Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Chi phí kinh doanh các biện pháp tiết kiệm chi phí kinh doanh tại công ty vật liệu xây dựng và dịch vụ vận tải liên liên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.33 KB, 71 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và cạnh
tranh gay gắt, các DN muốn tồn tại, duy trì cần phải mang lại những
hiệu quả kinh tế xã hội nhất định. Bên cạnh các lợi ích xã hội, mục
đích cao nhất và cuối cùng của một DN là lợi nhuận; họ luôn coi chỉ
tiêu này là kim chỉ nam hoạt động của mình. Lợi nhuận chính là
khoản chênh lệch giữa chi phí và doanh thu, là khoản dôi ra sau khi
thu nhập bù đắp chi phí. Để tăng lợi nhuận, các DN cần phải tìm
mọi cách, mọi giải pháp để có thể tối thiểu hoá lượng chi phí bỏ ra.
Song biểu hiện của chi phí rất phong phú, đa dang trong quá trình
kinh doanh nội dung, ảnh hưởng của nó và cách sử dụng cũng rất
khác nhau. Do vậy, hiểu được tầm quan trọng của việc giảm thiểu
chi phí, các DN cần đi sâu nghiên cứu bản chất, nội dung, cũng như
các biện pháp tiết kiệm nó. Chỉ có vậy, các nhà lãnh đạo mới có thể
thực sự giảm được chi phí hiệu quả nhất bằng các chính sách kinh tế
phù hợp có ảnh hưởng với tình hình hoạt động kinh doanh của DN.
Nếu không cân nhắc kỹ, có thể làm giảm theo cả khối lượng, chất
lượng công việc. Mặt khác, việc tiết kiệm chi phí sẽ giúp DN hạ giá
sản phẩm dịch vụ, làm tăng doanh thu, nâng cao lợi nhuận, tạo khả
năng mở rộng sản xuất.
Qua quá trình học tập, nghiên cứu và đi thực tế tại Công ty vật
liệu xây dựng vận tải Liên Liên, nhận thức đúng vị trí, vai trò và

1


tầm quan trọng của chi phí kinh doanh, tôi đã lựa chọn đề tài: "Chi
phí kinh doanh - các biện pháp tiết kiệm chi phí kinh doanh tại
Công ty Vật liệu xây dựng và dịch vụ vận tải Liên Liên" làm đề tài
nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình do thời gian thực tế


không nhiều cùng với kiến thức còn nhiều hạn chế, tôi rất mong
được sự đóng góp của các thầy cô giáo và những độc giả quan tâm
đến vấn đề này để cho chuyên đề được hoàn chỉnh đầy đủ hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy cô giáo
Lê Thị Kim Nhung cùng các anh chị tại phòng kế toán tài chính của
Công ty vật liệu xây dựng và Dịch vụ vận tải Liên Liên. Nội dung
chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I: Những lý luận chung về chi phí kinh doanh, các biện
pháp tiết kiệm chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại
và dịch vụ.
Phần II: Thực trạng về công tác quản lý chi phí kinh doanh,
tình hình thực hiện chi phí kinh doanh tại công ty Liên Liên.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm tiết kiệm chi phí kinh
doanh tại công ty.

2


3


PHẦN I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH
DOANH - CÁC BIỆN PHÁP TIẾT KIỆM CHI PHÍ TRONG
DN THƯƠNG MẠI
1.1. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA CHI PHÍ KINH
DOANH.
1.1.1. Khái niệm của chi phí kinh doanh.
Ngày nay, trong xã hội mà nền kinh tế thị trường chiếm lĩnh,
các thành phần kinh tế đều có cơ hội tạo dựng và phát triển hoạt

động kinh doanh của mình. Để quản lý hoạt động kinh doanh đó,
các nhà kinh tế phải đặt ra khá nhiều các chỉ tiêu để đánh giá. Cụ
thể, về mặt kinh tế; có ba chỉ tiêu quan trọng cho phép xác định tình
hình sử dụng các đầu vào, đầu ra và hiệu quả kinh doanh, đó là Chi
phí, Doanh thu, Lợi nhuận. Để tồn tại và phát triển, DN cần tìm mọi
cách giảm tới mức tối thiểu chi phí của mình, bên cạnh việc tăng
doanh thu. Song do khá đa dạng các loại hình kinh doanh, nên các
chi phí cũng biểu hiện rất khác nhau giữa các DN. Vì thế, các nhà
quản lý cần nắm vững được khái niệm, bản chất của chi phí kinh
doanh.
Chúng ta đều nhận thấy rằng, hoạt động của DN dù diễn ra ở
lĩnh vực nào : Sản xuất, Xây dựng, Thương mại hay Dịch vụ... đều
là quá trình sản xuất, tạo ra hàng hoá cung cấp cho người tiêu dùng
để thu lợi nhuận. Quá trình này là sự kết hợp và tiêu dùng của ba
4


yếu tố cơ bản, đó là : Tư liệu lao động, Đối tượng lao động và Sức
lao động. Bởi thế, muốn kinh doanh, trước hết DN phải bỏ một
khoản vốn ban đầu, đầu tư để có được các yếu tố đó. Từ đó, vận
hành quy trình chế biến, tạo ra sản phẩm hoàn thành, có giá trị sử
dụng. Thông qua việc thực hiện các giá trị sử dụng này, DN mới có
doanh thu để trang trải lại các chi phí đã bỏ ra, có lãi, thực hiện tái
sản xuất mở rộng. Chính là quá trình DN chi ra những chi phí nhất
định, dù ở hình thức hiện vật hay giá trị, là điều kiện vật chất bắt
buộc để DN có thu nhập. Vì thế, quá trình hình thành lên chi phí sản
xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là yếu tố khách quan, không phụ
thuộc vào ý muốn người sản xuất.
Nó là một nhân tố tồn tại khách quan, luôn có, nên ai cũng
muốn thấu hiểu về nó. Song với mỗi góc độ nghiên cứu, quan sát

khác nhau, chi phí lại có một định nghĩa khác nhau. Theo Mác - chi
phí sản xuất chính là các giá trị tư bản đã chi ra cho sản xuất hàng
hoá, thực hiện dịch vụ; nghĩa là : chi phí là toàn bộ các chi tiêu ông
chủ DN đã bỏ ra trong quá trình sản xuất. Các chi phí này được biểu
hiện cụ thể bằng tiền. Kế toán Pháp lại định nghĩa : Chi phí sản xuất
là toàn bộ số tiền mà DN bỏ ra để mua các yếu tố của quá trình sản
xuất trong một thời gian nhất định. Tức là thuộc chi phí sản xuất
gồm có tiền mua vật tư dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất, thù
lao trả cho người lao động và các chi phí khác phát sinh trong quá
trình kinh doanh. Theo Kế toán Việt Nam, chi phí sản xuất là toàn
bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà thực tế DN đã
bỏ ra để tiến hành các hoạt động, trong đó chi phí về lao động sống
5


bao gồm tiền lương và các khoản trích theo lương như BHXH,
BHYT, KPCĐ. Chi phí lao động vật hoá bao gồm chi phí nguyên
vật liệu, khấu hao TSCĐ...
Đó là các cách quan niệm về chi phí. Song để hiểu bản chất của
chi phí, ta xét chi phí trong toàn bộ quy trình thực hiện dịch vụ. Đối
với DN thương mại và dịch vụ, DN cũng vẫn cần tiêu hao vật tư
như nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ..., phải chịu sự hao mòn của
máy móc, thiết bị, phải trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên.
Tương ứng với những hao phí đó là các khoản chi phí bằng tiền DN
phải chi ra để kinh doanh trong một thời gian nhất định. Đó là các
chi phí nguyên vật liệu, chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí về tiền
công, tiền trích BHXH, BHYT. Như vậy, có thể thấy chi phí sản
xuất của một DN là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà DN
đã chi ra nhằm tiến hành hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ
nhất định. Các chi phí này có tính thường xuyên, gắn liền với quá

trình kinh doanh. Sau đó, tuỳ thuộc theo điều khoản hợp đồng, DN
phải bỏ thêm các chi phí phục vụ cho việc tiêu thụ như chi phí bốc
dỡ, đóng gói và vận chuyển hàng (nếu có). Không những thế, trong
điều kiện nền kinh tế cạnh tranh, các DN thương mại cũng cần có
các chi phí nghiên cứu thị trường, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
Các chi phí này được gọi là chi phí lưu thông sản phẩm. Mặt khác,
để thực hiện sản xuất kinh doanh có hiệu quả, bất cứ DN nào cũng
có đội ngũ lao động gián tiếp điều hành quá trình sản xuất nhịp
nhàng, đều đặn. Chi phí cho bộ phận này như chi phí văn phòng
phẩm, chi phí tiếp khách,... được gọi là chi phí quản lý DN. Ngoài
6


ra, DN còn phải thu hộ, nộp hộ các khoản thuế gián thu Nhà nước
đánh vào sản phẩm của DN theo quy định của Luật như thuế VAT,
Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu...
Đó là các khoản chi mặc dù không phục vụ cho kinh doanh,
song DN buộc phải ứng trước, nộp hộ cho khách hàng. Nó được coi
là chi phí kinh doanh của DN. Như vậy, xét từ góc độ của DN, có
thể thấy chi phí kinh doanh của một DN là toàn bộ chi phí sản xuất,
chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí quản lý và các khoản thuế gián
thu mà DN phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một thời kỳ nhất định.
Song có một khái niệm khá giống với chi phí. Hiện nay, vẫn
còn có nhà kinh doanh lầm lẫn giữa hai phạm trù này. Ta cần phân
biệt rõ chi phí và chi tiêu. Về biểu hiện bề ngoài; hai khái niệm này
đều biểu thị sự mất đi bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá mà DN bỏ ra. Song, xét về bản chất, chi
phí nhằm cung cấp các yếu tố cần thiết cho quá trình kinh doanh mà
DN phải chi trong kỳ kinh doanh. Như vậy, chi phí thể hiện những

hao phí về tài sản, lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm
DN tiêu thụ trong kỳ. Những chi phí này được lấy từ nguồn vốn
kinh doanh của DN và sẽ được bù đắp bởi giá trị sản phẩm, dịch vụ
đã tiêu thụ. Còn chi tiêu lại là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư,
tài sản tiền vốn của DN vào tất cả các mục đích. Chi phí và Chi tiêu
là hai khái niệm khác nhau có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi
tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, chi phí là cơ sở đánh giá hiệu quả chi

7


tiêu. Ban đầu là DN phải có các hoạt động chi tiêu. Từ các mục đích
chi đó, người quản lý mới cho phép hạch toán vào chi phí. Do đó sẽ
có sự chênh lệch giữa chi phí và chi tiêu như các khoản đã chi
không hợp lý, hợp lệ, các khoản chi vì mục đích tiêu dùng thường
xuyên,... Tỉ lệ giữa chúng sẽ nói lên tỉ lệ số vốn DN sẽ được đền bù
hay bị mất hẳn. Đồng thời, chúng còn khác nhau cả về mặt thời
gian. Có chi tiêu đã xuất vào kỳ này, song kỳ sau mới được tính vào
chi phí, như chi mua hàng về nhập kho chưa bán được. Có những
khoảng chi phí tính vào kỳ này, song thực tế chi tiền như chi phí
phải trả nhưng chưa trả.
Việc phân biệt rõ hơn về chi phí và chi tiêu, ta thấy được tầm
quan trọng của việc nắm vững và kiểm soát tình hình chi phí kinh
doanh của DN đặt ra đối với nhà quản lý. Bởi lẽ mỗi đồng chi phí
không hợp lệ sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty.
1.1.2 Nội dung của chi phí kinh doanh.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi DN trước hết
phải xác định được hành động sản xuất kinh doanh chính của DN
mình, lựa chọn việc sản xuất kinh doanh những loại sản phẩm nhất
định thuộc phạm vi ngành nghề sản xuất nhất định trong xã hội. Mỗi

ngành sản xuất vật chất của xã hội như công nghiệp, nông nghiệp,
xây dựng đều có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng. Những đặc
điểm này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN
hoạt động trong từng ngành sản xuất, ảnh hưởng đến chi phí sản
xuất kinh doanh của DN. Song về mặt lý luận chung, chi phí kinh
8


doanh của DN sẽ được bù đắp từ doanh thu hoặc thu nhập của DN
trong kỳ. Vì vậy, về nguyên tắc, tất cả các khoản chi phí phát sinh
trong kỳ được bù đắp từ các nguồn vốn khác đều không phải là chi
phí kinh doanh của DN. Hơn nữa, chi phí kinh doanh chỉ phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DN trong kỳ nên toàn bộ các
chi phí phát sinh khác trong kỳ không trực tiếp hay gián tiếp phục
vụ kinh doanh của kỳ đó đều không phải là chi phí kinh doanh.
Theo thông tư số 63/1999 TT/BTC ban hành ngày 7/6/1999 của Bộ
Tài chính hướng dẫn việc quản lý doanh thu chi phí và giá thành sản
phẩm dịch vụ tại các DN Nhà nước thì không được tính vào chi phí
kinh doanh những khoản mục chi phí sau:
+ Các khoản tiền phạt vi phạm pháp luật như : Luật giao thông,
luật thuế, luật môi trường, luật lao động, vi phạm chế độ báo cáo
thống kê, tài chính kế toán và các luật khác... Nếu do tập thể và cá
nhân vi phạm pháp luật thì tập thể hoặc cá nhân phải nộp phạt.
Ngoài khoản tiền đền bù nói trên, phần nộp phạt còn lại lấy từ lợi
nhuận sau thuế.
+ Các khoản đầu tư xây dựng cơ bản, chỉ mua sắm TSCĐ hữu
hình và vô hình, chỉ ủng hộ cho các tổ chức xã hội.
+ Chi phí đi công tác nước ngoài vượt định mức của DN.
+ Các khoản thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ như khoản chi
sự nghiệp đã được ngân sách Nhà nước cấp, cơ quan cấp trên hoặc

các tổ chức khác hỗ trợ, chi trả lãi vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản

9


trong kỳ, công trình chưa hoàn thành đưa vào sử dụng. Số lãi này
được hạch toán vào chi phí đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Các khoản chi phí sản xuất kinh doanh vượt mức quy định
của chế độ tài chính thì được bù đắp bằng quỹ khen thưởng và phúc
lợi.
Giữa các ngành sản xuất và thương mại có kết cấu chi phí khác
nhau, điều này xuất phát từ đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng
ngành. Nhìn chung, đối với các DN thương mại và dịch vụ vận thải
thì chi phí kinh doanh của chúng theo quy định hiện hành cũng phải
bao gồm những khoản chi phí sau:
* Chi phí sản xuất sản phẩm:
- Chi phí nhiên liệu : Là những vật liệu có tác dụng cung cấp
nhiệt lượng cho quá trình sản xuất như xăng dầu.
Chi phí nhiên liệu cho xe chạy là chi phí mà bất cứ một DN
kinh doanh dịch vụ vận tải cũng phải quan tâm vì nó là chi phí
thường xuyên và để tránh tình trạng lãnh phí. Để tính toán, tập hợp
chi phí vật liệu cần phải chú ý kiểm tra, xác định số nhiên liệu xuất
chưa sử dụng hết để loại trừ khỏi chi phí nhiên liệu đã sử dụng trong
kỳ.
CHI PHÍ THỰC
TẾ NHIÊN LIỆU =
TRONG KỲ

TRỊ GIÁ
NHIÊN LIỆU

XUẤT SỬ
DỤNG

TRỊ GIÁ NHIÊN
-

LIỆU CÒN CUỐI
KỲ CHƯA SỬ
DỤNG
10


Hiện nay, theo thực tế nhiên liệu xuất sử dụng thường chỉ vừa
đủ sử dụng trong thời gian ngắn nên không phải tính loại bỏ số trị
giá nhiên liệu còn tồn cuối kỳ.
* Chi phí khấu hao TSCĐ.
Trong quá trình đầu tư và sử dụng, dưới tác động của môi
trường tự nhiên và điều kiện làm việc cũng như tiến bộ khoa học kỹ
thuật, TSCĐ bị hao mòn. Hao mòn này được thể hiện dưới hai
dạng : Hao mòn hữu hình (là sự hao mòn vật lý trong quá trình sử
dụng do bị cọ sát, ăn mòn, bị hư hỏng từng bộ phận) và hao mòn vô
hình (là sự giảm giá trị của TSCĐ do tiến bộ khoa học kỹ thuật, đã
sản xuất ra những TSCĐ cùng loại có nhiều tính năng với năng suất
cao hơn và chi phí ít hơn). Để thu hồi lại giá trị hao mòn của TSCĐ,
người ta tiến hành trích khấu hao bằng cách chuyển phần giá trị hao
mòn này vào sản phẩm làm ra. Như vậy, chi phí khấu hao TSCĐ là
toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ sử dụng cho sản xuất của DN.
Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác
nhau. Việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao nào là tuỳ thuộc
vào quy định của Nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với DN

và yêu cầu quản lý của DN. Phương pháp khấu hao được lựa chọn
phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng
trang trải chi phí của DN. Trên thực tế, hiện nay phương pháp khấu
hao đều theo thời gian đang được áp dụng phổ biến. Phương pháp
này cố định mức khấu hao theo thời gian nên có tác dụng thúc đẩy
DN nâng cao NSLD, tăng số lượng sản phẩm làm ra để hạ giá

11


thành, tăng LN. Tuy nhiên, việc thu hồi vốn chậm, không theo kịp
mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình (do tiến bộ khoa học
kỹ thuật) nên DN không có điều kiện đầu tư trang thiết bị tài sản cố
định mới. Cách tính khấu hao theo phương pháp này như sau :
TỶ LỆ
MỨC KHẤU
HAO PHẢI
TRÍCH BÌNH

KHẤU

NG TSCĐ
=

BÌNH

-

QUÂN


QUÂN NĂM

HAO
BÌNH

NG TSCĐ
= SỐ NĂM
SỬ DỤNG

QUÂN
NĂM

Mức

khấu

hao

phải

trích

bình

quân

tháng

=


Møc khÊu hao BQ n¨ m
12

Nguyên giá TSCĐ làm căn cứ tính khấu hao là toàn bộ lượng
giá trị đã đầu tư vào TSCĐ tính đến thời điểm TSCĐ chính thức
phục vụ sản xuất kinh doanh, bao gồm giá mua chi phí vận chuyển,
lắp đặt, chạy thử, .... Đối với những TSCĐ góp vốn tham gia liên
doanh thì nguyên giá được xác định theo giá trị đánh giá lại của các
bên liên doanh. Đối với TSCĐ vô hình như lợi thế thương mại, chi
phí thành lập nghiên cứu phát triển... Nguyên giá TSCĐ được xác
định bằng toàn bộ chi phí bỏ ra để mua TSCĐ hoặc để tổng chi phí
đầu tư cho nó. Riêng TSCĐ tự làm không được tính tiền thưởng và
lãi vào giá trị TSCĐ. TSCĐ tự xây dựng phải có giá trị thấp hơn
hoặc bằng giá trị thường.

12


* Chi phí nhân công:
Quá trình kinh doanh cũng là quá trình kết hợp và tiêu hao các
yếu tố cơ bản (đối tượng lao động, tư liệu lao động, sức lao động).
Trong đó, sức lao động với tư cách là hoạt động chân tay, trí óc của
con người phục vụ thông qua tư liệu lao động, sử dụng các đối
tượng lao động nhằm tạo ra một chất lượng dịch vụ tốt nhất. Song
để đảm bảo tính liên tục, cần phải tái tạo lại sức lao động công nhân
đã bỏ ra bằng việc bồi hoàn dưới dạng thù lao (tiền công). Tiền
lương (tiền công) chính là phần thù lao lao động được biểu hiện
dưới dạng bằng tiền DN trả cho người lao động căn cứ vào thời
gian, khối lượng, chất lượng công việc của họ. Nhưng dưới góc độ
nhà sản xuất nó được gọi là chi phí nhân công. Vậy chi phí nhân

công là các khoản lương, tiền phụ cấp, các khoản trích theo lương
mà DN phải trả cho công nhân viên của mình.
Chi phí tiền lương bao gồm lương chính và lương phụ. Lương
chính là khoản tiền DN phải trả cho người lao động theo thời gian
làm việc thực tế của họ. Lương phụ là các khoản trả thêm cho người
lao động trong cả thời gian không làm việc nhưng được hưởng theo
chế độ quy định (như nghỉ phép, ngày lễ, tết...). Việc tính và trả
lương có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ đặc điểm
hoạt động kinh doanh, tính chất công việc, trình độ quản lý của từng
DN. Trên thực tế có các hình thức trả lương ;
- Hình thức trả theo thời gian : Thường áp dụng trả lương cho
các nhân viên không xác định được chính xác khối lượng công việc
13


hoàn thành. Hình thức này có thể kết hợp với chế độ tiền thưởng để
khuyến khích người lao động.
+ Lương tháng: Là tiền lương trả cho công nhân theo tháng
hoặc theo bậc lương đã sắp xếp.
+ Lương ngày: Là tiền lương trả theo mức lương tháng và số ngày
làm việc.
Đơn giá lương theo thời gian =

Luong cÊp bËc
Sè ngµy ld dÞnh møc

Lương theo thời gian từng người = Đơn giá lương x số ngày l/v
thực tế
Hình thức này đơn giản, dễ tính, ít tốn các chi phí phát sinh
khác. Song nó không khuyến khích người lao động tăng năng suất

lao động và hiệu quả công tác.
- Hình thức trả lương theo khối lượng công việc hoàn thành.
Trong hình thức này, cơ sở tính lương là số lượng, chất lượng công
việc hoàn thành. Bởi vậy, nó đòi hỏi phải xây dựng các định mức
kinh tế kỹ thuật làm cơ sở cho việc ấn định đơn giá tiền lương đối
với từng công việc một cách hợp lý.
TIỀN

=

KHỐI

X

ĐƠN GIÁ

LƯƠNG

LƯỢNG

TIỀN

PHẢI TRẢ

CÔNG

LƯƠNG

VIỆC


14


HOÀN
THIÊN
Với hình thức này, DN đã gián tiếp khuyến khích tinh thần lao
động của người công nhân bởi số tiền họ nhận tỉ lệ thuận với khối
lượng công việc họ làm. Bên cạnh việc nâng cao năng suất, người
lao động cũng cần làm việc có chất lượng sao cho những dịch vụ đó
đã được thị trường chấp nhận. Do vậy, thông qua mục đích lương
cao, người lao động đã gián tiếp tạo ra lợi nhuận cho DN, đồng thời
DN cũng nên đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên có tay nghề,
trình độ, khuyến khích họ lao động hăng say, nhiệt tình trong công
việc.
Ngoài chế độ tiền lương, DN cần xây dựng chế độ tiền thưởng
cho cá nhân, tập thể có thành tích trong sản xuất kinh doanh. Tiền
thưởng bao gồm thưởng thi đua (lấy từ quỹ khen thưởng) và thưởng
trong sản xuất kinh doanh (thưởng nâng cao chất lượng dịch vụ,
thưởng tiết kiệm vật tư, thưởng phát minh sáng kiến... ).
Bên cạnh chế độ lương, thưởng được hưởng trong quá trình sản
xuất, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ
BHXH, BHYT... trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động... các quỹ này được hình thành một phần do người lao động
đóng góp, các phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của
DN. Quỹ BHXH được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy
định trên tổng lương cấp bậc,và các khoản phụ cấp của người lao
động thực tế phát sinh. Theo chế độ hiện hành, tỉ lệ trích BHXH là
15



20% trên cơ sở quỹ tiền lương của DN; trong đó 15% là do đơn vị
sử dụng lao động nộp được tính vào chi phí kinh doanh; 5% trên
lương còn lại do người lao động đóng góp và được tính trừ vào
lương tháng của người lao động. Quỹ được chi tiêu trong các trường
hợp người làm ốm đau, thai sản, bị tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hưu trí,... Quỹ này do cơ quan BHXH quản lý.
Quỹ BHYT được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám
chữa bệnh cho người lao động trong thời gian ốm đau, sinh đẻ...
Quỹ này được hình thành từ 3% tổng số tiền lương thực tế của công
nhân, trong đó 2% tính vào chi phí kinh doanh, 1% trừ vào thu nhập
người lao động.
Quỹ KPCĐ được dùng để hỗ trợ cho công nhân duy trì các hoạt
động công đoàn trong DN nhằm giúp đỡ lẫn nhau phát triển chuyên
môn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động. DN được trích
2% trên cơ sở quỹ lương tính vào phí theo lương của bộ phận sử dụng
lao động để hình thành quỹ CPCĐ.
* Chi phí DN mua ngoài: Bao gồm toàn bộ số tiền DN đã chi
trả về các loại dịch vụ mua từ bên ngoài phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của DN như : chi phí về sửa chữa TSCĐ, chi phí về tiền điện,
tiền nước, tiền bưu phí...
* Chi phí khác bằng tiền : Bao gồm toàn bộ các chi phí khác
dùng cho hoạt động kinh doanh ngoài các chi phí kể trên. Những chi
phí này phát sinh thực tế nên khó có thể đưa ra được định mức quản

16


lý, do vậy, người chủ quản phải quản lý sao cho hợp lý để đem lại lợi
ích cao nhất cho DN (chi phí tiền thuê đất, chi phí sử dụng đất, thuế
tài nguyên, các thiệt hại được phép tính vào chi phí...).

1.2. PHÂN LOẠI CHI PHÍ KINH DOANH VÀ MỘT SỐ CHỈ
TIÊU CƠ BẢN VỀ CHI PHÍ KINH DOANH.
1.2.1. Phân loại chi phí kinh doanh.
1.2.1.1. Vai trò, tác dụng của phân loại:
Để thực hiện sản xuất sản phẩm dịch vụ, DN phải bỏ ra những
chi phí nhất định. Do đặc điểm của chi phí là phát sinh hàng ngày,
gắn liền với nhiều loại nội dung kinh tế, tính chất và công dụng
khác nhau, từng hoạt động kinh doanh khác nhau, nên công tác quản
lý cũng như hạch toán kế toán đối với từng loại chi phí đó khác
nhau. Mỗi tiêu thức phân loại sẽ giúp cho yêu cầu quản lý được thoả
mãn, mang lại hiệu quả cao nhất, đồng thời để kiểm tra, quản lý chặt
chẽ việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết
kiệm chi phí ở từng bộ phận DN, cần phải tiến hành phân loại.
Việc phân loại chi phí có tác dụng kiểm tra, phân tích quá trình
phát sinh chi phí nhằm nhận biết và phát huy mọi khả năng tiềm
tàng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhằm cung cấp
thông tin có hệ thống và chính xác cho việc lập báo cáo. Vì vậy,
hạch toán chi phí theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của các
thông tin hạch toán, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, lập kế
hoạch, đồng thời tạo cơ sở tin cậy cho việc phấn đấu tiết kiệm chi
17


phí, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuỳ theo công tác quản lý và hạch
toán, người ta phân chi phí theo các tiêu chuẩn, đặc trưng khác
nhau một cách khoa học, thống nhất.
1.2.1.2. Các tiêu thức phân loại.
a. Phân theo yếu tố:
Tức là sắp xếp các chi phí có cùng tính chất kinh tế vào một
loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí. Theo cách phân loại này, toàn

bộ chi phí của một DN có thể chia thành các yếu tố sau :
+ Chi phí nguyên vật liệu : Bao gồm toàn bộ các chi phí về các
nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay
thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà DN đã sử dụng cho các
hoạt động sản xuất trong kỳ.
Chi phí nhân công : Bao gồm toàn bộ tiền công phải trả, tiền
trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn của công
nhân và nhân viên hoạt động sản xuất trong DN.
Chi phí khấu hao TSCĐ : Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu
hao TSCĐ sử dụng cho sản xuất của DN.
Chi phí khác bằng tiền : Bao gồm những chi phí bằng tiền mặt
mà theo tính chất kinh tế thì không thể sắp xếp vào các yếu tố kể
trên : tiền công tác phí, văn phòng phí, tiền thuê TSCĐ bên
ngoài..v..v..

18


Đặc điểm của việc phân loại này là dựa vào hình thái nguyên
thủy của chi phí bỏ vào sản xuất, không phân biệt trong sản xuất,
chi phí đó được dùng vào đâu và dùng ở nơi nào. Vì vậy, những yếu
tố chi phí về đối tượng lao động ở đây chỉ bao gồm bộ phận DN
phải mua từ bên ngoài. Nếu do DN tự sản xuất một phần thì những
chi phí phát sinh trong quá trình tự sản xuất đó đã được phản ánh ở
các yếu tố chi phí có liên quan. Việc phân loại chi phí sản xuất
thành các yếu tố chi phí cho DN thấy rõ mức chi phí về lao động vật
hoá và tiền lương trong toàn bộ chi phí sản xuất của DN phát sinh
trong năm. Điều đó có tác dụng xác định trọng điểm quản lý của chi
phí sản xuất và kiểm tra lại sự cân đối giữa các kế hoạch khác nhau:
kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch

khấu hao TSCĐ, kế hoạch giá thành, kế hoạch vốn lưu động của
mỗi DN. Ngoài ra, còn giúp cho cơ quan thống kê của nhà nước
trong việc xác định số thu nhập quốc dân trong từng thời kỳ.
b. Phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố đình (hay chi phí
bất biến0 và chi phí biến đổi (chi phí khả biến).
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng
sản xuất có thể chia chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí
biến đổi.
Chi phí cố định hay chi phí bất biến là những chi phí không bị
biến động trực tiếp theo sự thay đổi của kinh doanh sản xuất sản
phẩm. Thuộc loại này chi phí này gồm có chi phí khấu hao TSCĐ,

19


chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bi, tiền thuế đất, thuê nhà (nếu có)
chi phí về quản lý DN..v..v..
Chi phí biến đổi hay còn gọi là chi phí khả biến là những chi
phí bị biến động một cách trực tiếp theo sự thay đổi của kinh doanh
sản xuất sản phẩm. Thuộc về chi phí này gồm có nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu và năng lượng dùng vào sản xuất, tiền
lương chính của công nhân sản xuất..v..v..
Như vậy, có thể thấy rằng khi khối lượng sản xuất sản phẩm
thay đổi sẽ làm cho tổng chi phí sản xuất thay đổi như tác động của
sự thay đổi khối lượng sản xuất đến các bộ phận chi phí sản xuất là
không giống nhau. Có thể biểu diễn mối quan hệ khối lượng sản
xuất với tổng chi phí sản xuất và các bô phận chi phí cố định và chi
phí biến đổi bằng đồ thị sau:
F


Chi phí biến đổi

Chi phí cố định
O

Q

Việc phân loại chi phí theo phương pháp này có ý nghĩa rất lớn
đối với công tác quản lý của một DN. Trước hết, qua việc xem xét

20


mối quan hệ giữa khối lượng sản xuất sản phẩm với chi phí bỏ ra
giúp cho các nhà quản lý tìm ra các biện pháp quản lý thích ứng với
từng loại chi phí để hạ thấp giá thành sản phẩm và điều quan trọng
hơn là thông qua việc phân tích nghiên cứu cho phép DN xác định
được khối lượng sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
1.2.2. Một số chỉ tiêu cơ bản về chi phí kinh doanh.
Trong công tác quản lý DN, chi phí kinh doanh là một trong
những chỉ tiêu quan trọng luôn được các nhà lãnh đạo quan tâm bởi
nó ảnh hưởng thiết thực đến lợi nhuận cuối cùng của DN. Để quản
lý có hiệu quả, các cán bộ quản lý phải tiến hành phân tích, thống kê
kỳ này và lập kế hoạch chi tiết về tình hình thực hiện chi phí kỳ sau.
Muốn vậy, DN phải lựa chọn và sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu
về chi phí kinh doanh.
- Mức hạ chi phí kinh doanh hàng năm : Nó được tính bằng
hiệu số giữa tổng chi phí kỳ trước và chi phí kỳ này. Nó thể hiện về
số lượng của kết quả hạ thấp giá thành. Công thức : ∆F = F1 - F0.
trong đó :∆F : Mức hạ chi phí kinh doanh.

F1 : Chi phí kinh doanh kỳ này.
F0 : Chi phí kinh doanh kỳ trước.
- Tốc độ giảm chi phí hàng năm (∆F') : Là tỷ lệ % giữa mức
giảm chi phí hàng năm so với chi phí kỳ gốc. Nó nói lên tốc độ,

21


hiệu năng của việc thực hiện giảm phí. Nó được tóm gọn bằng công
thức:
F1

∆F' = F
0
trong đó:∆F' : Tốc độ giảm phí hàng năm, hàng quý.
F1 : Chi phí kỳ trước.
F0 : Chi phí kỳ này.
- Tỷ trọng các yếu tố chi phí cấu thành nên tổng chi phí.
Tỉ trọng chi phí từng loại =

Chi phÝ tõng lo¹ i
x100
Tæng chi phÝ

Tỉ trọng từng loại chi phí trong tổng chi phí là chỉ tiêu đánh giá
mức độ tham gia của từng loại phí. Việc so sánh các tỉ trọng giữa
các bộ phận chi phí và giữa các kỳ của từng loại phí sẽ cho biết tình
hình chi phí, như vậy có phù hợp với đặc điểm hoạt động thực tế
của DN không? Việc chuyển dịch cơ cấu phí diễn ra như thế nào?
do đâu? có ảnh hưởng gì?. Từ đó đề ra các biện pháp thích hợp.

- Mức hạ thấp chi phí trên một đơn vị sản phẩm:
P

P

1
0
Công thức: ∆P' = M − M
1
0

trong đó:

∆P' : Mức hạ thấp chi phí một đơn vị sản

phẩm.

22


P0 : Tổng chi phí kỳ trước.
P1 : Tổng chi phí kỳ này.
M1 : Tổng sản phẩm kỳ này.
M0 : Tổng sản phẩm kỳ trước.
- Hệ số sinh lãi của chi phí và tỉ trọng chi phí trên doanh thu :
Đây là hai chỉ tiêu của cùng một nội dung song đi từ hai hướng khác
nhau. Hệ số sinh lãi của chi phí cho biết một đồng chi phí bỏ ra sẽ
sinh lời được bao nhiều sau một kỳ kinh doanh nhất định. Tỷ trọng
chi phí trên doanh thu hay tỉ trọng chi phí đơn vị trên giá bán đơn
vị, là cách tiếp cận khác, cho biết một đồng kiếm được đã có bao

nhiêu đồng phí bỏ ra.
HÖ sè sinh l· i cña chi phÝ =

1
Doanh thu
=
Tû träng chi phÝ tr ª n doanh thu
Chi phÝ

Thông qua các chỉ tiêu trên ta có thể thấy hiệu quả hoạt động,
trình độ sử dụng nguồn nhân tài, vật lực của từng bộ phận, cả DN.
Các chỉ tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể sử dụng
để xét tổng thể hay cho từng bộ phận sản xuất kinh doanh. Song để
đưa ra nhận định chính xác cần kết hợp với đặc điểm tình hình hoạt
động thực tế của DN.
1.3. CÁC BIỆN PHÁP TIẾT KIỆM CHI PHÍ TRONG DN
THƯƠNG MẠI.
1.3.1. Sự cần thiết phải tiết kiệm chi phí kinh doanh.
23


Sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của Đảng và nhà
nước đã đánh dấu 1 bước ngoặt quan trọng 1 sự thay đổi lớn trong
nền kinh tế của nhà nước ta góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của nhà nước.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường. ở đó sản xuất cái gì sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào
đều được quyết định thông qua thị trường. Trong nền kinh tế này,
các quan hệ kinh tế của các cá nhân các DN đều thể hiện qua việc

mua bán hàng hoá. Dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư sử của từng
thành viên tham gia thị trường là hướng vào tìm kiếm lợi ích của
chính mình do sự dẫn dắt của giá thị trường.
Nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho DN hoạt động, kinh
doanh tổng hợp trên nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau trên cơ sở
đăng ký ngành nghề, mặt hàng kinh doanh. DN được phép "tự do"
chuyển hướng kinh doanh trên cơ sở tính toán hiệu quả đối với từng
loại hoạt động, từng loại sản phẩm, lao cụ, dịch vụ mà có quyết định
nhanh nhạy trong việc chuyển hướng, mở rộng hay thu hẹp quy mô
hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể nói là trong điều kiện kinh tế
thị trường, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế là rất cao. Các chủ thể
kinh tế tự bù đắp những chi phí và chịu trách nhiệm đối với kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Mặt khác, nói đến nền kinh tế thị trường, chúng ta không thể
nói đến cạnh tranh. Cạnh tranh được coi là "linh hồn" của kinh tế thị
24


trường. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các chủ thể
kinh tế diễn ra rất gay gắt. Để tồn tại và phát triển thì hoạt động sản
xuất kinh doanh của DN phải mang lại hiệu quả kinh tế xã hội,
nghĩa là phải lấy thu nhập bù đắp chi phí và cớ lợi nhuận, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trước đây, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN đều tuân
theo một hệ thống các chi tiêu kế hoạch từ trên giao xuống, vốn
được Nhà nước cấp, kế hoạch mua bán đều có sẵn, DN chỉ việc tuân
theo, lãi được hưởng, lỗ Nhà nước bù. Khi chuyển sang nền kinh tế
thị trường, các DN phải cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển,
phải thực hiện hạch toán độc lập, tự bù đắp chi phí và đảm bảo có
lãi, phải luôn tìm biện pháp cải tiến đổi mới cả về chất lượng sản

phẩm và số lượng sản phẩm, phấn đấu hạ thấp giá thành sản phẩm
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đây là một
vấn đề bao trùm xuyên suốt hoạt động sản xuất kinh doanh của từng
DN, nó thể hiện chất lượng của toàn bộ công tác quản lý kinh tế bởi
vì suy cho cùng công tác quản lý kinh tế nói chung và quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh nói riêng đều nhằm mục đích tạo ra hiệu
quả cao nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc cơ
bản của hạch toán kinh doanh là lấy thu bù chi tự trang trải và có lãi.
Muốn có lãi cao nhất thì không có cách nào khác là phải tối thiểu
hoá lực lượng CFKD phải chi ra. Tiết kiệm chi phí kinh doanh là để
hạ thấp giá bán của sản phẩm, làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá
trên thị trường, góp phần vào việc tăng lợi nhuận của DN.

25


×