Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Tăng cường năng lực quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.27 KB, 89 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Kết quả nghiên cứu
6. Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ
XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. 1 Khái quát về nợ xấu của NHTM.
1.1.1 Tổng quan về NHTM.
1.1.1.1 Khái niệm NHTM.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2 Nợ xấu của NHTM.
1.1.2.1 Khái niệm nợ xấu
1.1.2.2 Phân loại nợ xấu
1.2 Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.1 Khái niệm quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.2.2 Nội dung quản lý nợ xấu
1.2.2.1 Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu
1.2.2.2 Xác định nợ xấu
1.2.2.3 Xử lý nợ xấu
1.3 Nhân tố ảnh hưởng tới nợ xấu trong hoạt động cho vay của NHTM.
1.3.1 Nhân tố chủ quan
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.4. Biện pháp và cơ sở pháp lý để xử lý nợ xấu.
1.4.1 Biện pháp xử lý
1.4.2 Cơ sở pháp lý
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI AGRIBANK
HẢI PHÒNG


2.1 Khái quát về Agribank Hải Phòng
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Agribank Hải Phòng.
2.1.2 Hoạt động chủ yếu của Agribank Hải Phòng
2.1.2.1 Huy động vốn
2.1.2.2 Hoạt động tín dụng
2.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
2.2 Thực trạng quản lý nợ xấu của Agribank Hải Phòng
2.2.1 Tình hình nợ xấu của Agribank Hải Phòng giai đoạn 2008-2010
2.2.2 Thực trạng quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại Agribank Hải
Phòng
2.2.2.1 Chỉ tiêu về nợ xấu
2.2.2.2 Xác định nợ xấu
2.2.2.3 Thực trạng xử lý nợ xấu
2.3 Đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng
2.3.1 Kết quả đạt được
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1 Hạn chế
2.3.2.2 Nguyên nhân
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU
AGRIBANK HẢI PHÒNG
3.1 Định hướng hoạt động cho vay của Agribank Hải Phòng trong thời
gian tới.
3.1.1 Định hướng chung
3.1.2 Một số chỉ tiêu cụ thể
3.2 Giải pháp tăng cường nợ xấu tại Agribank Hải Phòng
3.2.1 Đảm bảo chất lượng công tác chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ
3.2.2 Nâng cao trình độ và vai trò của các bộ quản trị rủi ro tín dụng
2
3.2.3 Xây dựng hệ thống thông tin nợ xấu
3.2.4 Tăng cường kiểm tra, giám sát bảo đảm tính tuân thủ

3.2.5 Xây dựng quy trình xử lý nợ xấu khoa học, thống nhất
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
2.1. Kiến nghị với Agribank Việt Nam
2.2. Kiến nghị đối với Chính phủ và các Bộ ngành liên quan
2.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
2.4. Kiến nghị đối với Khách hàng
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, mở ra
nhiều cơ hội nhưng theo đó cũng có không ít thách thức đối với nền kinh tế
nói chung và thị trường Tài chính nói riêng. Thực tế thời gian vừa qua cho
thấy, việc suy yếu và sụp đổ hàng loạt của hệ thống Ngân hàng trên khắp thế
giới đã ảnh hưởng không nhỏ đến hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ đó xuất phát từ hậu quả do hoạt động
tín dụng mang lại. Việc quản lý và kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân
hàng không tốt đã làm cho nợ xấu gia tăng, kéo theo đó là lợi nhuận suy giảm,
thậm chí là thua lỗ nặng. Hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu ngày một
gia tăng, cùng với gánh nặng từ các khoản nợ xấu còn tồn đọng trong một thời
gian dài chưa xử lý được đã và đang đặt các Ngân hàng thương mại trước
nguy cơ suy giảm lợi nhuận, chất lượng các khoản vay giảm sút, ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng. Việc quản lý và kiểm
soát nợ xấu luôn cần được nhìn nhận và thực hiện một cách nghiêm túc để
đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động kinh doanh
nói chung đối với mỗi ngân hàng.
Nằm trong hệ thống các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Hải Phòng (Agribank

Hải Phòng) đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu gia tăng trong khi quản lý
nợ xấu còn bộc lộ những hạn chế nhất định.
4
Nhận thức được tầm quan trọng đó mà đề tài “Tăng cường năng lực
quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng” đã được tác giả lựa chọn làm đề tài
nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết về quản lý nợ xấu của ngân hàng
thương mại, đánh giá thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng để đề
xuất giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng trong thời
gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
- Phạm vi nghiên cứu: Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay tại
Agribank Hải Phòng
- Thời gian nghiên cứu: Giai đoạn 2006 – 2010, vấn đề nghiên cứu trên
giác độ của Ngân hàng thương mại.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
- Phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, nghiên cứu tình huống
- Phương pháp lịch sử, logic.
5. Kết quả nghiên cứu
Qua nghiên cứu thực trạng quản lý nợ xấu của Agribank Hải Phòng,
luận văn đã chỉ ra được những mặt còn hạn chế và nguyên nhân từ đó đề xuất
giải pháp để tăng cường quản lý nợ xấu, nhằm nâng cao khả năng cạnh trạnh
và tính bền vững trong hoạt động cho vay của Agribank Hải Phòng trong điều
kiện hiện nay và một số năm tiếp theo.
5

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, mục lục, danh mục bảng biểu, Kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nợ xấu của
Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Agribank Hải Phòng
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
QUẢN LÝ NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Khái quát về nợ xấu của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại gắn liền với
sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều
kiện và động lực đối với sự phát triển của Ngân hàng thương mại và Ngân
hàng thương mại phát triển tạo điều kiện ngược lại thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế.
Ban đầu, Ngân hàng được gọi là ngân hàng của những “Thợ vàng” vì nó
gắn liền với nghiệp vụ đúc hoặc đổi tiền của các thợ vàng. Do lưu hành tiền tệ
riêng của từng quốc gia kết hợp với việc giao thương quốc tế tạo ra nhu cầu
đúc, đổi tiền trong giao dịch buôn bán tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương
mại nơi giao thương. Những người làm nghề đúc, đổi tiền thực hiện đổi bản tệ
lấy ngoại tệ và ngược lại đổi từ ngoại tệ lấy bản tệ, lợi nhuận thu được là
chênh lệch giá mua bán.
Đầu tiên, những nhà buôn tiền – chủ ngân hàng chỉ dùng vốn tự có của
mình để cho vay, nhưng từ hoạt động thực tiễn họ đã nhận thấy rằng thường
xuyên có người gửi vào và cũng có những người lấy tiền ra song tất cả họ
không rút tiền cùng một lúc và đã tạo số dư tiền gửi thường xuyên ở ngân

hàng. Do tính chất vô danh của tiền, nên các chủ ngân hàng đã lấy số dư tiền
gửi của khách hàng để cho vay. Hoạt động này làm thay đổi cơ bản hoạt động
của nhà buôn tiền - kẻ cho vay nặng lãi và trở thành hoạt động của Ngân hàng
thương mại sau này.
Do lợi nhuận từ việc cho vay lớn, nhiều chủ Ngân hàng đã lạm dụng ưu
7
thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu thông thay vàng hoặc bạc), phát hành chứng
chỉ tiền gửi khống để cho vay và dẫn đến các ngân hàng mất khả năng thanh
toán, phá sản. Sự sụp đổ của các Ngân hàng dẫn đến khó khăn cho những nhà
buôn, bên cạnh đó lãi suất vay cao dẫn đến các nhà buôn đã tự thành lập Ngân
hàng với mục đích ban đầu chủ yếu tài trợ ngắn hạn và thanh toán hộ, gắn liền
với quá trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp và Ngân hàng này được
gọi là Ngân hàng thương mại. NHTM cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền
thống của ngân hàng là nhận tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Sự
khác biệt cơ bản giữa NHTM và Ngân hàng thợ vàng lúc đó là NHTM chủ
yếu cho vay chiết khấu thương phiếu dựa trên quá trình luân chuyển hàng hoá
(các khoản phải thu) với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử
dụng tiền vay.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, công nghệ đã tạo điều kiện
cho hệ thống Ngân hàng phát triển đa dạng. Do quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong ngân hàng đã hình thành nên Ngân hàng cổ phần. Đồng thời tại mỗi
nước trong những điều kiện khác nhau mà hình thành nên những loại hình
Ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng tiết kiệm, Ngân hàng phát triển, Ngân
hàng đầu tư... Quá trình phát triển đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò của
Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các Ngân hàng sở hữu Nhà
nước. Sự mở rộng hoạt động của các Ngân hàng sang các quốc gia khác đã
thúc đẩy sự ra đời của Ngân hàng liên doanh và các tập đoàn Ngân hàng phát
triển mạnh mẽ vào những năm cuối thế kỷ 20, tạo ra những nghiệp vụ mới
như mở rộng cho vay trung - dài hạn, cho vay đầu tư bất động sản, cho vay
kinh doanh chứng khoán, cho vay tiêu dùng, cho thuê tài sản …Bên cạnh đó,

nhiều hình thức huy động tiền gửi cũng phát triển như tiết kiệm trả lãi cuối
kỳ, đầu kỳ, theo định kỳ, tiết kiệm an sinh, tích luỹ… đồng thời nhờ có sự
phát triển vượt bậc về công nghệ, trong lĩnh vực Ngân hàng nhiều dịch vụ
8
khác cùng phát triển như rút tiền tự động qua máy ATM 24/24 giờ, bảo lãnh
trong nước, mở L/C, mobile banking, internet banking...
NHTM là một định chế tài chính có vai trò vô cùng quan trọng đối với
nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng, vậy
NHTM là gì?
Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá 10 thông qua ngày 12/12/1997: Ngân hàng thương mại
là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân
hàng và các hoạt động khác có liên quan. Cũng theo luật này, “Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán.
1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
a - Hoạt động huy động vốn
Ngoài nguồn vốn tự có (huy động vốn chủ sở hữu), hoạt động huy động
vốn (huy động vốn nợ) có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng thương mại
trong việc tạo lập nguồn vốn để hoạt động kinh doanh. Hoạt động huy động
vốn nợ của ngân hàng thương mại bao gồm:
+ Huy động tiền gửi: Huy động theo hình thức này chủ yếu là tiền gửi của
dân cư và tổ chức dưới hình thức có kỳ hạn (chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm của dân
cư, tiền gửi chờ thanh toán của tổ chức) và không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán
của tổ chức, cá nhân). Đây là nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng nguồn vốn nợ của NHTM.
+ Huy động từ phát hành các công cụ nợ: chủ yếu là phát hành kỳ phiếu
và trái phiếu. Kỳ phiếu dùng chủ yếu huy động vốn ngắn hạn. Trái phiếu phát
hành để huy động vốn trung - dài hạn. Hình thức huy động này mang tính ổn

định hơn, làm tăng khả năng huy động vốn của NHTM trong thời gian ngắn
9
và hoàn toàn chủ động trong sử dụng nguồn vốn.
+ Huy động từ vay các NHTM: các NHTM thực hiện việc đi vay nhằm
điều hoà vốn trong toàn hệ thống, tăng dự trữ, đảm bảo tốt khả năng thanh
khoản của NHTM. Việc huy động vốn thông qua hình thức này thường đơn
giản và nhanh gọn, có thể vay trực tiếp, vay qua Ngân hàng đại lý và khoản
vay thường không có bảo đảm (nếu có thường là chứng khoán của kho bạc).
+ Huy động từ vay Ngân hàng Trung ương: Thường là hình thức huy
động cuối cùng trong hoạt động huy động vốn của NHTM, áp dụng cho việc
vay để đảm bảo duy trì dự trữ bắt buộc hay thiếu hụt thanh toán. Hình thức
huy động này thường làm giảm uy tín của NHTM trên thị trường.
+ Huy động từ nợ khác: bao gồm huy động các khoản uỷ thác; tiền ký
quỹ; các khoản nợ thuế chưa nộp, lương chưa trả ... đây là hình thức huy động
mang tính thụ động và thường có khối lượng nhỏ không đáng kể.
b- Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động cấu thành nên tài sản có và có ý nghĩa
quan trọng đối với khả năng tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Hoạt
động tín dụng mang lại thu nhập chính cho NHTM, là hoạt động không thể
thiếu làm nền tảng nhằm thu hút các dịch vụ khác cho NHTM, nhưng ngược lại
đó cũng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động tín dụng không tốt sẽ gây
ảnh hưởng lớn đến tính thanh khoản, thậm chí dẫn đến sự sụp đổ của NHTM.
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân dưới hình
thức cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho
thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
c- Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, bao gồm:
+ Dịch vụ cung ứng các phương tiện thanh toán
+ Dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng
+ Dịch vụ thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc, đá quý
10

+ Thực hiện dịch vụ thu hộ, chi hộ các tổ chức và cá nhân
+ Phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử
+ Các sản phẩm khác như giữ hộ tài sản, thanh toán séc...
d - Các hoạt động khác
+ Góp vốn đầu tư, mua cổ phần của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng
khác từ nguồn vốn tự có để đa dạng hoá danh mục đầu tư, hạn chế rủi ro và
nâng cao hiệu quả kinh doanh
+ Tham gia thị trường tiền tệ: Thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị
trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn
khác theo quy định của ngân hàng nhà nước
+ Hoạt động uỷ thác và đại lý liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả
việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng
+ Các hoạt động khác như cho thuê két, dịch vụ cầm đồ và các dịch vụ
khác theo quy định của Pháp luật.
1.1.2. Nợ xấu của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 . Khái niệm nợ xấu
Tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác nhau mà có những
khái niệm về nợ xấu khác nhau. Tuy nhiên, xét về bản chất thì nợ xấu là các
khoản nợ bị suy giảm khả năng thu hồi hoặc không có khả năng thu hồi.
*/ Quan niệm của Ngân hàng Trung ương Châu Âu
i. Nợ xấu là nợ không được thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng, bao gồm:
+ Những khoản nợ mà người vay khó có thể trả nợ và yêu cầu điều
chỉnh lại lịch trả nợ nhưng không thanh toán được trong khoảng thời gian đã
được điều chỉnh.
+ Những khoản nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ hoặc
tài sản bảo đảm không được chấp thuận về mặt pháp lý dẫn đến người vay
không thể trả nợ Ngân hàng đầy đủ.
11
+ Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người vay phá sản và phần bồi
hoàn cho Ngân hàng ít hơn dư nợ phải thanh toán.

ii. Nợ xấu là những khoản nợ không thể thu hồi được, bao gồm:
+ Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có đủ
căn cứ đòi thanh toán từ người vay.
+ Người vay bỏ trốn hoặc mất tích, không có tài sản giữ lại để thanh
toán nợ.
+ Những khoản nợ mà Ngân hàng không thể liên lạc được với người
vay hoặc không thể tìm được người vay.
+ Những khoản nợ mà người vay chấm dứt hoạt động kinh doanh, hoặc
thanh lý tài sản, hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
*/ Quan niệm của Phòng thống kê – Liên Hợp Quốc: Một khoản nợ được coi
là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi
chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo
thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng
có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán
đầy đủ.
Quan niệm này vừa mang tính định tính vừa mang tính định lượng và
được áp dụng khá phổ biến trên thế giới.
*/ Quan niệm của Việt Nam
Kể từ sau khi Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam được ban hành, Việt Nam mới
thực sự đề cập đến khái niệm về nợ xấu. Mặc dù đã dần tiếp cận với những
chuẩn mực quốc tế, đề cập đến việc đánh giá các khoản nợ trên cả khía cạnh
định lượng và định tính, tuy nhiên vẫn có những sự khác biệt nhất định.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu được định nghĩa như sau:
12
"Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm
4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) quy định tại Điều 6 hoặc
Điều 7 Quy định này. Theo đó, nợ xấu cũng được xác định dựa trên yếu tố
định lượng (quá hạn trên 90 ngày) và yếu tố định tính (đánh giá của tổ chức
tín dụng về khả năng trả nợ của khách hàng).

Như đã trình bày, quan niệm về nợ xấu giữa các quốc gia và theo thông
lệ quốc tế đều căn cứ trên hai yếu tố là định tính và định lượng. Tuy nhiên,
các quan niệm này mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá khoản vay thông thường
trên cơ sở khả năng trả nợ hiện thời của khách hàng vay mà không đề cập đến
những khoản vay đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng.
Những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của tổ chức tín dụng về
bản chất cũng như quy định của pháp luật thì vẫn cần được theo dõi, quản lý
và thu hồi.
Vì vậy, theo quan niệm của tác giả: Nợ xấu là những khoản nợ phát
sinh từ hoạt động cho vay không được thanh toán đầy đủ cho ngân hàng
hoặc được đánh giá là không có khả năng thu hồi, bao gồm cả các khoản nợ
xấu thông thường (nợ từ nhóm 3 đến nhóm 5 theo Điều 7 – Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN) và các khoản nợ đã xử lý bằng quỹ dự phòng của
ngân hàng được theo dõi tại ngoại bảng.
1.1.2.2 . Phân loại nợ xấu
 Trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng đối với
từng khoản vay trong hiện tại và tương lai, không phân biệt
khoản vay hiện tại có quá hạn hay chưa, người ta chia nợ xấu
thành:
+ Nợ xấu thông thường: đảm bảo thu hồi đầy đủ trong một khoảng thời
gian nhất định.
+ Nợ xấu khó đòi: chỉ có khả năng thu hồi được một phần hoặc thu hồi
13
đầy đủ nhưng thời gian thu hồi kéo dài.
+ Nợ xấu mất trắng: không có khả năng thu hồi.
 Căn cứ nguyên nhân có thể chia nợ xấu thành:
+ Nợ xấu do nguyên nhân bất khả kháng: do thiên tai, do thay đổi cơ
chế chính sách, ốm đau, ...
+ Nợ xấu do lỗi của người vay: trình độ quản lý yếu kém, khả năng
cạnh tranh kém dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh; cố tình chây ỳ không trả nợ…

+ Nợ xấu do lỗi của người cho vay: trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
kém dẫn đến không quản lý, theo dõi và phát hiện sớm sai phạm của khách
hàng; thông đồng với những sai phạm của khách hàng.
 Căn cứ việc xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng chia nợ xấu
thành:
+ Nợ chưa được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán nội bảng
+ Nợ đã được xử lý bằng quỹ DPRR tín dụng - Nợ hạch toán ngoại bảng
1.2.Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại
Hoạt động cho vay của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro và khả
năng phát sinh nợ xấu là một biểu hiện rõ nhất của rủi ro tín dụng. Nợ xấu
phát sinh sẽ gây hậu quả không nhỏ không chỉ đến hoạt động ngân hàng mà
còn tác động đến cả nền kinh tế. Vì thế, chấp nhận rủi ro để có những biện
pháp ngăn ngừa rủi ro và xử lý tổn thất là việc làm cần thiết và mang lại hiệu
quả trong hoạt động tín dụng ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay nói
riêng.
Xuất phát từ tầm quan trọng và hậu quả mà nợ xấu có thể mang lại,
việc quản lý nợ xấu luôn được các ngân hàng quan tâm và đề ra những yêu
cầu cụ thể.
14
Quản lý nợ xấu là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách về
nợ xấu nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
1.2.2. Nội dung quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại
Trong hoạt động của NHTM, xây dựng được một chính sách quản trị
rủi ro từ hoạt động cho vay và thực thi tốt chính sách đó có ý nghĩa quyết
định. Quản lý nợ xấu đòi hỏi các NHTM cần phải làm tốt từ việc nhận biết nợ
xấu đến việc áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu đã phát sinh một cách hiệu
quả.

1.2.2.1. Xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu
Việc xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu có vai trò quan trọng trong quản lý nợ
xấu. Chỉ tiêu về nợ xấu không chỉ giúp định hướng mà còn có tác động trực
tiếp đến công tác xử lý nợ xấu phát sinh.
Chỉ tiêu về nợ xấu thường được xây dựng cho một thời kỳ hoặc một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) trên cơ sở nền kinh tế vĩ mô,
quy mô tín dụng, cơ cấu ngành và đặc điểm về nguồn nhân lực của ngân
hàng. Tùy điều kiện và mục tiêu cụ thể, chỉ tiêu về nợ xấu có thể được xây
dựng theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng.
Chỉ tiêu về nợ xấu cần đảm bảo các nội dung định lượng (tỷ lệ phần
trăm so với tổng dư nợ, doanh số nợ xấu phát sinh) và định tính (định hướng
theo ngành, theo thời gian, theo địa bàn…).
1.2.2.2. Xác định nợ xấu
Việc xác định nợ xấu cần được NHTM thực hiện định kỳ và đột xuất
ngay khi khách hàng hoặc khoản vay có những biểu hiện nhất định:
a - Dấu hiệu phi tài chính
 Hành vi của khách hàng
+ Tìm cách tránh gặp ngân hàng, miễn cưỡng hoặc chậm cung cấp
15
thông tin tài chính : Khi nhận thấy hoạt động kinh doanh đang gặp vấn đề,
ban lãnh đạo sẽ thường có xu hướng liên lạc với ngân hàng ít hơn so với khi
đang làm ăn tốt. Khách hàng có những biểu hiện này, Ngân hàng cần tìm hiểu
nguyên nhân đồng thời đánh giá toàn bộ các khoản vay hiện tại của khách
hàng, cảnh báo về khả năng dẫn đến nợ xấu.
+ Khách hàng tỏ ra không đáng tin : Trong hoạt động cho vay của Ngân
hàng, việc khách hàng không giữ uy tín sẽ là một dấu hiệu rõ nét tiềm ẩn nguy
cơ nợ xấu.
 Khả năng quản lý
+ Bằng chứng phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ công ty, đặc biệt là
trong đội ngũ cán bộ quản lý : Việc xảy ra mâu thuẫn giữa những người điều

hành có thể ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh, từ đó ảnh hưởng
đến nguồn thu để trả nợ, tiềm ẩn nợ xấu.
+ Nghỉ ốm dài hoặc bất ngờ của những nhân sự chủ chốt, mất các nhà
quản lý cấp cao : Sự thay đổi bất ngờ và bất thường của đội ngũ cán bộ quản
lý là dấu hiệu cảnh báo hoạt động kinh doanh có sự thay đổi theo chiều hướng
bất lợi hoặc có sự vi phạm pháp luật.
+ Tin đồn bất lợi về doanh nghiệp : Việc phát sinh tin đồn bất lợi, dù
đúng hay không đúng cũng sẽ có những ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
cũng như uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng, tiềm ẩn nguy cơ phát
sinh nợ xấu.
+ Đầu tư vào lĩnh vực ngoài kinh nghiệm, chuyên môn, thiếu nhận biết
về vị trí của công ty trên thị trường hoặc về vấn đề cạnh tranh : Trong thời kỳ
hội nhập kinh tế sâu rộng, việc kinh doanh mạo hiểm cũng như không nhận
biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình sẽ không thể giúp doanh nghiệp
phát triển mở rộng hay ít nhất là giữ vững vị thế hiện có của mình.
 Hoạt động kinh doanh
16
+ Có hoạt động pháp lý chống lại khách hàng, bao gồm cả những khó
khăn với cơ quan thuế hoặc hải quan : Việc vi phạm những quy định của pháp
luật, ngay cả những lỗi đối với việc kê khai thuế, hải quan sẽ ảnh hưởng tới
quyền được hoạt động kinh doanh của khách hàng theo quy định của pháp
luật, có thể phải ngừng hoạt động đối với những vi phạm nghiêm trọng.
+ Các nhà cung cấp, nhà phân phối lớn thay đổi chính sách bán, mua
hàng : Việc thay đổi chính sách của các đối tác, đặc biệt là đối tác lớn sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh nói chung, doanh thu, lợi nhuận
của khách hàng nói riêng.
+ Tình hình môi trường vĩ mô : Ngân hàng cần nắm được những yếu tố
vĩ mô, nằm ngoài tầm kiểm soát của người vay và ảnh hưởng đến khả năng
trả nợ của người vay như chi phí tăng nhưng lại không thể chuyển một phần
sang cho khách hàng, lãi suất cao hơn, vấn đề về ngành kinh doanh...để chủ

động đánh giá hoạt động kinh doanh của khách hàng có chịu tác động theo
hướng bất lợi hay không.
b - Dấu hiệu tài chính
 Kết quả kinh doanh
+ Doanh thu tăng quá nhanh nhưng vốn lưu động không sẵn sàng đủ do
tăng cường chính sách bán chịu hoặc phải chịu sức ép cạnh tranh, chênh lệch
lợi nhuận biên thấp sẽ ảnh hưởng tới vốn duy trì hoạt động cũng như khả
năng thanh toán của khách hàng.
+ Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn mức bình quân của ngành.
+ Các khoản thu nhập và chi phí bất thường tăng đột biến.
+ Xuất hiện lỗ ròng hoặc lưu chuyển tiền tệ âm : Một doanh nghiệp sẽ
không thể duy trì được lâu sự tồn tại của mình trong những điều kiện như vậy.
 Tài sản cố định
+ Giá trị còn lại tài sản cố định giảm mạnh : khách hàng thực hiện bán,
17
thanh lý tài sản nằm ngoài kế hoạch thay mới, dấu hiệu khách hàng có thể gặp
khó khăn, chuyển đổi tài sản cố định thành tài sản có tính lỏng cao hơn, thuận
tiện cho việc thu hẹp hoặc ngừng hoạt động.
+ Tốc độ đầu tư tài sản cố định tăng quá nhanh : việc đầu tư tài sản cố
định quá mức, nằm ngoài khả năng tài chính cũng như huy động vốn của
khách hàng sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán cũng như vốn lưu động
phục vụ kinh doanh của khách hàng.
+ Hoạt động của tài sản thấp bất thường : dấu hiệu cho thấy hoạt động
sản xuất kinh doanh có nguy cơ bị thu hẹp hoặc khách hàng có khó khăn về
vốn lưu động để duy trì hoạt động sản xuất.
 Cơ cấu tài chính và quản lý nợ vay
+ Cơ cấu nợ vay/vốn chủ sở hữu thay đổi đột biến theo chiều hướng
tăng tỷ trọng vốn vay.
+ Tốc độ tăng nợ vay không tương xứng với tốc độ tăng doanh thu.
+ Trì hoãn tăng vốn hoặc tài trợ dài hạn, hoặc tăng vốn nhưng với mức

lãi suất cao.
+ Thu nhập để lại có xu hướng giảm dần.
+ Khả năng trả lãi kém đi.
+ Yêu cầu ngân hàng thay đổi các điều khoản đảm bảo hoặc các cam
kết trả nợ.
 Các khoản phải thu và phải trả
+ Vòng quay các khoản phải thu/phải trả thương mại chậm lại : Giá trị
các khoản phải thu cũng như thời gian các khoản phải thu đều quan trọng.
Những khoản phải thu bị chậm thanh toán, quá hạn hoặc không thể thu hồi sẽ
ảnh hưởng tới năng lực tài chính của khách hàng. Cùng với đó, các khoản
18
phải trả tăng đột biến cho thấy khách hàng đang gặp khó khăn, bắt đầu phải
trì hoãn các khoản phải trả và đây cũng chính là một dấu hiệu rõ ràng cho
thấy có vấn đề rắc rối.
+ Các khoản phải thu, phải trả quá tập trung vào một số đối tác lớn.
+ Các khoản dự phòng phải thu khó đòi tăng nhanh.
 Hàng tồn kho
+ Hàng tồn kho quá nhiều : điều này có thể thấy doanh nghiệp đang vận
hành dưới mức năng lực bán hàng của mình hoặc doanh thu giảm.
+ Nguyên vật liệu mua bị trả lại nhiều
+ Các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho tăng nhanh
Trên cơ sở những dấu hiệu và số liệu nêu trên, ngân hàng sẽ thực hiện
đánh giá khách hàng, khả năng hoàn trả nợ vay cho ngân hàng để xác định
khoản nợ đó là nợ xấu hay không. Việc xác định khoản vay là nợ xấu sẽ dựa
trên mức độ ảnh hưởng nghiêm trọng của các dấu hiệu về tài chính và phi tài
chính đến khả năng trả nợ của khách hàng, trên cơ sở thiết lập một bộ chỉ tiêu
(bao gồm các dấu hiệu tài chính và phi tài chính) quy đổi theo tỷ lệ nhất định
tương ứng với khả năng trả nợ của khách hàng. Thông thường, việc đánh giá
khách hàng, khả năng trả nợ cũng như xác định nợ xấu được các NHTM
chuẩn hóa thành Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ bao gồm các chỉ tiêu về tài chính,
phi tài chính được lượng hóa theo thang điểm 100. Theo đó, việc phân loại
khách hàng sẽ được phân chia thành mười mức khác nhau, trên cơ sở đó
NHTM sẽ thực hiện xác định, phân loại các khoản vay của những khách hàng
này theo năm nhóm nợ tương ứng, cụ thể :
19
Bảng 1.1 – Phân loại khách hàng, phân loại nợ
Tổng số điểm
Xếp hạng Phân loại nợ
Từ Đến
91 100 AAA Đủ tiêu chuẩn
81 90 AA Đủ tiêu chuẩn
71 80 A Đủ tiêu chuẩn
66 70 BBB Cần chú ý
61 65 BB Cần chú ý
56 60 B Dưới tiêu chuẩn
51 55 CCC Dưới tiêu chuẩn
46 50 CC Nghi ngờ
41 45 C Nghi ngờ
0 40 D Có khả năng mất vốn
Theo đó, các khách hàng được xếp loại từ BBB đến D thì các khoản
vay của các khách hàng này tương ứng sẽ được xác định là nợ xấu.
Ngoài ra, những khoản nợ đã được xử lý bằng quỹ dự phòng của
Ngân hàng, đang được theo dõi tại ngoại bảng cũng là các khoản nợ xấu.
1.2.2.3. Xử lý nợ xấu
Trên cơ sở chính sách nợ xấu, xác định được nợ xấu, việc xử lý nợ xấu
cần phải được lập kế hoạch và triển khai đảm bảo hiệu quả về mặt thời gian
và chi phí.
*/ Đôn đốc thu hồi nợ
Các NHTM cần tiến hành phân tích, phân loại các khoản nợ xấu để từ

đó đề ra biện pháp đôn đốc, thu hồi, xử lý phù hợp với từng khoản vay. Cần
quản lý tài chính chặt chẽ với các khách hàng có nợ xấu, đặc biệt là các khách
hàng lớn. Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động thì cần tạo điều kiện để
họ duy trì hoạt động bình thường. Các biện pháp đôn đốc thu hồi chỉ nên thực
20
hiện trong một thời gian nhất định đồng thời cần vận dụng kết hợp với một số
biện pháp khác.
*/ Tái cơ cấu các khoản nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp
Biện pháp này được áp dụng đối với những khoản nợ có khả năng thu
hồi. Sau khi thương lượng với khách hàng về giải pháp thực thi cũng như yêu
cầu cam kết của khách hàng, Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp
sau :
+ Gia hạn nợ: là việc khách hàng được phép kéo dài thêm thời hạn trả
nợ cuối cùng. Đây là phương án giúp khách hàng giảm bớt được áp lực thanh
toán nợ trong một khoảng thời gian nhất định, từ đó có thể phục hồi hoạt động
kinh doanh cũng như thu xếp vốn để trả nợ ngân hàng.
+ Điều chỉnh kỳ hạn trả nợ: là việc khách hàng được thay đổi thời gian
trả từng phần của khoản nợ hoặc thay đổi số tiền từng kỳ trả nợ đã thỏa thuận
ban đầu nhưng không làm thay đổi tổng số tiền phải trả và thời hạn trả hết nợ
cuối cùng.
+ Cấp thêm vốn cho khách hàng: Ngân hàng chỉ xem xét cấp thêm vốn
khi khách hàng chứng minh được kế hoạch kinh doanh sẽ giúp khách hàng
vượt qua giai đoạn khó khăn và chắc chắn có hiệu quả. Việc áp dụng phương
pháp này có tính mạo hiểm vì thế cần được cân nhắc và kiểm soát chặt chẽ.
+ Chứng khoán hóa các khoản nợ: Ngân hàng có thể chuyển các khoản
nợ xấu thành vốn cổ phần đối với các doanh nghiệp cổ phần hoặc trái phiếu.
Ngân hàng áp dụng biện pháp này khi các khách hàng gặp khó khăn nhưng
được đánh giá là có triển vọng phục hồi. Trong trường hợp khách hàng là cổ
đông của Ngân hàng thì Ngân hàng có thể tạo điều kiện để cổ đông đó bán cổ
phiếu cho bên thứ ba để trả nợ Ngân hàng.

*/ Xử lý tài sản bảo đảm, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
21
Khi các khoản nợ xấu không thể cơ cấu, khách hàng trây ỳ không thanh
toán hoặc không có khả năng thanh toán nợ thì Ngân hàng sẽ tiến hành các biện
pháp xử lý tài sản bảo đảm hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh.
+ Thanh lý tài sản bảo đảm tiền vay: Thông thường khi xét duyệt cho
vay, khách hàng cần có tài sản bảo đảm nhất định để đảm bảo cho nghĩa vụ
nợ tại ngân hàng. Khi khách hàng không trả nợ, ngân hàng sẽ xem xét áp
dụng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Tài sản sau khi hoàn tất
các thủ tục pháp lý để bàn giao cho Ngân hàng, ngân hàng có thể sẽ tự bán
công khai tài sản ; hoặc bán qua trung tâm bán đấu giá tài sản ; hoặc bán cho
Công ty mua bán nợ
+ Quản lý, khai thác tài sản: Tùy theo trường hợp cụ thể, ngân hàng có
thể tiếp nhận tài sản, tiếp tục quản lý, khai thác tài sản để thu hồi nợ
+ Yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh : Trong trường hợp
việc đòi nợ từ phía người vay gặp khó khăn, ngân hàng có thể yêu cầu người bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh dưới hình thức thanh toán nợ trực tiếp hoặc xử
lý tài sản bảo đảm của người bảo lãnh.
*/ Bán các khoản nợ
Ngân hàng thường áp dụng biện pháp này khi không muốn mất thời gian
hoặc bản thân ngân hàng đã có một tổ chức chuyên môn hóa trong việc xử lý nợ
đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản. Việc bán lại các khoản nợ xấu
(hay quyền đòi nợ) cho một tổ chức khác (có thể là một ngân hàng hoặc Công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản) sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu được nợ xấu. Tuy
nhiên, khi áp dụng biện pháp này ngân hàng thường phải chấp nhận bán lại các
khoản nợ với giá trị thấp hơn quyền đòi nợ hiện tại, từ đó gây ra những tổn thất
nhất định đến kết quả kinh doanh của ngân hàng.
*/ Sử dụng công cụ pháp lý để đòi nợ
22

Để áp dụng biện pháp này đạt hiệu quả, ngân hàng cần đảm bảo hồ sơ
khoản vay đầy đủ và phù hợp về mặt pháp lý. Ngân hàng thực hiện kiện khách
hàng ra tòa để đòi nợ. Phán quyết của tòa án sẽ buộc khách hàng trả nợ hoặc
chuyển giao tài sản bảo đảm tiền vay cho ngân hàng để xử lý thu hồi nợ. Trường
hợp khách hàng là các doanh nghiệp không trả được nợ, ngân hàng với tư cách
là chủ nợ chính có thể làm đơn xin mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp
theo luật phá sản.
Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thường không mang lại nhiều kết
quả do thủ tục rắc rối, mất nhiều thời gian và chế tài giám sát việc thi hành quyết
định của tòa án chưa thật sự phát huy hiệu quả.
*/ Xử lý bằng vốn Ngân sách
Nợ xấu phát sinh từ các khoản cho vay theo chính sách của Chính phủ thì
Chính phủ phải đứng ra giải quyết, bù đắp tổn thất cho các NHTM. Chính phủ sẽ
dùng vốn ngân sách để mua lại toàn bộ nợ xấu thuộc diện cho vay theo chính
sách của Chính phủ, sau đó xử lý dần trong một số năm. Biện pháp này có hạn
chế do ngân sách là có hạn, Chính phủ luôn phải cân nhắc chi tiêu ngân sách và
không phải khoản nợ xấu nào phát sinh cũng được xử lý trong thời gian ngắn.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới Quản lý nợ xấu trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại
1.3.1. Nhân tố chủ quan
- Chính sách quản lý rủi ro
Chính sách quản lý rủi ro là một hệ thống các quy định nhằm điều
chỉnh hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng phù hợp
với chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong từng thời kỳ. Bản thân hoạt
động cho vay của ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro. Việc xây dựng chính sách
quản lý rủi ro là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay. Chính sách quản lý rủi
ro giúp định hướng phát triển hoạt động cho vay trên cơ sở chấp nhận một
23
mức độ rủi ro nhất định, đồng thời cũng sẽ tác động trực tiếp đến xây dựng
chỉ tiêu về nợ xấu phát sinh từ hoạt động cho vay. Việc tăng cường hay nới

lỏng quản lý nợ xấu luôn phải tuân theo định hướng và mức độ chấp nhận rủi
ro của ngân hàng. Khi tỷ lệ nợ xấu cũng như mức độ rủi ro tiềm ẩn vượt ra
ngoài giới hạn rủi ro cho phép thì ngân hàng cần áp dụng ngay những biện
pháp hữu hiệu để quản lý và kiểm soát nợ xấu.
- Quy trình cho vay
Mỗi ngân hàng khi triển khai bất kỳ sản phẩm, dịch vụ nào cũng cần
phải ban hành quy trình hướng dẫn cụ thể về sản phẩm, dịch vụ, cách thức
thực hiện. Việc ban hành quy trình cho vay chi tiết, rõ ràng sẽ giúp cho nhân
viên ngân hàng hiểu và triển khai nghiệp vụ có hiệu quả, hạn chế được những
lỗi vi phạm quy trình cho vay không chủ đích, tránh ảnh hưởng tới chất lượng
các khoản cho vay. Bên cạnh đó, với quy trình cho vay chuẩn xác, việc rà
soát, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các sai phạm, thiếu sót sẽ được thực
hiện dễ dàng hơn.
Hệ thống quy trình về các sản phẩm cho vay của ngân hàng có tác động
đến xây dựng chỉ tiêu về nợ xấu. Trong trường hợp ngân hàng ban hành đầy
đủ và chuẩn xác các quy trình cho vay thì chỉ tiêu về nợ xấu có thể được xây
dựng theo hướng nới lỏng hơn (nhưng vẫn phải đảm bảo hiệu quả hoạt động
kinh doanh) do đã hạn chế được nợ xấu phát sinh do nguyên nhân chủ quan từ
phía ngân hàng, ngược lại khi quy trình cho vay chưa đầy đủ hoặc chưa rõ
ràng thì chỉ tiêu về nợ xấu cần được thắt chặt để nâng cao hơn nữa ý thức
kiểm soát và hiệu quả thu hồi đối với các khoản cho vay.
- Năng lực, trình độ phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án vay vốn
của nhân viên ngân hàng
Việc phân tích, đánh giá, lựa chọn khách hàng, dự án để tài trợ vốn là khâu
quan trọng, quyết định đến mức độ rủi ro cũng như khả năng sinh lời của mỗi
khoản vay. Khi quyết định cho vay được đưa ra trên cơ sở các phân tích, đánh giá
đầy đủ, khách quan sẽ giúp hạn chế được khả năng phát sinh nợ xấu.
Trên cơ sở năng lực, trình độ của đội ngũ nhân viên, ngân hàng sẽ xây dựng
24
chỉ tiêu về nợ xấu cho phù hợp. Với một đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, có

trình độ chuyên môn tốt trong thẩm định cho vay, chỉ tiêu về nợ xấu có thể được
xây dựng theo hướng nới lỏng và ngược lại khi đội ngũ nhân viên có chất lượng
chuyên môn chưa cao, thiếu kinh nghiệm thì chỉ tiêu về nợ xấu cần được thắt
chặt.
- Mô hình tổ chức và quản trị điều hành
Mô hình tổ chức có tác động trực tiếp đến lập kế hoạch và triển khai xử lý
nợ xấu. Với mô hình tổ chức được phân rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ
phận, đặc biệt là bộ phận xử lý nợ sẽ giúp công tác triển khai xử lý nợ hiệu quả
hơn, chuyên nghiệp hơn.
Quản trị điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng cũng là một nhân tố quyết
định trong quản lý nợ xấu nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng. Khi ban lãnh đạo
có quan điểm rõ ràng và kiên quyết trong kiểm soát và xử lý nợ xấu thì công tác
thực thi chỉ tiêu về nợ xấu sẽ đạt hiệu quả tốt hơn và thuận lợi hơn.
- Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động cho vay
Sau khi giải ngân khoản vay, ngân hàng cần thực hiện việc theo dõi
khoản vay, nắm bắt tình hình của khách hàng nhằm phát hiện càng sớm càng
tốt các khoản vay có vấn đề hoặc tiềm ẩn rủi ro, làm cơ sở cho việc xác định
nợ xấu được chuẩn xác. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng góp phần
phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do nhân viên ngân hàng gây ra.
Khi thiết lập được hệ thống kiểm tra, kiểm soát độc lập, vận hành có hiệu quả
sẽ góp phần hỗ trợ rất tốt cho công tác quản lý hoạt động cho vay nói chung
và quản lý nợ xấu nói riêng.
- Sự ứng dụng công nghệ tin học ngân hàng
Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ tin học có ảnh hưởng rất lớn, chi
phối mọi hoạt động của ngân hàng. Nền tảng công nghệ tốt sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng tiết kiệm được thời gian, nhân lực trong quản lý nói chung và
25

×