Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

THỰC TIỄN xét xử NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM tội tại tòa án NHÂN dân HUYỆN QUỲ hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (896.24 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
 
THỰC TIỄN XÉT XỬ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP

Thời gian thực tập : 25/2/2015 – 20/4/2015
Địa điểm thực tập : Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp
Tỉnh Nghệ An
Sinh viên thực tập : Vi Thị Hạnh
Lớp

: Luật K35C - Hành Chính Nhà Nước


H́, 5/2015


Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp – tỉnh
Nghệ An là nơi tiếp nhận tôi vào thực tập
trong thời gian gần 2 tháng. Đến đây được
học tập và làm việc trong cơ quan tôi thật
sự lấy làm vinh hạnh.
Lời đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến các thầy, cô giáo Đại học luậtđại học Huế đã hết lòng truyền dạy kiến
thức cho tôi trong gần 4 năm ngồi trên ghế
nhà trường. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn


sâu sắc đến Thư ký Sầm Thò Thanh Sương là người đã trực tiếp hướng dẫn rất tận
tình để tôi có thể hoàn thành tốt bài báo
cáo thực tập. Tôi cũng xin được gửi lời
cảm ơn đến các anh, chò, cô, chú công tác
tại tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp - tỉnh
Nghệ An đã rất nhiệt tình, tạo điều kiện cho
tôi tiếp xúc nhiều với thực tiễn, được photo
các bản án, các quyết đònh liên quan đến
đề tài báo cáo thực tập.
Do lần đầu tiếp xúc với báo cáo thưc tập
nên kinh nghiệm làm bài chưa có, khó


tránh khỏi nhiều thiếu sót trong bài làm
của mình. Vì vậy, kính mong thầy cô thông
cảm và giúp đỡ để bài báo cáo thực tập
được hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Viø Thò Hạnh


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
Về mặt hình thức:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………….
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
……………………………….………………………………
Về mặt nội dung:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
Điểm:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………


…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞĐẦU....................................................................................................7
1. TỔNG QUAN VỀTÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QÙY HỢP.........................7
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân huyện Quỳ
Hợp.................................................................................................................7
1.2. Đặc điểm hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân
huyện Quỳ Hợp.............................................................................................8

PHẦN II: NỘI DUNG BÁO CÁO..........................................................................10
CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀNGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI........................................................................................................................10
1.1. Người chưa thành niên phạm tội.............................................................10
1.2. Xét xử người chưa thành niên phạm tội.................................................10
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN
QUỲ HỢP..............................................................................................................15
2.1. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội:.........................................15
2.2. Nguyên nhân dẫn đến người chưa thành niên phạm tội.........................19
2.3. Nhận xét về việc việc áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân huyện
Quỳ Hợp...........................................................................................................21
2.3.1. Ưu điểm chung..................................................................................21
2.3.2. Ưu điểm trong giải quyết các vụ án người chưa thành niên phạm tội
......................................................................................................................22
2.3.2. Hạn chế, vướng mắc..........................................................................23
2.4. Giải pháp đối với tình hình người chưa thành niên phạm tội và xét xử
các vụ án với đối tượng này tại TAND huyện Quỳ Hợp................................25
2.5. Những vấn đề học tập được trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân
dân huyện Quỳ Hợp........................................................................................27
KẾT LUẬN............................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................31


7

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QÙY HỢP
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tòa án nhân dân huyện
Quỳ Hợp

Cách đây 65 năm, cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã mở ra một
kỷ nguyên mới đối với đất nước ta – kỷ nguyên độc lập dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Cách mạng tháng Tám đã xóa bỏ chính quyền thực dân phong kiến và
lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – một Nhà nước độc lập, dân chủ
thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ngày 13/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 33C thiết lập
các Tòa án quân sự đánh dấu sự ra đời của ngành Tòa án Việt Nam.
Ngày 25/05/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 85- SL về cải
cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng. Theo sắc lệnh này về tổ chức sơ thẩm gọi
là Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án đệ nhị là Tòa án cấp tỉnh, Hội đồng phúc
án nay gọi là Tòa phúc thẩm.
Tháng 4 năm 1958 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quyết định
thành lập Tòa án nhân dân tối cao. Với Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức Tòa án
năm 1960 đánh dấu một bước tiến quan trọng của hệ thống Tòa án nhân dân.
Sự phát triển của ngành Tòa án toàn quốc đã tạo điều kiện cho Tòa án
nhân dân cấp tỉnh cũng như cấp huyện được kiện toàn đi vào hoạt động, việc
thực hiện Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 được tiến hành thuận lợi.
Ngày 19 tháng 4 năm 1963 huyện Quỳ Châu ( cũ ) được chia tách ra thành ba
huyện Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong, từ đó TAND huyện Quỳ Hợp cũng
được chia tách từ TAND huyện Quỳ Châu và đã đi vào hoạt động từ ngày ấy
cho đến nay.
Qua các thời kỳ, dưới sự lãnh đạo của các Chánh án và sự nỗ lực phấn đấu
của cán bộ trong cơ quan cho nên, TAND huyện Quỳ Hợp đã đạt được những


8
thành tích đáng kể, nhiểu năm đạt danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”. Được
Chánh án TAND Tối cao tặng cờ thi đua xuất sắc và tặng Bằng khen.
1.2. Đặc điểm hoạt động và cơ cấu tổ chức bộ máy của Tòa án nhân
dân huyện Quỳ Hợp

a) Đặc điểm hoạt động:
Đối với Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp nhiệm kỳ 1963 – 1966, số
lượng Thẩm phán có 01 người, sau đó được tăng thêm theo yêu cầu nhiệm vụ
của ngành và đến nhiệm kỳ 1981- 1985 là 3 đồng chí, hiện nay được phân bổ
là 4 đồng chí.
Trong giai đoạn từ năm 1963- 1975, hoạt động của ngành Tòa án nhân
dân huyện Quỳ Hợp đạt được một số kết quả: Số việc hình sự đã xét xử là 614
vụ; Số việc dân sự, hôn nhân và gia đình đã xét xử 818 vụ; Đồng thời cử 1 cán
bộ Tòa án vào chi viện cho chiến trường miền nam . Thời kỳ này ngành Tòa án
đã làm tròn sứ mệnh của mình, thể hiện được vai trò công cụ sắc bén của Nhà
nước chuyên chính vô sản, kiên quyết đấu tranh trấn áp mọi kẻ thù.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chính quyền chuyên chính vô
sản được thiết lập trên phạm vi cả nước. Đây là thời kỳ khôi phục chiến tranh,
phần lớn đội ngũ cán bộ ngành Tòa án huyện đều là bộ đội chuyển ngành, trình
độ nghiệp vụ còn yếu. Do đó, ngành Tòa án đã chủ trương đào tạo sơ cấp,
trung cấp pháp lý để xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ thành
thạo, sau đó kịp thời bố trí cho đi đào tạo Đại học Luật. Do yêu cầu phát triển
của đất nước, thời kỳ này TAND huyện Quỳ Hợp có số lượng cán bộ công
chức 5 đồng chí, trong đó có 3 Thẩm phán. Đội ngũ cán bộ ngành Tòa án lúc
này vừa thiếu lại vừa yếu, song dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, được sự
quan tâm của Hội đồng nhân dân cũng như của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ an,
ngành Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp ngày càng phát triển cả về số lượng và
chất lượng.


9
Trong thời gian từ năm 1981 đến năm 2002, Bộ tư pháp quản lý Tòa án
địa phương về mặt tổ chức, Tòa án nhân dân tỉnh quản lý về công tác chuyên
môn. Từ tháng 10/2002 công tác tổ chức Tòa án địa phương được giao cho Tòa
án Tối cao quản lý. Đến nay, Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp có tổng số biên

chế 11 người. Trong đó: Thẩm phán 4 người; Thư ký 4 người; Kế toán 1
người; Văn thư, lưu trữ 1 người; Tạp vụ 1 người. Trình độ chuyên môn: Đại
học luật 7 người, Đại học khác 01 người, trung cấp 01 người.
Nhìn chung, cán bộ công chức Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, tác phong lối sống lành mạnh,
có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng được yêu cầu công tác của ngành.
Việc đổi mới kịp thời về công tác tổ chức, đào tạo bồi dưỡng quy hoạch
phát triển nguồn cán bộ đã từng bước có định hướng đúng đắn. Nhờ vậy, từ
năm 2000 đến nay, hằng năm TAND huyện Quỳ Hợp phải giải quyết một số
lượng án lớn (từ 350 đến 400 vụ), song cơ quan TAND huyện vẫn phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ. Song song với công tác xét xử, Tòa án còn thực hiện
công tác thi hành án hình sự. Với nhiệm vụ này, TAND huyện đã tích cực phối
hợp với các cơ quan tư pháp thực hiện tốt công tác thi hành án hình sự đảm
bảo đúng quy định của pháp luật.
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức
Chánh án

Phó chánh án
Thẩm phán
Thư ký
Văn thư

Thư ký

Phó chánh án
Thẩm phán
Thư ký

Thư ký
Kế toán



10

PHẦN II: NỘI DUNG BÁO CÁO
CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG
VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1. Người chưa thành niên phạm tội
*) Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm
thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ đứng ở vị trí là bị
cáo, do đó tùy theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân mà họ
cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
*) Cơ sở pháp lí:
Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi (Điều 18 Bộ luật dân sự
năm 2005).
Theo Điều 12 Bộ luật hình sự sửa đổi bộ sung năm 2009 quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”
1.2. Xét xử người chưa thành niên phạm tội
a . Điều kiện để xét xử người chưa thành niên phạm tội
Khi xét xử người chưa thành niên phạm tội, Tòa án phải xác định khả
năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
Khả năng nhận thức, theo nghĩa rộng là sự thể hiện năng lực phản ánh và
tái hiện hiện thực vào trong tư duy, hay là quá trình nhận biết, hiểu biết thế
giới khách quan và ghi lại kết quả của quá trình đó. Theo nghĩa hẹp, khả năng
nhận thức là nhận ra và biết được hiểu được vấn đề. Ví dụ như: Nhận thức rõ



11
khó khăn và thuận lợi; Nhận thức được quy định và cấm đoán; Nhận thức được
việc làm và hậu quả mang lại.
Khả năng nhận thức của con người phải đạt ở một độ tuổi nhất định, phải
căn cứ vào nhiều yếu tố: Điều kiện kinh tế, địa lí, lịch sử, dân tộc, văn hóa, xã
hội để xác định và quy định trách nhiệm hình sự. Như vậy, khi đưa một người
ra xét xử, người đó phải từ 14 tuổi trở lên. Người có nhược điểm về thể chất và
tinh thần không có năng lực hành vi như: Người dưới 14 tuổi, người bị tâm
thần, người bị suy ngốc bẩm sinh… là người không phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm.
Khi xét xử người chưa thành niên phạm tội bắt buộc phải có người bào
chữa (Luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
bào chữa viên nhân dân) cho các bị cáo là người chưa thành niên phạm tội.
Mọi trường hợp không có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có
bị cáo là người chưa thành niên đều vi phạm thủ tục tố tụng, trừ trường hợp bị
cáo là người chưa thành niên phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của bị
cáo từ chối người bào chữa. Trường hợp bị cáo là người chưa thành niên hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Tòa
án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa
cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình, trừ trường
hợp người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối. Tòa
án phải đề nghị Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lí thực hiện trợ giúp pháp lí
cho bị cáo là trẻ em không nơi nương tựa và có thể đề nghị trợ giúp pháp lí cho
bị cáo là người chưa thành niên khác
b. Trách nhiệm, nguyên tắc của Tòa án trong việc xét xử người chưa
thành niên phạm tội
Tòa án phải phối hợp với các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát…trong việc

xét xử các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội.


12
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi xét xử các vụ án
liên quan đến người chưa thành niên phạm tội phải có trách nhiệm:


Bảo đảm tuân thủ theo đúng các quy định tại chương XXXII và các

quy định khác của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.


Bảo đảm quyền của người chưa thành niên theo quy định của pháp

luật được tôn trọng trong suốt quá trình tố tụng. Việc xét xử các vụ án liên
quan đến người chưa thành niên phải phù hợp với tâm lí, lứa tuổi của họ.


Bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên.

Mọi hoạt động tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phải được tiến
hành trong môi trường thuận tiện cho việc bảo đảm bí mật đời tư và danh dự,
nhân phẩm của người chưa thành niên.


Ưu tiên giải quyết nhanh chóng, chính xác, kịp thời các vụ án liên

quan đến người chưa thành niên.
Khi tiến hành xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên, Tòa

án cần phân công Thẩm phán đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về xét xử
đối với người chưa thành niên hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lí học,
khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm liên
quan đến người chưa thành niên.
Nguyên tắc xử lí đối với người chưa thành niên phạm tội: Trong quá trình
xét xử các vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra, Tòa án cần thực
hiện đúng nguyên tắc xử lí đối với người chưa thành niên phạm tội quy định
tại điều 69 Bộ luật hình sự. Đặc biệt cần xem xét việc miễn trách nhiệm hình
sự nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 điều 69 Bộ luật hình sự, giao bị
cáo là người chưa thành niên phạm tội cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức
giám sát, giáo dục nhằm giúp bị cáo là người chưa thành niên phạm tội tự sửa
chữa lỗi lầm và tái hòa nhập cộng đồng.
Cơ quan tiến hành tố tụng xác định tuổi của bị cáo là người chưa thành
niên theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp


13
pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị cáo
thì tuổi của họ được xác định như sau:
Trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định được
ngày thì trong tháng đó lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị
cáo.
• Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định
được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng
trong quý đó làm ngày sinh của bị cáo.
• Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm,
nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối
năm đó thì lấy ngày 30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó
làm ngày sinh của bị cáo.
• Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được

ngày tháng sinh của bị cáo thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh
của bị cáo.
• Trường hợp không xác định được năm sinh của bị cáo là người chưa
thành niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.
c. Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội:
Khi xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên thì thành phần Hội
đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán bộ
Đoàn thanh niên.
Ngoài các trường hợp quy định tại Điều 18 BLTTHS, Tòa án có thể quyết
định xét xử kín vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra để tạo thuận
lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ.
Không tiến hành xét xử lưu động vụ án do người chưa thành niên gây ra,
trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.


14
Khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại vị trí của những người tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm
cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người chưa thành niên phạm tội.
Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá
trình xét xử tại Tòa án, trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc có việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối,
gây mất trật tự tại phiên tòa.
Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện
của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không
có lí do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức nơi học tập, sinh hoạt.
Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức tham gia
phiên tòa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng; Tham gia tranh luận; Khiếu nại các hành vi tố tụng của
những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án.

Trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, Tòa án có
thể mời đại diện cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn
thanh niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên tòa để hỗ trợ cho họ.
Việc thẩm vấn, xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên tại phiên tòa phải
theo quy định tại Điều 209 BLTTHS và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát
triển của bị cáo.
Những lời giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các
câu hỏi đưa ra tại phiên tòa cần đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho người chưa
thành niên và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi.
Hội đồng xét xử phải cho phép người chưa thành niên bày tỏ ý kiến, quan
điểm, nguyện vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan điểm,
nguyện vọng đó trước khi ra bản án, quyết định.
Giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội: Tòa án có thể quyết
định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của
họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có
giấy triệu tập của Tòa án. Đối với người chưa thành niên phạm tội không còn
cha mẹ, không có nơi cư trú rõ ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ, không


15
nơi nương tựa thì Tòa án giao họ cho cơ quan Lao động - Thương binh và Xã
hội hoặc Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ ở nơi bắt giữ, nơi xảy ra tội phạm hoặc
nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám sát người chưa thành niên phạm tội.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP
2.1. Thực trạng người chưa thành niên phạm tội:
Qua nghiên cứu hồ sơ các vụ án cũng như quá trình thu thập thông tin tại
Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, có thể thấy một thực trạng đáng lo ngại về

người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn huyện Quỳ Hợp.
Số liệu thống kê cụ thể:
Bảng 2.1: Thống kê số vụ và bị cáo Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp
thụ lý và giải quyết từ năm 2011- 2013
Thụ lý
Thời gian

Giải quyết

Vụ

Bị cáo

Vụ

Bị cáo

(từ 01/10/2012 – 30/9/2013)
Năm 2014

5

7

5

7

(từ 01/10/2013 – 30/9/2014)


7

12

7

12

3

4

3

4

Năm 2013

6 tháng đầu năm 2015
(từ 01/10/2014 - 30/03/2015)

(Nguồn số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp)
Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp thì từ năm
2013-2015 Tòa án đã thụ lý: 15 vụ án do người chưa thành niên gây ra với 23
bị cáo vi phạm và đã giải quyết 15 với 23 bị cáo, trong đó nam chiếm 100%.
Số em phạm tội chủ yếu từ 14 đến dưới 18 tuổi, trong đó 10% chưa biết chữ
và có 60% đã bỏ học. Số lượng có chiều hướng tăng, tính chất, mức độ ngày
càng nghiêm trọng hơn, đáng chú ý là các tội: Cướp tài sản; Cưỡng đoạt tài



16
sản; Xâm phạm sở hữu; Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh
dự con người. Phần lớn các em là các thanh thiếu niên, học sinh bỏ học, bỏ nhà
đi lang thang, thiếu sự quan tâm từ gia đình…
Để thấy rõ hơn quy mô về số lượng các vụ án phạm tội của người chưa
thành niên bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã thụ lý qua các năm từ
2013(từ 01/10/2013) đến năm 2015 (30/03/2015), chúng ta có thể theo dõi biểu
đồ 2.1sau:

Biểu đồ 2.1: Số lượng vụ án có người chưa thành niên phạm tội đã được
Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp thụ lý từ năm 2013 – 2015.
Từ biểu đồ trên ta thấy, số lượng bị cáo mà Tòa án nhân dân huyện Quỳ
Hợp thụ lý đã có chiều hướng tăng.
Năm 2013 (từ 01/10/2012 – 30/9/2013): Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp
thụ lý 5 vụ.
Năm 2014(từ 01/10/2013 – 30/9/2014): Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp
thụ lý 7 vụ, tăng 2 vụ so với năm 2014.
Sáu tháng đầu năm 2015 (từ 01/10/2014 – 30/3/2015): Tòa án nhân dân
huyện Quỳ Hợp thụ lý 3 vụ, thấp hơn 4 vụ so với cả năm 2014. Tuy là sáu
tháng đầu năm nhưng so sánh với năm 2013, năm 2014 thì số lượng vụ án
đã thụ lý 3 vụ chứng tỏ chưa có chiều hướng giảm, đây vẫn đang ở mức cao,


17
cần phải có nhiều biện pháp để giảm thiểu số vụ phạm tội trên địa bàn huyện
Quỳ Hợp.
Ví dụ:
Tại bản án số 04/2015/HSST ngày 21/1/2015, tại trụ sở Tòa án nhân dân
huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án
hình sự thụ lý số 80/2015/HSST ngày 19/12/2014 đối với các bị cáo:

1- Lê Mạnh Hùng – tên gọi khác: không.
Sinh ngày: 01 tháng 02 năm 1998.
Nơi đăng ký NKTT: Bản Nhọi, xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh
Nghệ An.
Nghề nghiệp: học sinh; Trình độ văn hóa: 10/12.
Con ông: Lê Văn Lý và bà Lữ Thị Lan.
Vợ, con: chưa có.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Đại diện hợp pháp cho bị cáo là: ông Lê Văn Lý (Là bố đẻ của bị cáo Lê
Mạnh Hùng).
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Thái Quỳnh – trợ giúp viên
pháp lý, Trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An.
Người bị hại: Anh Nguyễn Đức Hà, sinh năm: 1989.
Trú tại: xóm 6, xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Lê Đặng Công, sinh năm:
1998.
Trú tại: Bản Nhọi, xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
Đại diện hợp pháp của cháu Công: bà Lương Thị Hà (Mẹ của cháu Công).
Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ an truy
tố về hành vi phạm tội như sau:


18
Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 22/10/2014, Lê mạnh Hùng và Lê
Đặng Công cậy cửa vào cửa hang bán điện thại di động của anh Nguyễn Đức
Hà ở bản Nhọi, xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp để lấy trộm 07 điện thoại di
động.
Kết luận định giá tài sản số 95 ngày 22/ 10/2014 của UBND huyện Quỳ
Hợp xác định; 07 điện thoại di động mà Lê Mạnh Hùng và Lê Đặng Công

trộm cắp có giá trị là; 5.400.000đ.
Về trách nhiệm dân sự thì anh Nguyễn Đức Hà đã nhận lại 07 điện thoại
di động và không yêu cầu bồi thường gì thm.
Tại bản cáo trạng số 04 KSĐT ngày 19/12/2014 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Quỳ Hợp đã truy tố Lê Mạnh Hùng về tội trộm cắp tài sản theo
quy định tại khoản 1 điều 138 BLHS.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã đề nghị HĐXX áp
dụng khoản 1 điều 138; điểm b, h, p khoản 1 và 2 điều 46; điều 69; điều 74 và
điều 60 BLHS, xử phạt Lê Mạnh Hùng từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án
treo về tội “ Trộm cắp tài sản”.
Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 điều 138;
điểm b, h, p khoản 1 và khoanr 2 điều 46; điều 47; điều 69 BLHS, xử phạt Lê
mạnh Hùng từ 05 đén 07 tháng cải tạo không giam giữ.
Tại phiên tòa hôm nay Lê Mạnh Hùng hoàn toàn thừa nhận khoảng 19h
30p phút, ngày 22 tháng 09 năm 2014, Lê Mạnh Hùng và Lê Đặng Công đã
lấy trộm 07 điện thoại di động của anh Nguyễn Đức Hà có giá trị là
5.400.000đ. Lời khai nhận của bị cáo Lê Mạnh Hùng tại phiên tòa hôm nay
hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của
người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, các tài liệu chứng cứ có tại
hồ sơ vụ án, vật chứng vụ án được thu giuwx nên có đủ căn cứ kết luận hành vi
của Lê mạnh Hùng đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình
phạt được quy định tại khoản 1 điều 138 BLHS.


19
Xét tính chất vụ án: Hành vi của bị cáo Lê Mạnh Hùng rất nguy hiểm
cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác. Vụ án xảy ra
gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội. Gây tâm lý lo lắng hoang mang trong
quần chúng. Nên cần cho bị cáo mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm
tội mà bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho

xã hội và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần về hình
phạt cho bị cáo bởi các yếu tố: gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn,
ăn năn hối cải, người bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phatj cho bị cáo. Bị cáo Lê
Mạnh Hùng là người chưa thành niên phạm tội nên khi quyết định hình phạt
cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội.
Đối với Lê Đặng Công tham gia trộm cắp tài sản, nhưng Công chưa đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp
đã ra quyết định xử lý hành chính để răn đe giáo dục.
Về trách nhiêm dân sự: Người bị hại đã nhận lại 07 điện thoại di động và
không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
Về án phí bị cáo Lê Mạnh Hùng chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã áp dụng khoản 1 điều
138; điểm b, h, p khoản 1 và khoản 2 điều 46; điều 69 và điều 60 BLHS.
Xử phạt bị cáo: Lê Mạnh Hùng 06 ( Sáu ) tháng tù cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách 12 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho
chính quyền UBND xã Châu Cường, huyện Quỳ Hợp với chính quyền địa
phương trong việc giám sát và giáo dục bị cáo.
Về án phí bị cáo Lê Mạnh Hùng chịu án phí HSST 200.000 đồng.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến người chưa thành niên phạm tội


20
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành
niên. Nhưng chủ yếu là do gia đình chưa coi trọng vấn đề giáo dục trẻ em
thành niên, sự ảnh hưởng của văn hóa phẩm độc hại, công tác quản lí nhà nước
về trật tự xã hội còn bị buông lỏng.
Đa số bị cáo là người chưa thành niên không nhận thức đầy đủ về tính

nguy hiểm và hậu quả nghiêm trọng của hành vi mình gây ra.
Nguyên nhân trước tiên là do các trẻ em là vị thành niên với các yếu tố
tâm sinh lí đặc thù chưa được nhà trường, gia đình, xã hội, chú ý. Các em thiếu
giáo dục của gia đình và nhà trường về pháp luật và đạo đức xã hội. Mặt khác,
mặt trái của xã hội hiện đại làm cho các em sớm tiếp xúc với các hiện tượng
tiêu cực của xã hội như nghiện hút, chơi bời sa đà, đồi trụy, bạo lực, nhưng
không được phát hiện giáo dục định hướng đến nơi đến chốn. Vì vậy, nhiều em
đã có những nhận thức sai lệch, định hướng giá trị không phù hợp dẫn đến
phạm tội.
Cũng theo các cơ quan chức năng, người chưa thành niên phạm tội gia
tăng trong thời gian gần đây phần lớn do các em có lối sống ăn chơi sa đọa,
thích hưởng thụ quá sớm.
Bên cạnh đó, do cách giáo dục chưa đến nơi đến chốn từ phía gia đình, nhà
trường. Rất nhiều em còn bị rủ rê lôi kéo bởi đám bạn xấu nên không làm chủ
được bản thân, một số khác nghiện game, ma túy và chịu ảnh hưởng của mạng
Internet nên thường xuyên tiếp xúc với các loại phim cấm như sex, bạo lực…
Đạo đức xã hội xuống cấp, phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày một
tăng, việc giáo dục ý thức pháp luật cho từng người dân còn chưa được tốt,
việc phòng ngừa và phát hiện xử lý tội phạm còn thiếu hiệu quả, những người
thực thi pháp luật trong các cơ quan công quyền đôi khi đã không thực thi theo
đúng quy định của pháp luật, không nghiêm minh, chính người dân cũng còn e
dè không mạnh dạn, thậm chí thờ ơ trong đấu tranh với những hành vi phạm
tội, hành vi vi phạm đạo đức xã hội.


21
Đó là những nguyên nhân quan trọng tác động tới nhận thức cũng như
hành vi của các em, do đó lí giải vì sao nhiều em tuổi đời tuy còn quá trẻ
nhưng đã gây ra các vụ án nghiêm trọng.
2.3. Nhận xét về việc việc áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân

huyện Quỳ Hợp
2.3.1. Ưu điểm chung
Trong những năm qua, nhìn chung Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, đã
có những cố gắng, no lực trong việc giải quyết các vụ án, đảm bảo việc xét xử
công bằng và tuân theo quy định của pháp luật. Những vụ án có tính chất phức
tạp kéo dài đã được Tòa án giải quyết một cách triệt để và đạt hiệu quả cao.
Trong năm 2014, Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã thụ lý 248 vụ án các
loại, đã giải quyết 238 vụ, đạt tỷ lệ 96,9%. Với tỷ lệ như vậy, thì đây quả là
một con số đáng khen.
Chất lượng xét xử ngày càng nâng cao, đảm bảo các nguyên tắc, thủ tục
tố tụng, đúng người, đúng tội, đúng chính sách pháp luật. Quá trình xét xử
không có trường hợp nào kết án oan cho người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Các vụ án hình sự trọng điểm được đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh, có tác
dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm. Các vụ án tranh chấp dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, hành chính phức tạp, cũng đã được đầu
tư thời gian thu thập chứng cứ, kiên trì hoà giải và đã có nhiều trường hợp hòa
giải thành công. Việc chấp hành quy định của pháp luật về thời hạn xét xử
được Tòa án thực hiện nghiêm túc, chất lượng xét xử tiếp tục được đảm bảo và
không có án quá hạn luật định do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Toà án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã đẩy mạnh việc thực hiện các giải
pháp thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa,
nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định bảo đảm đúng
pháp luật, hiệu lực, hiệu quả, không có bản án tuyên không rõ ràng. Tòa án đã
chú trọng công tác hòa giải các vụ việc dân sự và đối thoại trong giải quyết án


22
hành chính, tăng cường xét xử lưu động các vụ án hình sự, dân sự để tuyên
truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Bên cạnh đó, Tòa án cũng đã
thực hiện tốt công tác xét xử và thi hành án hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp,

đổi mới việc tổ chức việc tổ chức phiên tòa xét xử theo hướng đảm bảo tính
công khai dân chủ, nghiêm minh.
Như vậy, mặc dù số lượng các vụ án tăng so vớí năm trước, nhưng Tòa án
đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn trở ngại, tổ chức thực hiện nghiêm túc
nhiều giải pháp; chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm và kỷ luật công vụ, nâng
cao chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ và rút kinh nghiệm xét xử, tăng cường
kiểm tra và thường xuyên phát động phong trào thi đua nên chất lượng công
tác xét xử có nhiều chuyển biến tích cực; góp phần giữ vững an ninh quốc gia
và trật tự an toàn xã hội; ổn định tình hình chính trị, kinh tế và xã hội trên địa
bàn huyện.
2.3.2. Ưu điểm trong giải quyết các vụ án người
chưa thành niên phạm tội
Hiện nay, tình hình tội phạm vị thành niên diễn ra khá phổ biến và ngày
càng phức tạp. Công cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm vị thành niên
trở thành mục tiêu quan trọng trong chiến lược cải cách tư pháp và ổn định trật
tự xã hội. Nhận thức được ảnh hưởng của hoạt động xét xử đối với đấu tranh
phòng, chống tội phạm, Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã chú trọng hơn đối
với công tác xét xử người chưa thành niên phạm tội. Đa số Thẩm phán được
giao nhiệm vụ xét xử đều cố gắng hết mình trong việc trau dồi kiến thức về
tâm sinh lý người chưa thành niên, đồng thời nghiên cứu kỹ các quy định pháp
luật để có thể áp dụng đúng hình phạt, biện pháp tư pháp đối với người chưa
thành niên như chính sách hình sự của Nhà nước đã quy định.


23
Để thấy rõ tình hình giải quyết các vụ có người chưa thành niên phạm tội
của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp từ năm 2013 (từ 01/10/2012) đến năm
2015 (30/03/2015), chúng ta có thể theo dõi biểu đồ 2.2 sau:


Biểu đồ 2.2: Số lượng vụ án có người chưa thành niên phạm tội đã được
Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp giải quyết từ năm 2013 – 2015.
Qua biểu đồ trên ta thấy, Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp từ năm
2013(từ 01/10/2012) đến năm 2015 (30/03/2015) đã giải quyết tương đối đầy
đủ, hoàn thành số vụ án đã thụ lí:
Năm 2013(từ 01/10/2012 – 30/9/2013): Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã
giải quyết 5/5 vụ, giải quyết hết các vụ án có người chưa thành niên phạm tội
mà Tòa đã thụ lý.
Năm 2014(từ 01/10/2013 – 30/9/2014): Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp
đã giải quyết 7/7 vụ.
Năm 2015(từ 01/10/2014 – 30/3/2015): Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp
đã giải quyết 3/3 vụ.
Như vậy, từ năm 2013(từ 01/10/2012) đến năm 2015 (30/03/2015) Tòa
án nhân dân huyện Quỳ Hợp đã giải quyết tốt các vụ án đã thụ lý, hoàn thành
tốt nhiệm vụ trong việc xét xử người chưa thành niên phạm tội.
2.3.2. Hạn chế, vướng mắc


24
Quá trình giải quyết các vụ án về người chưa thành niên phạm tội tuy đã
đạt được những kết quả tốt đảm bảo các nguyên tắc, thủ tục tố tụng, đúng
người, đúng tội, đúng chính sách pháp luật. Nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại
những khó khăn và vướng mắc cụ thể như sau:
•Các phong trào về hoạt động giáo dục tuyên truyền không được duy trì
thường xuyên và đều đặn ở các địa phương.
• Sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện các biện
pháp phòng ngừa còn chưa đồng bộ, chưa tạo thành khâu khép kín giữa gia
đình nhà trường và xã hội trong quản lý giáo dục người chưa thành niên.
•Nhận thức của một số đoàn thể về công tác phòng ngừa người chưa
thành niên phạm tội còn chưa đúng mực, coi nhẹ công tác quản lý, giáo dục

người chưa thành niên, chưa thấy hết được trách nhiệm của mình trong quản
lý, giáo dục người chưa thành niên phạm tội.
•Cơ chế chỉ đạo công tác phòng ngừa tội phạm nói chung và người chưa
thành niên phạm tội nói riêng từ trung ương đến địa phương chưa được thực
hiện nghiêm túc.
•Mối quan hệ giữa các chủ thể trong phòng ngừa, người chưa thành niên
phạm tội chưa nhịp nhàng ăn khớp, thể hiện ngay cả trong quan hệ giữa cấp ủy
chính quyền và các đoàn thể, chưa chủ động trong phối kết hợp.
• Nhà nước ban hành Luật bảo vệ chăm sóc – giáo dục trẻ em, song pháp
luật trực tiếp hướng vào công tác phòng ngừa người chưa thành niên phạm tội
còn chưa được hoàn thiện, các văn bản dưới luật có tính pháp quy về phòng
ngừa người chưa thành niên phạm tội còn chưa đày đủ.
•Nhận thức của một số lực lượng cán bộ chiến sĩ về công tác phòng ngừa
còn chưa đúng mực, có người cho rằng chỉ cần làm tốt công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm hình sự sẽ loại trừ được người chưa thành niên phạm tội
ra khỏi đời sống xã hội.


25
•Quản lý giáo dục các đối tượng ngoài xã hội còn thiếu sót, kể cả trong
quản lý con người và các địa bàn có người chưa thành niên thường xuyên tới tụ
tập chơi bời và có hoạt động phạm tội.
•Công tác xét xử các trường hợp người chưa thành niên phạm tội chưa có
tòa án riêng , vì vậy chưa thấu hiểu cặn kẽ tâm lý của người chưa thành niên
thực hiện tội phạm, nên khi lượng khung hình phạt còn máy móc, do đó tác
dụng trong công tác giáo dục còn nhiều hạn chế.
2.4. Giải pháp đối với tình hình người chưa thành niên phạm tội và
xét xử các vụ án với đối tượng này tại TAND huyện Quỳ Hợp
•Về gia đình:
Gia đình là tế bào của xã hội, là yếu tố quan trọng trong việc hình thành

và phát triển nhân cách của trẻ em, trong phòng ngừa người chưa thành niên
phạm tội. Vì vậy, xây dựng gia đình văn hóa mới có lối sống lành mạnh, các
thành viên tôn trọng lẫn nhau, thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức xã hội sẽ
có ý nghĩa to lớn trong việc ngăn ngừa những nhân tố tiêu cực tác động tới các
em, đồng thời cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình với nhà trường và
sự quan tâm của toàn xã hội.
•Về xã hội:
Đảng và Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp thích hợp tối ưu để
ngăn chặn tối thiểu tình trạng người chưa thành niên phạm tội. Ngoài ra, toàn
thể xã hội, người dân cũng cần có ý thức phát hiện, phát giác, tố cáo những hành
vi vi phạm, đặc biệt không được che giấu cho hành vi sai trái của các em.
•Về cơ quan tiến hành tố tụng:
Cần làm rõ mức độ phát triển năng lực nhận thức, điều kiện sống và giáo
dục của người chưa thành niên phạm tội không thể chỉ dựa vào lời khai của
người chưa thành niên mà phải kết hợp, đối chiếu qua lời khai của cha, mẹ,
người nuôi dưỡng, bạn bè, thầy cô giáo, những người xung quanh sống trong
khu phố, tổ chức đoàn thể của người chưa thành niên phạm tội…


×