc làm bao gồm những người tự tổ chức hoạt
động lao động để có thu nhập cho bản thân;
- Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó chưa tham
gia BHXH bắt buộc hoặc tham gia BHXH bắt buộc nhưng đã nhận BHXH một lần.


12
- Người tham gia khác.
1.4.2. Mức đóng, phương thức đóng BHXH tự nguyện [15]
1.4.2.1. Phương thức đóng có 3 phương thức
- Đóng hàng tháng (đóng trong thời hạn của 15 ngày đầu);
- Đóng hàng quý (đóng trong thời hạn của 45 ngày đầu);
- Đóng 6 tháng một lần (đóng trong thời hạn của 3 tháng đầu).
1.4.2.2. Mức đóng BHXH tự nguyện hàng tháng:
Mức đóng

=


Tỷ lệ % đóng

x

Mức thu nhập tháng người tham

hàng tháng
BHXH tự nguyện
gia BHXH tự nguyện lựa chọn
Mức thu nhập tháng người tham gia BHXH tự nguyện lựa chọn thấp nhất
bằng mức lương tối thiểu chung, cao nhất bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
Mức thu nhập tháng người tham gia
BHXH tự nguyện lựa chọn
Lmin : mức lương tối thiểu chung

=

Lmin + m x 50.000 (đồng/tháng)

m = 0,1,2,…n
Tại khoản 1 Điều 100 Luật BHXH quy định: “mức đóng hàng tháng bằng
16% mức thu nhập người lao động lựa chọn đóng BHXH; từ năm 2010 trở đi,
cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%”.
Có bảng tỷ lệ % đóng BHXH tự nguyện sau:
Thời kỳ

01/2008 đến 12/2009
01/2010 đến 12/2011
01/2012 đến 12/2013
Từ 01/2014 trở đi


Tỷ lệ % đóng BHXH tự nguyện (%)

16%
18%
20%
22%

Đăng ký lại phương thức đóng BHXH tự nguyện: Người tham gia BHXH
tự nguyện được đăng ký lại phương thức đóng hoặc mức thu nhập tháng làm căn
cứ đóng BHXH tự nguyện với tổ chức BHXH ít nhất là 6 tháng kể từ lần đăng
ký trước.
Tạm dừng đóng BHXH tự nguyện: Người tham gia BHXH tự nguyện
được coi là tạm dừng đóng khi không tiếp tục đóng BHXH và không có yêu cầu


13
nhận BHXH một lần, trường hợp nếu tiếp tục đóng BHXH tự nguyện thì phải
đăng ký lại phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH
với tổ chức BHXH ít nhất là saub 3 tháng kể từ tháng người tham gia BHXH tự
nguyện dừng đóng.
1.4.3. Các chế độ BHXH tự nguyện [9]
1.4.3.1. Chế độ hưu trí
a) Điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng: có một trong các điều kiện sau
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH tự nguyện
trở lên;
- Nam từ đủ 55 tuổi trở lên, nữ từ đủ 50 tuổi trở lên đối với người tham
gia bảo hiểm xã hội tự nguyện mà trước đó đã có tổng thời gian đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc đủ 20 năm trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ

cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên.
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện mà trước đó đã có tổng thời
gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ 20 năm trở lên, bị suy giảm khả năng lao
động từ 61% trở lên, được hưởng lương hưu với mức thấp hơn khi thuộc một
trong các trường hợp sau:
- Nam từ đủ 50 tuổi trở lên, nữ từ đủ 45 tuổi trở lên;
- Có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm.
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đủ điều kiện hưởng lương hưu
hằng tháng theo quy định tại khoản 2 Điều 9 Nghị định số 190/2007/NĐ-CP khi
nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi đã có từ đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên
hoặc nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi đã có từ đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội bắt
buộc trở lên mà chưa nhận bảo hiểm xã hội một lần có nhu cầu tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện, thì được đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự nguyện cho đến
khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu hằng tháng.
b) Mức lương hưu hàng tháng


14
- Tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng được tính bằng 45% tương ứng với
15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2%
đối với nam, 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.
- Mức lương hưu hàng tháng được tính bằng tích số của tỷ lệ hưởng lương
hưu hàng tháng với mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.
- Mức trợ cấp một lần khi nghỉ hưu được tính theo số năm đóng BHXH,
kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm
đóng BHXH được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng
BHXH tự nguyện.
1.4.3.2. Trợ cấp BHXH một lần
a) Điều kiện hưởng khi có một trong các điều kiện sau

- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có dưới 15 năm đóng BHXH;
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng
BHXH mà không tiếp tục đóng BHXH;
- Chưa đủ 20 năm đóng BHXH mà không tiếp tục đóng BHXH và có nhu
cầu nhận BHXH một lần;
- Ra nước ngoài để định cư;
- TH vừa có thời gian tham gia BHXH bắt buộc vừa có thời gian tham gia
BHXH tự nguyện thì điều kiện hưởng BHXH một lần là sau 12 tháng nghỉ việc
nếu không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhận BHXH một lân.
b) Mức hưởng: mỗi năm đóng BHXH tính bằng 1,5 tháng mức lương bình
quân thu nhập tháng đóng BHXH
1.4.3.3. Chế độ tử tuất
a) Đối với người chỉ có thời gian tham gia BHXH tự nguyện:
- Trợ cấp mai táng
+ Điều kiện hưởng: một trong hai điều kiện sau:
Người tham gia BHXH có ít nhất 5 năm đóng BHXH tự nguyện;
Người đang hưởng lương hưu.
+ Mức hưởng: Trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương tối thiểu chung


15
- Trợ cấp tuất một lần
+ Điều kiện hưởng: một trong các điều kiện sau:
Người đang đóng BHXH tự nguyện;
Người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH tự nguyện;
Người đang hưởng lương hưu.
+ Mức hưởng
Cứ mỗi năm (đủ 12 tháng) được tính là 1,5 tháng mức bình quân thu nhập
tháng đóng BHXH. Nếu có tháng lẻ thì được tính dưới 3 tháng thì không tính, từ
đủ 3 tháng đến đủ 6 tháng thì tính là nửa năm, từ trên 6 tháng đến đủ 12 tháng

tính tròn là 1 năm.
Trường hợp người đang hưởng lương hưu chết: được tính theo thời gian
đã hưởng lương hưu, nếu chết trong hai tháng đầu hưởng lương hưu thì tính
bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng. Nếu chết vào những tháng sau đó cứ
hưởng thêm một tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.
b) Đối với người vừa có thời đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng
BHXH tự nguyện
- Trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương tối thiểu chung
- Trợ cấp một lần
+ Điều kiện hưởng: một trong hai điều kiện sau:
Có thời gian đóng BHXH dưới 15 năm;
Có thời gian tham gia BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên nhưng thân
nhân không đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất tháng.
+ Mức hưởng
Mỗi năm đóng BHXH tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng
đóng BHXH, thấp nhất bằng 3 tháng mức bình quân đóng BHXH, thấp nhất
bằng 3 tháng mức bình quân đóng BHXH. Tháng lẻ dưới 3 tháng thì không tính,
từ đủ 3 tháng đến đủ 6 tháng được tính là nửa năm, từ trên 6 tháng đến đủ 12
tháng tính tròn là 1 năm.


16
Trường hợp người đang hưởng lương hưu chết: được tính theo thời gian
đã hưởng lương hưu, nếu chết trong hai tháng đầu hưởng lương hưu thì tính
bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ
hưởng thêm một tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu.
Mức thấp nhất bằng 3 tháng mức lương hưu đang hưởng trước khi chết.
- Trợ cấp tuất hàng tháng
+ Điều kiện hưởng có đủ các điều kiện sau:
Có thời gian tham gia BHXH bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên;

Có thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bao gồm:
Con chưa đủ 15 tuổi (bao gồm con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá
thú được pháp luật công nhận, con đẻ mà khi người chồng chết người vợ đang
mang thai); con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học; con từ đủ 15 tuổi trở lên nếu bị
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 tuổi trở lên; vợ dưới 55 tuổi
hoặc chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác
mà đối tượng có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ 60 tuổi trở lên đối với nam,
từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ;
Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác
mà đối tượng có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới 60 tuổi đối với nam, dưới 55
tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
+ Mức hưởng
Mức trợ cấp tuất hàng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương
tối thiểu chung. Trường hợp thân nhân không có người nuôi dưỡng trực tiếp
nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hàng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu
chung.
Số thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng không quá 4 người.
Trường hợp có từ hai người chết trở lên thì thân nhân của những người
này được hưởng hai lần mức trợ cấp.


17
Thời điểm thân nhân được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, kể từ tháng liền
kề sau tháng người tham gia BHXH bị chết.
1.5. Nguyên tắc hoạt động
Nguyên tắc của BHXH tự nguyện là những quan điểm, những định hướng
và những quy định về BHXH, để đề ra những phương thức hoạt động của cả hệ
thống BHXH nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Hay nói cách khác, nguyên

tắc BHXH là những quy tắc của các hoạt động BHXH, từ việc hoạch định chính
sách đến xây dựng các chế độ BHXH phải hướng tới để nhằm đạt được những
mục tiêu đã đề ra. Qua nghiên cứu, BHXH tự nguyện được xây dựng trên nền
tảng các nguyên tắc sau:
1.5.1. Nguyên tắc tự nguyện
BHXH tự nguyện được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của người
lao động với tư cách là người tham gia BHXH cũng là người hưởng
BHXH. Trước hết chúng ta cần làm rõ chủ thể tham gia BHXH xét về
mặt quan hệ sản xuất và quan hệ lao động. Đối tượng này vừa là chủ tư
liệu sản xuất (chủ yếu là ruộng đất, công cụ lao động thủ công, nhà
xưởng gắn liền với nơi ở, vốn tự có là chính và một phần quan hệ tín
dụng…), vừa là chủ sức lao động (là người vừa tham gia quản lý, vừa
tham gia lao động). Họ tự hạch toán kết quả sản xuất kinh doanh, đồng
thời tự quyết định phân phối, quyết định đầu tư và chi tiêu ngân sách
trong thu chi gia đình. Bởi vậy, quan hệ của họ với BHXH là quan hệ
“lỏng” hoặc quan hệ “mềm”, không mang tính bắt buộc như quan hệ lao
động trong Bộ luật Lao động điều chỉnh. Bởi vậy họ tham gia BHXH
mang tính “tự nguyện”, trên cơ sở suy nghĩ về “tính lợi ích” khi tham
gia BHXH. Do đó, mọi chính sách BHXH có tính áp đặt, cưỡng chế và
bất lợi (cả trước mắt và lâu dài) đều dẫn đến khả năng thực thi thấp
hoặc thất bại.
1.5.2. Quyền của người tham gia


18
Quyền được BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ
thể của quyền con người. Nhưng BHXH không phải là cái có sẵn, nên trước hết
phải tạo ra nó. Ở mỗi nước khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu tiên,
Nhà nước phải tạo ra điều kiện và môi trường về kinh tế - xã hội, về chính sách
và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý của mình. Không có sự đóng góp này

thì chính sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực
tiễn. Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ
bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH.
Biểu hiện cụ thể quyền được BHXH của người lao động là việc họ được
hưởng trợ cấp BHXH theo chế độ xác định. Các chế độ này gắn với các trường
hợp người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm do
đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống. Trong nền kinh tế thị trường các trường
hợp đó có thể xảy ra rất nhiều và xảy ra một cách ngẫu nhiên. Về nguyên lý thì
mọi trường hợp như thế, người lao động đều phải được hưởng BHXH. Nhưng
giữa nguyên lý với thực tiễn luôn luôn có một khoảng cách rất xa. Khoảng cách
đó do các điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Bởi vậy trên giác độ điều hành vi
mô, cần căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong từng
giai đoạn phát triển để tổ chức và hoàn thiện dần chế độ BHXH đối với các
trường hợp làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động nói trên.
1.5.3. Nguyên tắc trách nhiệm của Nhà nước và người tham gia
Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên
phạm vi cả nước. Với vai trò này, Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật
chất của toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai
trò của mình. Cũng với sự tăng trưởng, sự phát triển của kinh tế - xã hội, cũng
có những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực
tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra
tình trạng như vậy, nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân
sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng
những làm cho đời sống người lao động ổn định mà còn làm cho sản xuất,


19
kinh tế - xã hội của đất nước ổn định. Vì vậy, khi xã hội loài người xuất hiện
BHXH, một dạng bảo hiểm đời sống tiến bộ hơn đối với người lao động so
với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều kiện và càng có

trách nhiệm tổ chức và tham gia hoạt động đó. Trong điều kiện nước ta hiện
nay, chắc chắn quỹ BHXH tự nguyện phải tách ra khỏi NSNN, nhưng vẫn cần
phải có sự bảo trợ của Nhà nước về nguồn tài chính, để bảo đảm cho quỹ
BHXH không bị mất giá do trượt giá, hoặc do biến động về chính trị - xã hội,
thiên tai, chiến tranh…Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới quản lý về BHXH
nói chung, cần phải chia tách ưu đãi xã hội và BHXH. Do vậy đối với nhóm
người lao động yếu thế, cần có những chính sách ưu đãi riêng để giúp họ
vượt qua khó khăn.
Bên cạnh đó, cũng cần phải nhìn nhận trách nhiệm của Nhà nước thông
qua cơ quan BHXH - cơ quan Nhà nước quản lý quỹ BHXH. Trong quá trình
quản lý quỹ BHXH từ sự đóp góp của người lao động, cơ quan BHXH phải
thực hiện các biện pháp đầu tư tăng trưởng quỹ nhằm bảo toàn quỹ, đảm bảo
tài chính để chi trả các chế độ BHXH. Trách nhiệm này rất quan trọng, bởi
suy cho đến cùng những đóng góp của người lao động đó, song với những
đóng góp của người lao động sẽ không đảm bảo chi trả cho bản thân họ bởi
ảnh hưởng của nhiều nhân tố về kinh tế xã hội, do đó cơ quan BHXH phải có
trách nhiệm thực hiện các biện pháp đầu tư để bù đắp thiếu hụt đó. Tuy
nhiên, tài chính để chi trả các chế độ BHXH chủ yếu phải từ đóng góp của
người tham gia BHXH.
Đối với người lao động, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn và
không hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của
bản thân. Vì thế nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ
cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh
chiu trực tiếp và trước hết đã. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải
có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
1.5.4. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít


20
BHXH là hình thức chia sẻ rủi ro của số ít người cho số đông người

cùng gánh chịu. Chỉ có thực hiện việc san sẻ này thì người lao động mới có
thể được đảm bảo về thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ hoạt
động nghề nghiệp khi gặp phải những biến cố (còn gọi là “rủi ro xã hội”).
Cách làm riêng có của BHXH là mọi người tham gia BHXH đóng góp cho
bên nhận BHXH (cơ quan BHXH chuyên nghiệp) tồn tích dần thành một
quỹ BHXH độc lập và tập trung dùng để chi trả trợ cấp cho những người
lao động khi và chỉ khi họ bị giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động
trong nước đều có thể đóng góp dễ dàng, nhưng điều quan trọng là sự đóng
góp đó được thực hiện định kỳ (tháng, quý, năm) để giảm gánh nặng về tài
chính cho người tham gia BHXH và là sự đóng góp của số đông.
Như vậy, trong số đông người tham gia đóng BHXH, chỉ những
người lao động có đủ điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp. Trong
số đó có những người tham gia đóng góp từ lâu, nhưng cũng có người vừa
mới tham gia BHXH. Vì thế số trợ cấp mà họ nhận được lớn hơn rất nhiều
so với số tiền đã đóng góp của họ. Muốn vậy thì không có cách nào khác
là phải lấy kêt quả đóng góp của số đông người tham gia để bù cho số ít
người được hưởng trợ cấp. Những người lao động chưa đủ điều kiện để
hưởng trợ cấp lúc này thì phần đóng góp của họ là để cho người khác
được hưởng, nhưng không vì thế mà họ bị thiệt thòi. Một lúc nào đó trong
cuộc đời lao động, chắc chắn họ cũng sẽ cần phải được hưởng trợ cấp
BHXH. Khi đó, trợ cấp mà họ được hưởng cũng do nhiều người khác
đóng góp.
1.5.5. Nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phương
thức đáp ứng nhu cầu BHXH
Nhu cầu BHXH là cần thiết đối với mọi người lao động. Song nhu cầu đó
phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà lợi ích, các khả năng của người tham gia
BHXH cũng như của Nhà nước.



×