Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bài dự thi cuộc thi Khoa học Kĩ thuật dành cho học sinh THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (856.45 KB, 13 trang )

CUỘC THI KHOA HỌC KĨ THUẬT DÀNH CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NĂM HỌC 2015 - 2016

ĐỀ TÀI
NHẬN THỨC VỀ THÓI ÍCH KỈ CỦA HỌC SINH THCS
Lĩnh vực: 02 - Khoa học xã hội và hành vi


Phần 1. Giới thiệu về tổng quan vấn đề nghiên cứu.
1.1 Giới thiệu đề tài nghiên cứu:
1.1.1 - Lí do chọn đề tài:
Để một tập thể lớp, một ngôi trường ngày càng phát triển, tiến bộ thì đòi hỏi cần
mỗi học sinh phải có tính đoàn kết, chia sẻ giúp đỡ với bạn bè, tập thể lớp. Tuy nhiên,
thực trạng hiện nay cũng cho thấy số lượng lớn học sinh không biết đoàn kết, giúp đỡ bạn
bè, chỉ biết nghĩ cho mình, đó chính là thói ích kỉ. Nếu 1 tập thể mà có những học sinh
mắc thói ich kỉ thì tập thể đó sẽ chậm tiến bộ. Vấn đề này cần được khắc phục. Tuy
nhiên, ta cần phải biết nguyên nhân chính của thói ích kỉ là do đâu?
1.1.2. Ý nghĩ khoa học và thực tiễn của đề tài:
- Đánh giá khách quan về thói ích kỉ và khả năng nhận thức của học sinh THCS.
- Nghiên cứu về các cách tác động vào khả năng nhận thức của học sinh.
- Đưa ra các cách giải quyết phù hợp nhằm thay đổi nhận thức của học sinh.
1.1.3 - Giới hạn nghiên cứu:
- Bắt đầu từ 9/2015 - 10/2015
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: 115 học sinh khối 9 trường THCS Cẩm Sơn.
1.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu:
Ích kỉ
- ích kỉ là chỉ biết vì lợi ích riêng của mình, không uqna tâm giúp đỡ mọi người xung
quanh, không biết vì tập thể.
Nhận thức
- Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh
biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích cực, năng


động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn.
- Theo "Từ điển Bách khoa Việt Nam", nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản
ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không
ngừng tiến đến gần khách thể.
* Các giai đoạn của nhận thức:
Theo quan điểm của phép tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Con
đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp
đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến bản chất bên trong, như
sau:
1. Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu tiên
của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác
động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy. Nhận thức cảm tính gồm các hình thức
sau:
o Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng
lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác
quan của con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết
quả của sự chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngoài thành
yếu tố ý thức. Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan". Nếu dừng lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc
tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật. Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết


o

bản chất của sự vật phải nắm được một cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì
vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn"
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối toàn vẹn sự vật
khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác
là sự tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận

thức đầy đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc
tính đặc trưng và không đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi
đó, nhận thức đòi hỏi phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu
là thuộc tính không đặc trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó
không còn trực tiếp tác động lên cơ quan cảm giác con người. Do vậy
nhận thức phải vươn lên hình thức nhận thức cao hơn

Giai đoạn này có các đặc điểm:
Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức
Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản
chất và không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật
o Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ
bản chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn
lên giai đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
2. Nhận thức lý tính (hay còn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh gián
tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái niệm,
phán đoán, suy luận.
o Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự
khái quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp
sự vật. Vì vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ
quan, vừa có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên
vận động và phát triển. Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận
thức bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học.
o Phán đoán: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối
tượng. Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia
làm ba loại là phán đoán đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đoán đặc
thù (ví dụ: đồng là kim loại) và phán đoán phổ biến (ví dụ: mọi kim loại
đều dẫn điện). Ở đây phán đoán phổ biến là hình thức thể hiện sự phản ánh

bao quát rộng lớn nhất về đối tượng
Nếu chỉ dừng lại ở phán đoán thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ
giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong
phán đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối
quan hệ giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua
các phán đoán thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngoài đặc tính dẫn điện
giống nhau thì giữa đồng với các kim loại khác còn có các thuộc tính
giống nhau nào khác nữa. Để khắc phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải
vươn lên hình thức nhận thức suy luận
o
o


o

Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với
nhau để rút ra một phán đoán có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí
dụ, nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim
loại" ta rút ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự
kết hợp phán đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với
phổ biến mà người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức
mới một cách nhanh chóng và đúng đắn

Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
o Là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng
o Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng
Nhận thức cảm tính và lý tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Không
có nhận thức lý tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật.

* Phân loại nhận thức:

Theo chủ nghĩa duy vật của Mác và Lênin
Dựa vào trình độ thâm nhập vào bản chất của đối tượng




Nhận thức kinh nghiệm hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Tri thức kinh
nghiệm là kết quả của nó, được phân làm hai loại:
1. Tri thức kinh nghiệm thông thường là loại tri thức được hình thành từ sự
quan sát trực tiếp hàng ngày về cuộc sống và sản xuất. Tri thức này rất
phong phú, nhờ có tri thức này con người có vốn kinh nghiệm sống dùng
để điều chỉnh hoạt động hàng ngày.
2. Tri thức kinh nghiệm khoa học là loại tri thức thu được từ sự khảo sát các
thí nghiệm khoa học, loại tri thức này quan trọng ở chỗ đây là cơ sở để
hình thành nhận thức khoa học và lý luận.
Hai loại tri thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, xâm nhập vào nhau để tạo nên
tính phong phú, sinh động của nhận thức kinh nghiệm.
Nhận thức lý luận (gọi tắt là lý luận) là loại nhận thức gián tiếp, trừu tượng và
khái quát về bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý luận có
tính gián tiếp vì nó được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhận thức kinh
nghiệm. Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung
phản ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri thức
lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống hơn

Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, có
quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý
luận. Nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể. Vì nó gắn chặt



với thực tiễn nên tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra, sửa chữa, bổ sung cho lý luận và
cung cấp tư liệu để tổng kết thành lý luận. Ngược lại, mặc dù được hình thành từ tổng kết
kinh nghiệm, nhận thức lý luận không xuất hiện một cách tự phát từ kinh nghiệm. Do tính
độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những sự kiện kinh nghiệm, hướng dẫn
sự hình thành tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn kinh nghiệm hợp lý để phục vụ
cho hoạt động thực tiễn. Thông qua đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái
cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất trở thành cái khái quát, phổ biến
Theo học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững bản chất, chức năng của từng loại
nhận thức đó cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chúng có ý nghĩa phương pháp luận
quan trọng trọng việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều
Dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập vào bản chất của sự vật






Nhận thức thông thường (hay nhận thức tiền khoa học) là loại nhận thức được
hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con
người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết,
cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường
mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế hàng
ngày. Vì thế, nó thường xuyên chi phối hoạt động của con người trong xã hội. Thế
nhưng, nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở bề ngoài, ngẫu nhiên
tự nó không thể chuyển thành nhận thức khoa học được
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của các sự vật.
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính

hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một cách hệ thống các
phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa
học để diễn tả
sâu sắc bản chất và quy luật của đối tượng nghiên cứu. Vì thế nhận thức khoa học
có vai trò ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa
học và công nghệ

Hai loại nhận thức này cũng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhận thức thông
thường có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các
khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học thì nó lại tác động trở lại
nhận thức thông thường, xâm nhập và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng
cường nội dung khoa học cho quá trình nhận thức thế giới của con người.
Phần 2. Giả thiết khoa học và mục đích nghiên cứu:
2.1 - Giả thiết khoa học:
- Hầu hết những học sinh có thói ích kỉ do các nguyên nhân cơ bản như là do gia đình, xã
hội, môi trường, bản thân,… Tuy nhiên, nếu bản thân có khả năng nhận thức đúng đắn,
có trình độ hiểu biết tốt thì nguyên nhân lớn nhất chính là bản thân.


2.2 - Mục đích nghiên cứu:
- Tìm ra nguyên nhân khiến học sinh ích kỉ có phải do khả năng nhận thức của bản thân
không?
- Đề ra phương hướng giải quyết thay đổi khả năng nhận thức của học sinh.
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu:
3.1 - Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là 155 học sinh khối 9 trường THCS Cẩm Sơn.
3.2 - Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra, Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, Phương pháp thực
nghiệm.
3.3 - Nghiên cứu hiện trạng ích kỉ.

Qua phiếu test trắc nghiệm kiểm tra khách quan về thói ích kỉ tại 3 nhóm học sinh
khác nhau. Mỗi câu hỏi sẽ có 2 câu trả lời. Ứng với mỗi câu trả lời sẽ có 1 đáp án tương
ứng với thói ích kỉ và đáp án còn lại không tương ứng với thói ích kỉ. Với mỗi câu tra lời
cho thói ích kỉ sẽ cộng 2 điểm, câu tra lời không cho thói ích kỉ sẽ cộng 1 điểm.
Xét trên tháng điểm đo từ 1 - 14, chia làm 3 nấc khác nhau.
- Nấc 1: Từ 1-7 điểm: Bạn là người không có thói ích kỉ.
- Nấc 2: Từ 8-12 điểm: Bạn có tính ích kỉ nhưng không quá mức.
- Nấc 3: Từ 13-14 điểm: Bạn là người ích kỉ.
3.4 - Nghiên cứu tác động:
Sử dụng các phương pháp tác động khác nhau và 3 nhóm đối tượng nghiên cứu
khác nhau:
- Nhóm 1: Tác động trực tiếp:
- Qua thính giác: Nghe thuyết trình 1 bài luận ngắn về thói ích kỉ (biểu hiện,
nguyên nhân, kết quả)
- Qua thị giác: Xem một đoạn phim ngắn về tác hại của thói ích kỉ.
- Nhóm 2: Tác động gián tiếp:


- Giả thiết một tình huống bí mật diễn ra ngay tại nhóm 2.
- Nhóm 3: Không tác động:
3.5 - Nghiên cứu kết quả sau tác động:
Tiếp tục kiểm tra test trắc nghiệm khách quan đợt 2 tại 3 nhóm. Vẫn theo hình
thức test cộng điểm. Mỗi câu hỏi sẽ có 2 câu trả lời. Ứng với mỗi câu trả lời sẽ có 1 đáp
án tương ứng với thói ích kỉ và đáp án còn lại không tương ứng với thói ích kỉ. Với mỗi
câu tra lời cho thói ích kỉ sẽ cộng 2 điểm, câu tra lời không cho thói ích kỉ sẽ cộng 1
điểm.
Xét trên tháng điểm đo từ 1 - 14, chia làm 3 nấc khác nhau.
- Nấc 1: Từ 1-7 điểm: Bạn là người không có thói ích kỉ.
- Nấc 2: Từ 8-12 điểm: Bạn có tính ích kỉ nhưng không quá mức.
- Nấc 3: Từ 13-14 điểm: Bạn là người ích kỉ.

3.6 - Phương pháp xử lí sô liệu:
Sau khi có kết quả số liệu của test 2, kiểm tra độ chênh lệch giữa kết quả của 2 bài
test, thể hiện quả biểu đồ.
-> Sự thay đổi về nhận thức của mỗi cá nhân.
Phần 4. Kết quả nghiên cứu và giải thích:
4.1 - Kết quả bài test 1:
Từ 1-7 điểm
Từ 8-12 điểm
Từ 13-14 điểm

Nhóm 1
11.3%
52.8%
35.9%

Nhóm 2
14.2%
60.3%
25.5%

Nhóm 3
20.1%
39.4%
40.5%

Hầu hết, %học sinh không có thói ích kỉ chỉ chiếm khoảng từ 10-20%. Tuy nhiên,
số lượng học sinh mắc thói ích kỉ lại chiếm khoảng 80-90% (Tùy theo cấp độ khác nhau).
4.2 - Kết quả bài test 2:

Từ 1-7 điểm

Từ 8-12 điểm

Nhóm 1
30.2%
63.1%

Nhóm 2
25.3%
62.4%

Nhóm 3
23.2%
42.1%


Từ 13-14 điểm

6.7%

12.3%

34.7%


Qua 3 biểu đồ trên, có thể thấy được rằng, sự tác động khác nhau sẽ dẫn đến những kết
quả khác nhau.
4.3 - Phân tích, giải thích:
4.3.1 - Phân tích:
- Trong cả ba nhóm, nhóm 1 là nhóm có thay đổi chênh lệch lớn nhất.
Với nhóm học sinh không ích kỉ: tăng từ 11.3% đến 30.2% (Tăng 18.9%)

Với nhóm học sinh ích kỉ (ở nhiều mức độ): giảm từ 88.7% xuống 69.8% .
Nhóm 3 là nhóm có sự chênh lệch thấp nhất.
Với nhóm học sinh không ích kỉ: tăng từ
Với nhóm học sinh ích kỉ (ở nhiều mức độ):
4.3.2 - Giải thích:
Ở nhóm 1:
o Ta tác động trực tiếp vào nhận thức của mỗi học sinh tức là ta nêu rõ
những khái niệm cơ bản về ích kỉ. Quá trình này được gọi quá trình nhận
thức lý tính (là quá trình phản ánh cái trừu trượng thành những khái niệm
định nghĩa cơ bản. . Khái niệm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức
bởi vì, nó là cơ sở để hình thành các phán đoán và tư duy khoa học. Nếu
như học sinh đã có được những khái niệm cơ bản thì khả năng tư duy,
phân tích tình huống sẽ cho kết quả tốt.
o Theo chủ nghĩa duy vật của Mác - Lenin, thứ nhất dựa vào trình độ thâm
nhập vào bản chất đối tượng thì ta tác động trực tiếp là nhận thức lí luận.
Nhận thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát vì nó chỉ tập trung phản
ánh cái bản chất mang tính quy luật của sự vật và hiện tượng. Do đó, tri
thức lý luận thể hiện chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn và có hệ thống
hơn. Học sinh sẽ có cái nhìn rõ ràng, chính xác và cụ thể về thói ích kỉ.
o Thứ 2 dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập và bản chất sự vật
thì đây là loại nhận thức theo khoa học: hình thành cách tự giác và gián
tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất. Nhận thức khoa học vừa có tính
khách quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có
tính chân thực.Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng,
khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.


=> Với mỗi họ sinh được tiếp cận với sự với sự việc, được giảng giải một cách trực tiếp,
đúng đắn thì khả năng nhận thức của họ sẽ khác. Khi họ nhận thức được và có trình độ
kiến thức, họ sẽ có suy luận lập luận logic cho từng sự việc hành động đa diễn ra, từ đó

có cách giải quyết cho mỗi vấn đề.
- Đặc điểm của nhóm 1:
` Hiểu sâu được bản chất của vấn đề.
` Có nền tảng cơ bản vững chắc.
Ở nhóm 2:
- Qua những tình huống ứng xử hành ngày được diễn ra với tần suất lớn, nó sẽ
trở thành những trải nghiệm đối với mỗi cá nhân học sinh. Từ đó, mỗi học
sinh sẽ nhận ra nhiều bài học, kinh nghiệm trong những tình huống đó. Đây là
quá trình nhận thức cảm tính.Vì bản thân mỗi học sinh khhi được tiếp xúc với
các tình hướng được giả định chỉ phản ánh 1 phần của toàn bộ sự việc, do đó
chưa có cái nhìn cụ thể chính xác. Tuy nhiên, những phản ánh 1 phần đó,
nhiều lại sẽ trở thành 1 kinh nghiệm và kinh nghiệm đó chưa toàn diện, đầy
đủ.
- Theo chủ nghĩa duy vật của Mác - Lenin, thứ nhất dựa vào trình độ thâm
nhập vào bản chất đối tượng qua những tình huống sống thực tế là Nhận thức
kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm hình thành từ sự quan sát trực tiếp các
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học.
Thường xuyên tác động sẽ tạo dựng cho học kinh nghiệm, từ đó tạo ra cách
ứng xử đúng đắn trong các tình huống.
- Thứ 2 dựa vào tính tự phát hay tự giác của sự xâm nhập và bản chất sự vật
thì đây là loại nhận thức thông thường: do tính tự phát, trực tiếp trong hoạt
dộng đời sống hàng ngày của con người. Hàng ngày tiếp xúc với những tình
huống ích kỉ ngay tại lớp học, được nhìn thấy những cách cư xử khác nhau, có
cái đúng có cái sai. Bản thân mỗi học sinh sẽ tự nhận thức được như thế nào
sẽ tốt, từ đó đúc kết thành kinh nghiệm cho bản thân.
=> Dù mỗi học sinh không có được nền tảng về thói ích kỉ, không được giảng giải cặn kẽ
tuy nhiên trong môi trường học tập, phát triển có nhiều những tình huống xảy ra xung
quanh tính ích kỉ và cách cư xử giải quyết vấn đề ích kỉ thì mỗi học sinh sẽ tự nhận ra
nhiều kinh nghiệm cho bản thân ngay từ đó. Nhưng, tùy thuộc vào khả năng nhận thức
của mỗi cá nhân, cũng với những tình huống như vậy nhưng có người hiểu và có người

vẫn sẽ không hiểu nên cách nhận thức này không đem lại hiệu quả tốt.
- Đặc điểm nhóm 2:
- Yêu cầu mỗi cá nhân phải có trình độ tuy dư, nền tảng vững chắc.


- Chỉ hiểu được bản chất bên ngoài của sự việc.
Nhóm 3:
Mặc dù ta không hề tác động bát cứ 1 phương pháp nào vào nhóm 3 nhưng ta vẫn thấy có
sự thay đỏi ở nhóm 3. Vì ngay trong quá trình học tạp sinh sống hàng ngày của học sinh,
họ vẫn được va chạm với mọi người, nhìn thấy các sự vật (Nhận thức cảm tính) và được
tìm hiểu, được giảng dạy tại trường lớp (Nhận thức lí tính) nên họ đã có sự thay đỏi khác.
Tuy nhiên, họ không được rèn luyện, tiếp xúc theo 1 bài bản và chư hiểu vấn đề rõ ràng
nên quá trình nhận thức diễn ra chậm hơn.
Phần V: Kết luận và khuyến nghị
* Kết luận:
Nhận thức chính là nguyên nhân dẫn đến thói ích kỉ. Chính vì do học sinh chưa có
khả năng nhận thức đúng đắn trên các phương diện khác nhau về thói ích kỉ nên hiện
tượng ích kỉ diễn ra ngày càng nhiều. Vậy nên muốn thay đổi tính ích kỉ ở mỗi học sinh
ta cần phải thay đối ngay từ nhận thức của các em.
* Khuyến nghị:
- Đối với nhà trường: Thường xuyên có những buồi tập huấn, ngoại khóa về kí năng
sống: đặc biệt là về thói ích kỉ cho các lớp học sinh trong trường. Một buổi tập huấn sẽ
làm cho 1 lớp để đảm bảo tất cả học sinh có thể tiếp thu được hết mọi kĩ năng.
- Đối với bản thân: Tìm hiểu thêm các kiến thức bổ ích, tích lũy cho bản thân đồng
thời cũng để tuyên truyền cùng với mọi người, giúp bạn bè xung quanh hiểu rõ vấn đề ích
kỉ.
Khi có 1 ai đó ích kỉ với bạn, bạn hãy ích kỉ ngay lại với họ, để học hiểu khi mọi
người ích kỉ với mình, tức là bản thân mình không nhận được sự giúp đỡ của mọi người
sẽ cảm thấy công việc khó khăn như thế nào. Đó cũng là cách thay đổi nhận thức của họ.
Quan trọng nhất là bạn phải có ý thức tự giác, tự tìm tòi, tự tìm hiểu, tự dạy ngay cho

chính bản thân mình những cách ứng xử thật thông minh đối với những người ích kỉ.


Phiếu test:
Câu 1: Giả sử: Bạn có 1 đứa em. EM bạn hỏi bạn rằng: " Bố, mẹ và em anh/chị yêu ai
nhất?" Câu trả lời của bạn sẽ là:
a, Yêu bố/ mẹ/ em nhất.
b, Yêu tất cả gia đình mình.
Câu 2: Bạn đang đi ngoài đường, có vụ đâm xe của một bạn học sinh cùng trường va vào
chiếc xe máy. Bạn sẽ làm gì nếu thấy tình huống đó?
a, Chỉ đứng đó xem.
b, Ra giúp bạn.
Câu 3: Trong giờ kiểm tra đột xuất 15p, bạn thừa tờ giấy kiểm tra, bạn A em xin vì không
có giấy. Nhưng lần trước, khi em mượn đồ của bạn A thì bạn lại không cho mượn và tỏ
thái độ vớ bạn. Lần này em sẽ làm gì?
a, Vẫn cho bạn mượn giấy.
b. Nhất quyết không cho mượn.
Câu 4: Trong lần làm báo tường cho lớp, nếu được tự chọn công việc, em sẽ chọn phương
án nào:
a, Chọn cái nào dễ nhất.
b, Chọn làm nhóm cùng các bạn cho công việc phù hợp.
Câu 5: Bạn học trong nhóm học thêm của lớp. Trong một bài tập của nhóm, kết quả của
bạn khác với kết quả các bạn trong nhóm. Bạn sẽ giải quyết như thê nào?
a, Kiên quyết bảo vệ ý kiến của mình là đúng.
b, Xem xét ý kiến của cả bạn và mình.
Câu 6: Bạn chơi cùng nhóm bạn trong lớp. Vì một xích mích mà bạn B bị mọi người
trong nhóm bỏ mặc. Cả bạn B và mọi người trong nhóm đều bực tức và không có ý định
làm hòa với nhau. Là người ở giữa, bạn sẽ hành động như thế nào?
a, Mặc kê, chẳng ảnh hưởng gì đến bản thân mình.
b, Giúp mọi người hiểu vấn đề, giảng hòa với nhau.



Câu 7: Lớp bạn có 1 thành viên làm bất cứ việc gì cùng chỉ biết đến lợi ích bản thân.
không nghĩ cho tập thể. Tất cả các thành viên khác trong lớp đều khó chịu và không ai
muốn hợp tác cùng. Bạn thì sao?
a, Cùng như các bạn khác.
b, Thử nói cho bạn kia hiểu mọi người suy nghĩ gì về bạn và khuyên bạn ấy cách cư xử
đúng đắn.
Câu 1

Câu 2

Câu 3

Câu 4

Câu 5

Câu 6

Câu
7

a

b

a

b


a

b

a

b

a

b

a

b a

b

1

2

1

2

2

1


1

2

1

2

1

2 1

2



×