Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG lực QUẢN lý nợ xấu tại AGRIBANK CHI NHÁNH hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

ĐẶNG VĂN HOÀNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC
QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI AGRIBANK
CHI NHÁNH HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH

HẢI PHÒNG - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

UBND THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG

ĐẶNG VĂN HOÀNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC
QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI AGRIBANK
CHI NHÁNH HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH


CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Minh Tiệp

HẢI PHÒNG - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung của Luận văn này hoàn toàn được
hình thành và phát triển từ những quan điểm của chính cá nhân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Bùi Minh Tiệp.
Các nội dung nghiên cứu và kết quả của đề tài này là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh
giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước Hội đồng cũng như kết quả luận văn.
Hải Phòng, ngày …. tháng …. năm 2016
Tác giả

Đặng Văn Hoàng

1


LỜI CẢM ƠN
Qua quá trình học tập và nghiên cứu được sự tận tình giúp đỡ của các thầy
cô, các nhà khoa học, các nhà quản trị cùng toàn thể Ban Giám Đốc và cán bộ
nhân viên Chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thành phố Hải Phòng, tôi đã hoàn

thành chương trình học và nghiên cứu luận văn với đề tài “Một số biện pháp
tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng”
Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa đào tạo sau Đại học Trường Đại học Hải
Phòng đã tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Minh Tiệp đã tạo mọi điều kiện và
tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa cùng toàn thể

Ban Giám Đốc và cán bộ nhân viên Chi nhánh ngân hàng No&PTNT Thành
phố Hải Phòng..
Hải Phòng, ngày … tháng … năm 2016
Tác giả

Đặng Văn Hoàng

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở ra
nhiều cơ hội nhưng theo đó cũng có không ít thách thức đối với nền kinh tế nói
chung và thị trường Tài chính nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho thấy,
việc suy yếu và sụp đổ hàng loạt của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế giới đã
ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ đó xuất phát từ hậu quả do hoạt động tín dụng
mang lại.
Kể từ đầu năm 2008 đến nay, nền kinh tế luôn phải đối mặt với những
khó khăn, sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu, cơ sở hạ toầng trở thành điểm
nghẽn, lạm phát tăng cao. Để kiềm chế lạm phát và những bất ổn vĩ mô, các

chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ được điều hành theo hướng thắt chặt, đã có
tác động mạnh tới tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,
ngân hàng do sức cầu giảm mạnh, thị trường đầu ra cho sản phẩm bị thu hẹp,
hàng tồn kho tăng cao, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn. Ảnh
hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ ngân hàng, tương ứng với việc nợ xấu giữa
DN với ngân hàng ngày càng cao.
Hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam
cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu ngày một gia tăng, cùng với gánh
nặng từ các khoản nợ xấu còn tồn đọng trong một thời gian dài chưa xử lý
được đã và đang đặt các Ngân hàng thương mại trước nguy cơ suy giảm lợi
nhuận, chất lượng các khoản vay giảm sút, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả
sử dụng vốn của ngân hàng. Việc quản lý và kiểm soát nợ xấu luôn cần được
nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc để đảm bảo an toàn trong hoạt
động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung đối với mỗi ngân
hàng.
Ngày 15-11-2013, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký
Quyết định số 53/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án cơ cấu lại tổ chức bộ máy và
hoạt động kinh doanh của Agribank giai đoạn 2013-2015.
3


Nằm trong hệ thống các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng (Agribank
Hải Phòng) đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu gia tăng trong khi quản lý
nợ xấu còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
Nhận thức được tầm quan trọng đó mà đề tài “Một số biện pháp tăng
cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng” đã được tác giả lựa
chọn làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về quản lý nợ xấu của ngân hàng thương

mại, đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank chi nhánh thành phố Hải
Phòng,từ đó đề xuất một số biện pháp tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại
Agribank chi nhánh thành phố Hải Phòng trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động kinh doanh và tình hình quản lý nợ
xấu của Ngân hàng No &PTNT chi nhánh thành phố Hải Phòng
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng quản lý nợ xấu trong hoạt
động cho vay tại Agribank chi nhánh thành phố Hải Phòng giai đoạn
2011-2015 và đề xuất biện pháp cho giai đoạn 2016-2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, nghiên cứu tình huống
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, mục lục, danh mục bảng biểu, Kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank chi nhánh thành phố Hải
Phòng
Chương 3: Một số biện pháp tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank chi
nhánh thành phố Hải Phòng
4


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về nợ xấu của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với

sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều
kiện và động lực đối với sự phát triển của Ngân hàng thương mại và Ngân
hàng thương mại phát triển tạo điều kiện ngược lại thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế.
Ban đầu, Ngân hàng được gọi là ngân hàng của những “Thợ vàng” vì nó
gắn liền với nghiệp vụ đúc hoặc đổi tiền của các thợ vàng. Do lưu hành tiền tệ
riêng của từng quốc gia kết hợp với việc giao thương quốc tế tạo ra nhu cầu
đúc, đổi tiền trong giao dịch buôn bán tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương
mại nơi giao thương. Những người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện đổi bản tệ
lấy ngoại tệ và ngược lại đổi từ ngoại tệ lấy bản tệ, lợi nhuận thu được là chênh
lệch giá mua bán.
Đầu tiên, những nhà buôn tiền – chủ ngân hàng chỉ dùng vốn tự có của
mình để cho vay, nhưng từ hoạt động thực tiễn họ đã nhận thấy rằng thường
xuyên có người gửi vào và cũng có những người lấy tiền ra song tất cả họ
không rút tiền cùng một lúc và đã tạo số dư tiền gửi thường xuyên ở ngân
hàng. Do tính chất vô danh của tiền, nên các chủ ngân hàng đã lấy số dư tiền
gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động
của nhà buôn tiền - kẻ cho vay nặng lãi và trở thành hoạt động của Ngân hàng
thương mại sau này.
Do lợi nhuận từ việc cho vay lớn, nhiều chủ Ngân hàng đã lạm dụng ưu
thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng chỉ
tiền gửi khống để cho vay và dẫn đến các ngân hàng mất khả năng thanh toán,
phá sản. Sự sụp đổ của các Ngân hàng dẫn đến khó khăn cho những nhà buôn,
bên cạnh đó lãi suất vay cao dẫn đến các nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng
với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền với
5


quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được gọi là
Ngân hàng thương mại. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống

của ngân hàng là nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Sự khác biệt
cơ bản giữa NHTM và Ngân hàng thợ vàng lúc đó là NHTM chủ yếu cho vay
chiết khấu thương phiếu dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá (các khoản
phải thu) với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng tiền vay.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, công nghệ đã tạo điều kiện
cho hệ thống Ngân hàng phát triển đa dạng. Do quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong ngân hàng đã hình thành nên Ngân hàng cổ phần. Đồng thời tại mỗi
nước trong những điều kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình
Ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng phát triển, Ngân
hàng đầu tư... Quá trình phát triển đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của
Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các Ngân hàng sở hữu Nhà
nước. Sự mở rộng hoạt động của các Ngân hàng sang các quốc gia khác đã
thúc đẩy sự ra đời của Ngân hàng liên doanh và các tập đoàn Ngân hàng phát
triển mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 20, tạo ra những nghiệp vụ mới như
mở rộng cho vay trung - dài hạn, cho vay đầu tư bất động sản, cho vay kinh
doanh chứng khoán, cho vay tiêu dùng, cho thuê tài sản …Bên cạnh đó, nhiều
hình thức huy động tiền gửi cũng phát triển như tiết kiệm trả lãi cuối kỳ, đầu
kỳ, theo định kỳ, tiết kiệm an sinh, tích luỹ… đồng thời nhờ có sự phát triển
vượt bậc về công nghệ, trong lĩnh vực Ngân hàng nhiều dịch vụ khác cùng phát
triển như rút tiền tự động qua máy ATM 24/24 giờ, bảo lãnh trong nước, mở
L/C, mobile banking, internet banking...
NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với
nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy
NHTM là gì?
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/1997: Ngân hàng thương mại
là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động khác có liên quan. Cũng theo luật này, “Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
6



thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
Trong đó đối với Ngân hàng thương mại, theo nghị định 49/2000/NĐ-CP
ban hành ngày 12/9/2000 được định nghĩa như sau: “ Ngân hàng thương mại là
ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận góp phần thực hiện các mục tiêu
kinh tế của nhà nước”.
1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
a - Hoạt động huy động vốn:
Ngoài nguồn vốn tự có (huy động vốn chủ sở hữu), hoạt động huy động
vốn (huy động vốn nợ) có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thương mại
trong việc tạo lập nguồn vốn để hoạt động kinh doanh. Hoạt động huy động
vốn nợ của ngân hàng thương mại bao gồm:
+ Huy động tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của
dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân
cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán của
tổ chức, cá nhân). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng
nguồn vốn nợ của NHTM.
+ Huy động từ phát hành các công cụ nợ: chủ yếu là phát hành kỳ phiếu
và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn. Trái phiếu phát
hành để huy động vốn trung - dài hạn. Hình thức huy động này mang tính ổn
định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn và
hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn.
+ Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm
điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ, đảm bảo tốt khả năng thanh
khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn
giản và nhanh gọn, có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý và khoản
vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc).

+ Huy động từ vay Ngân hàng Trung ương: Thường là hình thức huy
động cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, áp dụng cho việc
vay để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức huy
7


động này thường làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường.
+ Huy động từ nợ khác: bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký
quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả ... đây là hình thức huy động
mang tính thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể.
b- Hoạt động tín dụng:
Hoạt động tín dụng là hoạt động cấu thành nên tài sản có và có ý nghĩa
quan trọng đối với khả năng tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Hoạt động
tín dụng mang lại thu nhập chính cho NHTM, là hoạt động không thể thiếu làm
nền tảng nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại đó cũng là
hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động tín dụng không tốt sẽ gây ảnh hưởng
lớn đến tính thanh khoản, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của NHTM. Ngân hàng
thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân dưới hình thức cho vay,
chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
c- Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm:
+ Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán
+ Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
+ Dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý
+ Thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân
+ Phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử
+ Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc...
d - Các hoạt động khác:
+ Góp vốn đầu tư, mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác
từ nguồn vốn tự có để đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro và nâng cao

hiệu quả kinh doanh
+ Tham gia thị trường tiền tệ: Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn
khác theo quy định của ngân hàng nhà nước
+ Hoạt động uỷ thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả
việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng
8


Các hoạt động khác như cho thuê két, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ khác theo
quy định của Pháp luật.
1.2. Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm nợ xấu và quản lý nợ xấu
1.2.1.1. Khái niệm nợ xấu
Tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác nhau mà có những khái
niệm về nợ xấu khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì nợ xấu là các khoản
nợ bị suy giảm khả năng thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi.
*/ Quan niệm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu
i. Nợ xấu là nợ không được thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng, bao gồm:
+ Những khoản nợ mà người vay khó có thể trả nợ và yêu cầu điều chỉnh
lại lịch trả nợ nhưng không thanh toán được trong khoảng thời gian đã được
điều chỉnh.
+ Những khoản nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ hoặc tài
sản bảo đảm không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người vay không
thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ.
+ Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người vay phá sản và phần bồi
hoàn cho Ngân hàng ít hơn dư nợ phải thanh toán.
ii. Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được, bao gồm:
+ Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có đủ căn
cứ đòi thanh toán từ người vay.

+ Người vay bỏ trốn hoặc mất tích, không có tài sản giữ lại để thanh toán
nợ.
+ Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người vay
hoặc không thể tìm được người vay.
+ Những khoản nợ mà người vay chấm dứt hoạt động kinh doanh, hoặc
thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
*/ Quan niệm của Phòng thống kê – Liên Hợp Quốc: Một khoản nợ được coi
là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa
trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa
9


thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do
chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
Quan niệm này vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng và
được áp dụng khá phổ biến trên thế giới.
*/ Quan niệm của Việt Nam
Kể từ sau khi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam được ban hành, Việt Nam mới thực
sự đề cập đến khái niệm về nợ xấu. Mặc dù đã dần tiếp cận với những chuẩn
mực quốc tế, đề cập đến việc đánh giá các khoản nợ trên cả khía cạnh định
lượng và định tính, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt nhất định.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được định nghĩa như sau:
"Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm
4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) quy định tại Điều 6 hoặc
Điều 7 Quy định này. Theo đó, nợ xấu cũng được xác định dựa trên yếu tố định
lượng (quá hạn trên 90 ngày) và yếu tố định tính (đánh giá của tổ chức tín dụng
về khả năng trả nợ của khách hàng).
Như đã trình bày, quan niệm về nợ xấu giữa các quốc gia và theo thông
lệ quốc tế đều căn cứ trên hai yếu tố là định tính và định lượng. Tuy nhiên, các

quan niệm này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá khoản vay thông thường trên
cơ sở khả năng trả nợ hiện thời của khách hàng vay mà không đề cập đến
những khoản vay đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng.
Những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng về bản
chất cũng như quy định của pháp luật thì vẫn cần được theo dõi, quản lý và thu
hồi.
Vì vậy, theo quan niệm của tác giả: Nợ xấu là những khoản nợ phát
sinh từ hoạt động cho vay không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
hoặc được đánh giá là không có khả năng thu hồi, bao gồm cả các khoản nợ
xấu thông thường (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo Điều 7 – Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN) và các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng của
ngân hàng được theo dõi tại ngoại bảng.
10


1.2.1.2. Khái niệm quản lý nợ xấu
Hoạt động cho vay của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro và khả năng
phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu phát sinh
sẽ gây hậu quả không nhỏ không chỉ đến hoạt động ngân hàng mà còn tác động
đến cả nền kinh tế. Vì thế, chấp nhận rủi ro để có những biện pháp ngăn ngừa
rủi ro và xử lý tổn thất là việc làm cần thiết và mang lại hiệu quả trong hoạt
động tín dụng ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng.
Xuất phát từ tầm quan trọng và hậu quả mà nợ xấu có thể mang lại, việc
quản lý nợ xấu luôn được các ngân hàng quan tâm và đề ra những yêu cầu cụ
thể.
Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách về nợ
xấu nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
1.2.2. Phân loại nợ xấu
a- Trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với từng khoản
vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt khoản vay hiện tại có quá hạn

hay chưa, người ta chia nợ xấu thành:
- Nợ xấu thông thường: đảm bảo thu hồi đầy đủ trong một khoảng thời gian
nhất định.
- Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần hoặc thu hồi đầy đủ
nhưng thời gian thu hồi kéo dài.
- Nợ xấu mất trắng: không có khả năng thu hồi.
b- Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành:
- Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ chế chính
sách, ốm đau, ...
- Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng cạnh tranh
kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình chây ỳ không trả nợ…
- Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ kém dẫn
đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách hàng; thông
đồng với những sai phạm của khách hàng.
c- Căn cứ việc xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng chia nợ xấu thành:
- Nợ chưa được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán nội bảng
11


- Nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán ngoại bảng
1.2.3. Nội dung quản lý nợ xấu
Trong hoạt động của NHTM, xây dựng được một chính sách quản trị rủi
ro từ hoạt động cho vay và thực thi tốt chính sách đó có ý nghĩa quyết định.
Quản lý nợ xấu đòi hỏi các NHTM cần phải làm tốt từ việc nhận biết nợ xấu
đến việc áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát sinh một cách hiệu quả.
1.2.3.1. Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu
Việc xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu có vai trò quan trọng trong quản lý nợ
xấu. Chỉ tiêu về nợ xấu không chỉ giúp định hướng mà còn có tác động trực
tiếp đến công tác xử lý nợ xấu phát sinh.
Chỉ tiêu về nợ xấu thường được xây dựng cho một thời kỳ hoặc một

khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) trên cơ sở nền kinh tế vĩ mô,
quy mô tín dụng, cơ cấu ngành và đặc điểm về nguồn nhân lực của ngân hàng.
Tùy điều kiện và mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu về nợ xấu có thể được xây dựng theo
hướng thắt chặt hoặc nới lỏng.
Chỉ tiêu về nợ xấu cần đảm bảo các nội dung định lượng (tỷ lệ phần trăm so
với tổng dư nợ, doanh số nợ xấu phát sinh) và định tính (định hướng theo
ngành, theo thời gian, theo địa bàn…).
1.2.3.2. Xác định nợ xấu
Việc xác định nợ xấu cần được NHTM thực hiện định kỳ và đột xuất
ngay khi khách hàng hoặc khoản vay có những biểu hiện nhất định:
a - Dấu hiệu phi tài chính
 Hành vi của khách hàng
+ Tìm cách tránh gặp ngân hàng, miễn cưỡng hoặc chậm cung cấp thông
tin tài chính : Khi nhận thấy hoạt động kinh doanh đang gặp vấn đề, ban lãnh
đạo sẽ thường có xu hướng liên lạc với ngân hàng ít hơn so với khi đang làm
ăn tốt. Khách hàng có những biểu hiện này, Ngân hàng cần tìm hiểu nguyên
nhân đồng thời đánh giá toàn bộ các khoản vay hiện tại của khách hàng, cảnh
báo về khả năng dẫn đến nợ xấu.
+ Khách hàng tỏ ra không đáng tin : Trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng, việc khách hàng không giữ uy tín sẽ là một dấu hiệu rõ nét tiềm ẩn nguy
12


cơ nợ xấu.
 Khả năng quản lý
+ Bằng chứng phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ công ty, đặc biệt là trong
đội ngũ cán bộ quản lý : Việc xảy ra mâu thuẫn giữa những người điều hành có
thể ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến
nguồn thu để trả nợ, tiềm ẩn nợ xấu.
+ Nghỉ ốm dài hoặc bất ngờ của những nhân sự chủ chốt, mất các nhà

quản lý cấp cao : Sự thay đổi bất ngờ và bất thường của đội ngũ cán bộ quản lý
là dấu hiệu cảnh báo hoạt động kinh doanh có sự thay đổi theo chiều hướng bất
lợi hoặc có sự vi phạm pháp luật.
+ Tin đồn bất lợi về doanh nghiệp : Việc phát sinh tin đồn bất lợi, dù
đúng hay không đúng cũng sẽ có những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
cũng như uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ phát
sinh nợ xấu.
+ Đầu tư vào lĩnh vực ngoài kinh nghiệm, chuyên môn, thiếu nhận biết
về vị trí của công ty trên thị trường hoặc về vấn đề cạnh tranh : Trong thời kỳ
hội nhập kinh tế sâu rộng, việc kinh doanh mạo hiểm cũng như không nhận
biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình sẽ không thể giúp doanh nghiệp phát
triển mở rộng hay ít nhất là giữ vững vị thế hiện có của mình.
 Hoạt động kinh doanh
+ Có hoạt động pháp lý chống lại khách hàng, bao gồm cả những khó
khăn với cơ quan thuế hoặc hải quan : Việc vi phạm những quy định của pháp
luật, ngay cả những lỗi đối với việc kê khai thuế, hải quan sẽ ảnh hưởng tới
quyền được hoạt động kinh doanh của khách hàng theo quy định của pháp luật,
có thể phải ngừng hoạt động đối với những vi phạm nghiêm trọng.
+ Các nhà cung cấp, nhà phân phối lớn thay đổi chính sách bán, mua
hàng : Việc thay đổi chính sách của các đối tác, đặc biệt là đối tác lớn sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận
của khách hàng nói riêng.
+ Tình hình môi trường vĩ mô : Ngân hàng cần nắm được những yếu tố
vĩ mô, nằm ngoài tầm kiểm soát của người vay và ảnh hưởng đến khả năng trả
13


nợ của người vay như chi phí tăng nhưng lại không thể chuyển một phần sang
cho khách hàng, lãi suất cao hơn, vấn đề về ngành kinh doanh...để chủ động
đánh giá hoạt động kinh doanh của khách hàng có chịu tác động theo hướng

bất lợi hay không.
b - Dấu hiệu tài chính
 Kết quả kinh doanh
+ Doanh thu tăng quá nhanh nhưng vốn lưu động không sẵn sàng đủ do
tăng cường chính sách bán chịu hoặc phải chịu sức ép cạnh tranh, chênh lệch
lợi nhuận biên thấp sẽ ảnh hưởng tới vốn duy trì hoạt động cũng như khả năng
thanh toán của khách hàng.
+ Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn mức bình quân của ngành.
+ Các khoản thu nhập và chi phí bất thường tăng đột biến.
+ Xuất hiện lỗ ròng hoặc lưu chuyển tiền tệ âm : Một doanh nghiệp sẽ
không thể duy trì được lâu sự tồn tại của mình trong những điều kiện như vậy.
 Tài sản cố định
+ Giá trị còn lại tài sản cố định giảm mạnh : khách hàng thực hiện bán,
thanh lý tài sản nằm ngoài kế hoạch thay mới, dấu hiệu khách hàng có thể gặp
khó khăn, chuyển đổi tài sản cố định thành tài sản có tính lỏng cao hơn, thuận
tiện cho việc thu hẹp hoặc ngừng hoạt động.
+ Tốc độ đầu tư tài sản cố định tăng quá nhanh : việc đầu tư tài sản cố
định quá mức, nằm ngoài khả năng tài chính cũng như huy động vốn của khách
hàng sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cũng như vốn lưu động phục vụ
kinh doanh của khách hàng.
+ Hoạt động của tài sản thấp bất thường : dấu hiệu cho thấy hoạt động
sản xuất kinh doanh có nguy cơ bị thu hẹp hoặc khách hàng có khó khăn về
vốn lưu động để duy trì hoạt động sản xuất.
 Cơ cấu tài chính và quản lý nợ vay
+ Cơ cấu nợ vay/vốn chủ sở hữu thay đổi đột biến theo chiều hướng tăng
tỷ trọng vốn vay.
14


+ Tốc độ tăng nợ vay không tương xứng với tốc độ tăng doanh thu.

+ Trì hoãn tăng vốn hoặc tài trợ dài hạn, hoặc tăng vốn nhưng với mức
lãi suất cao.
+ Thu nhập để lại có xu hướng giảm dần.
+ Khả năng trả lãi kém đi.
+ Yêu cầu ngân hàng thay đổi các điều khoản đảm bảo hoặc các cam kết
trả nợ.
 Các khoản phải thu và phải trả
+ Vòng quay các khoản phải thu/phải trả thương mại chậm lại : Giá trị
các khoản phải thu cũng như thời gian các khoản phải thu đều quan trọng.
Những khoản phải thu bị chậm thanh toán, quá hạn hoặc không thể thu hồi sẽ
ảnh hưởng tới năng lực tài chính của khách hàng. Cùng với đó, các khoản phải
trả tăng đột biến cho thấy khách hàng đang gặp khó khăn, bắt đầu phải trì hoãn
các khoản phải trả và đây cũng chính là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy có vấn
đề rắc rối.
+ Các khoản phải thu, phải trả quá tập trung vào một số đối tác lớn.
+ Các khoản dự phòng phải thu khó đòi tăng nhanh.
 Hàng tồn kho
+ Hàng tồn kho quá nhiều : điều này có thể thấy doanh nghiệp đang vận
hành dưới mức năng lực bán hàng của mình hoặc doanh thu giảm.
+ Nguyên vật liệu mua bị trả lại nhiều
+ Các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho tăng nhanh
Trên cơ sở những dấu hiệu và số liệu nêu trên, ngân hàng sẽ thực hiện
đánh giá khách hàng, khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng để xác định
khoản nợ đó là nợ xấu hay không. Việc xác định khoản vay là nợ xấu sẽ dựa
trên mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của các dấu hiệu về tài chính và phi tài
chính đến khả năng trả nợ của khách hàng, trên cơ sở thiết lập một bộ chỉ tiêu
15


(bao gồm các dấu hiệu tài chính và phi tài chính) quy đổi theo tỷ lệ nhất định

tương ứng với khả năng trả nợ của khách hàng. Thông thường, việc đánh giá
khách hàng, khả năng trả nợ cũng như xác định nợ xấu được các NHTM chuẩn
hóa thành Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ bao gồm các chỉ tiêu về tài chính,
phi tài chính được lượng hóa theo thang điểm 100. Theo đó, việc phân loại
khách hàng sẽ được phân chia thành mười mức khác nhau, trên cơ sở đó
NHTM sẽ thực hiện xác định, phân loại các khoản vay của những khách hàng
này theo năm nhóm nợ tương ứng, cụ thể :
Bảng 1.1: – Phân loại khách hàng, phân loại nợ
Tổng số điểm
Từ
91
81
71
66
61
56
51
46
41
0

Đến
100
90
80
70
65
60
55

50
45
40

AAA
AA
A
BBB
BB
B
CCC
CC
C
D

Đủ tiêu chuẩn
Đủ tiêu chuẩn
Đủ tiêu chuẩn
Cần chú ý
Cần chú ý
Dưới tiêu chuẩn
Dưới tiêu chuẩn
Dưới tiêu chuẩn
Nghi ngờ
Có khả năng mất vốn

Theo đó, các khách hàng được xếp loại từ BBB đến D thì các khoản vay
của các khách hàng này tương ứng sẽ được xác định là nợ xấu.
Ngoài ra, những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của Ngân
hàng, đang được theo dõi tại ngoại bảng cũng là các khoản nợ xấu.

1.2.4. Quy trình và cơ sở pháp lý trong việc xử lý nợ xấu
1.2.4.1. Quy trình xử lý nợ xấu
Khi khoản vay được xác định là nợ xấu thì các NHTM thường áp dụng quy
trình xử lý như sau:
- Bước 1: Nợ xấu được phân loại theo giá trị và khả năng thu hồi chuyển
cho Tổ (hoặc bộ phận) xử lý nợ xấu của Ngân hàng, các bộ cho vay các khoản vay
đó phải cung cấp thông tin, chứng cứ về tình trạng nợ của khách hàng, nguyên
16


nhân phát sinh nợ xấu, đánh giá sơ bộ khả năng thu hồi.
- Bước 2: Sau khi tiếp nhận khoản nợ xấu, trên cơ sở hồ sơ, phân tích thông
tin khách hàng chuyển giao cho chuyên viên xử lý nợ xấu đồng thời gửi báo cáo
chi tiết cho khối quản trị rủi ro.
- Bước 3: Khối quản trị rủi ro sau khi nhận được hồ sơ, báo cáo phân tích
nợ xấu từ Tổ xử lý nợ xấu có trách nhiệm đánh giá lại và đưa ra kế hoạch hành
động tiếp theo: như phát mại tài sản, yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh, khởi kiện, bán nợ …
- Bước 4: Sau khi kế hoạch được khối quản trị vạch ra, Tổ xử lý nợ xấu, cán
bộ tín dụng phụ trách khoản vay có trách nhiệm thực hiện cập nhật dữ liệu vào hệ
thống thông tin nợ xấu, tập trung các biện pháp để thu hồi nợ đạt hiệu quả cao nhất,
giảm thiệt hại thấp nhất cho Ngân hàng, tiến hành xử lý rủi ro toàn bộ hoặc phần nợ
còn lại bằng quỹ dự phòng rủi ro, chuyển ra ngoại bảng theo dõi và tiếp tục đôn đốc
thu hồi nợ.
1.2.4.2. Cơ sở pháp lý xử lý nợ xấu
Sau khi khoản nợ của khách hành được xác định là nợ xấu, Ngân hàng
tiến hành các biện pháp xử lý nợ xấu, cơ sở pháp lý để xử lý là Hợp đồng tín
dụng được ký kết giữa Ngân hàng với khách hàng cho khoản vay. Hợp đồng tín
dụng là một dạng của Hợp đồng kinh tế thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật các
tổ chức tín dụng được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 15-6-2004 (đã bổ

sung, sửa đổi) và các quy định pháp luật khác liên quan.
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam về xử lý nợ xấu, khi một khoản nợ được xác
định là nợ xấu, Ngân hàng được phép sử dụng các biện pháp xử lý để thu hồi
nợ như phát mại tài sản bảo đảm, yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay, khởi kiện ra
toà, thực hiện nghiệp vụ mua bán nợ và tất cả các biện pháp để thu hồi nợ.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ xấu của ngân hàng thương mại
1.3.1. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là một khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và / hoặc
lãi đã quá hạn.
17


Một khía cạnh khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện được gia hạn nợ.
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = ----------------------Tổng dư nợ
Quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước cho phép dư nợ quá hạn của
các Ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%, nghĩa là trong 100 đồng
vốn ngân hàng bỏ ra cho vay thì nợ quá hạn tối đa chỉ được phép là 5 đồng.
Quy định này nhằm mục đích hạn chế tình trạng cho vay tràn lan, thiếu quản lý
của các ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo cho hệ thống tín dụng hoạt động
an toàn.
Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận
điều chỉnh kỳ hạn hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh
giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trên
hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá khách hàng
có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại.
1.3.2. Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay.

Theo Điều 10 Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/01/2013 của thống
đốc NHNN thì các TCTD thực hiện phân loại nợ thành 5 nhóm như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi
đúng hạn;
- Nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ
gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn;
- Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
- Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Nợ gia hạn nợ lần đầu;
- Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ
18


theo hợp đồng tín dụng;
- Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Nợ của khách hàng hoặc bên bảo đảm là tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng mà
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng
theo quy định của pháp luật;
+ Nợ được bảo đảm bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng hoặc công ty con
của tổ chức tín dụng hoặc tiền vay được sử dụng để góp vốn vào một tổ chức
tín dụng khác trên cơ sở tổ chức tín dụng cho vay nhận tài sản bảo đảm bằng cổ
phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận vốn góp;
+ Nợ không có bảo đảm hoặc được cấp với điều kiện ưu đãi hoặc giá trị vượt
quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khi

cấp cho khách hàng thuộc đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng theo quy định của
pháp luật;
+ Nợ cấp cho các công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng hoặc doanh
nghiệp mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát có giá trị vượt các tỷ lệ giới
hạn theo quy định của pháp luật;
+ Nợ có giá trị vượt quá các giới hạn cấp tín dụng, trừ trường hợp được phép
vượt giới hạn, theo quy định của pháp luật;
+ Nợ vi phạm các quy định của pháp luật về cấp tín dụng, quản lý ngoại hối và
các tỷ lệ bảo đảm an toàn đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài;
+ Nợ vi phạm các quy định nội bộ về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, chính sách
dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra;
- Nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều 10 TT02 quá hạn từ 30 ngày
đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
- Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi đến 60
ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
- Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
19


- Nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn

trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần thứ hai;
- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã
quá hạn;
- Khoản nợ quy định tại điểm c (iv) khoản 1 Điều này quá hạn trên 60 ngày kể
từ ngày có quyết định thu hồi;
- Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60
ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
- Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố
đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong
tỏa vốn và tài sản;
- Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định.
Nợ xấu (hay các tên gọi khác như nợ có vấn đề, nợ khó đòi…) là các khoản
nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 và có các đặc trưng sau:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam
kết này đã đến hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến có khả
năng ngân hàng không thu được đầy đủ gốc và lãi.
+ Tài sản đảm bảo được đánh giá là giá trị phát mại không đủ trang trải nợ gốc
và lãi.
+ Thông thường là những khoản nợ được gia hạn nợ, hoặc những khoản nợ quá
hạn trên 90 ngày.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ đánh giá chất lượng tín dụng của tổ
chức tín dụng. Công thức tính tỷ lệ nợ xấu:
Số tiền nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ----------------------Tổng dư nợ
Hiện nay, một tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu dưới 5% được coi là nằm
trong giới hạn cho phép, khi tỷ lệ nợ xấu vượt quá tỷ lệ 5% thì tổ chức tín dụng
đó cần phải xem xét, rà soát lại danh mục đầu tư của mình một cách đầy đủ, chi

tiết và thận trọng.

20


1.3.3. Hệ số rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng = ----------------------Tổng tài sản có
Hệ số rủi ro tín dụng cho thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài
sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn
nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho
vay của ngân hàng được chia thành 3 nhóm:
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân
hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của
ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: là những khoản
cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng mang lại thu nhập không cao cho ngân
hàng. Đây là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho
vay của ngân hàng.
- Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: là những
khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại
cho ngân hàng ở mức vừa phải. Đây là những kho ản tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.

1.4. Nhân tố ảnh hưởng tới Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại
1.4.1. Nhân tố chủ quan
- Chính sách quản lý rủi ro
Chính sách quản lý rủi ro là một hệ thống các quy định nhằm điều chỉnh

hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng phù hợp với chiến
lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ. Bản thân hoạt động cho vay
của ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro. Việc xây dựng chính sách quản lý rủi ro
là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay. Chính sách quản lý rủi ro giúp định
hướng phát triển hoạt động cho vay trên cơ sở chấp nhận một mức độ rủi ro
nhất định, đồng thời cũng sẽ tác động trực tiếp đến xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu
phát sinh từ hoạt động cho vay. Việc tăng cường hay nới lỏng quản lý nợ xấu
21


luôn phải tuân theo định hướng và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Khi
tỷ lệ nợ xấu cũng như mức độ rủi ro tiềm ẩn vượt ra ngoài giới hạn rủi ro cho
phép thì ngân hàng cần áp dụng ngay những biện pháp hữu hiệu để quản lý và
kiểm soát nợ xấu.
- Quy trình cho vay
Mỗi ngân hàng khi triển khai bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào cũng cần
phải ban hành quy trình hướng dẫn cụ thể về sản phẩm, dịch vụ, cách thức thực
hiện. Việc ban hành quy trình cho vay chi tiết, rõ ràng sẽ giúp cho nhân viên
ngân hàng hiểu và triển khai nghiệp vụ có hiệu quả, hạn chế được những lỗi vi
phạm quy trình cho vay không chủ đích, tránh ảnh hưởng tới chất lượng các
khoản cho vay. Bên cạnh đó, với quy trình cho vay chuẩn xác, việc rà soát,
phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, thiếu sót sẽ được thực hiện dễ
dàng hơn.
Hệ thống quy trình về các sản phẩm cho vay của ngân hàng có tác động
đến xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu. Trong trường hợp ngân hàng ban hành đầy đủ
và chuẩn xác các quy trình cho vay thì chỉ tiêu về nợ xấu có thể được xây dựng
theo hướng nới lỏng hơn (nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh
doanh) do đã hạn chế được nợ xấu phát sinh do nguyên nhân chủ quan từ phía
ngân hàng, ngược lại khi quy trình cho vay chưa đầy đủ hoặc chưa rõ ràng thì
chỉ tiêu về nợ xấu cần được thắt chặt để nâng cao hơn nữa ý thức kiểm soát và

hiệu quả thu hồi đối với các khoản cho vay.
- Năng lực, trình độ phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án vay vốn của
nhân viên ngân hàng
Việc phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án để tài trợ vốn là khâu
quan trọng, quyết định đến mức độ rủi ro cũng như khả năng sinh lời của mỗi
khoản vay. Khi quyết định cho vay được đưa ra trên cơ sở các phân tích, đánh giá
đầy đủ, khách quan sẽ giúp hạn chế được khả năng phát sinh nợ xấu.
Trên cơ sở năng lực, trình độ của đội ngũ nhân viên, ngân hàng sẽ xây dựng
chỉ tiêu về nợ xấu cho phù hợp. Với một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, có
trình độ chuyên môn tốt trong thẩm định cho vay, chỉ tiêu về nợ xấu có thể được
xây dựng theo hướng nới lỏng và ngược lại khi đội ngũ nhân viên có chất lượng
chuyên môn chưa cao, thiếu kinh nghiệm thì chỉ tiêu về nợ xấu cần được thắt
chặt.
22


- Mô hình tổ chức và quản trị điều hành
Mô hình tổ chức có tác động trực tiếp đến lập kế hoạch và triển khai xử lý nợ
xấu. Với mô hình tổ chức được phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, đặc
biệt là bộ phận xử lý nợ sẽ giúp công tác triển khai xử lý nợ hiệu quả hơn, chuyên
nghiệp hơn.
Quản trị điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng cũng là một nhân tố quyết
định trong quản lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng. Khi ban lãnh đạo có
quan điểm rõ ràng và kiên quyết trong kiểm soát và xử lý nợ xấu thì công tác thực
thi chỉ tiêu về nợ xấu sẽ đạt hiệu quả tốt hơn và thuận lợi hơn.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay
Sau khi giải ngân khoản vay, ngân hàng cần thực hiện việc theo dõi
khoản vay, nắm bắt tình hình của khách hàng nhằm phát hiện càng sớm càng
tốt các khoản vay có vấn đề hoặc tiềm ẩn rủi ro, làm cơ sở cho việc xác định nợ
xấu được chuẩn xác. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng góp phần phát

hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do nhân viên ngân hàng gây ra. Khi thiết
lập được hệ thống kiểm tra, kiểm soát độc lập, vận hành có hiệu quả sẽ góp
phần hỗ trợ rất tốt cho công tác quản lý hoạt động cho vay nói chung và quản
lý nợ xấu nói riêng.
- Sự ứng dụng công nghệ tin học ngân hàng
Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ tin học có ảnh hưởng rất lớn, chi
phối mọi hoạt động của ngân hàng. Nền tảng công nghệ tốt sẽ tạo điều kiện cho
ngân hàng tiết kiệm được thời gian, nhân lực trong quản lý nói chung và theo
dõi các khoản vay nói riêng. Ứng dụng công nghệ tin học trong thực hiện các
chỉ tiêu về nợ xấu giúp tăng cường công tác quản lý, cảnh báo và phát hiện kịp
thời những khoản vay suy giảm chất lượng do vi phạm cam kết hoàn trả.
1.4.2. Nhân tố khách quan
- Sự tăng trưởng của nền kinh tế
Nền kinh tế thị trường, với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế
đã tạo động lực cho sự tăng trưởng ở tất cả các ngành, lĩnh vực. Hoạt động ngân
hàng luôn chịu tác động mạnh mẽ của tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng
23


×