Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.74 KB, 86 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN HONG DUY

NGHĩA Vụ CủA NGƯờI QUảN Lý CÔNG TY
THEO PHáP LUậT VIệT NAM

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN HONG DUY

NGHĩA Vụ CủA NGƯờI QUảN Lý CÔNG TY
THEO PHáP LUậT VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut Kinh t
Mó s: 60 38 01 07

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS. NGễ HUY CNG

H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi,
cũng như độ tin cậy và trung thực. Luận văn này không nhất thiết
phản ánh quản điểm của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Hoàng Duy


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Ngô Huy Cương, các
thầy cô giảng viên và cán bộ tại Bộ môn Luật Kinh doanh, Phòng
quản lý Đào tạo và Nghiên cứu Khoa học, Phòng Hành chính tổng
hợp, bộ phận thư viện cũng như các phòng ban khác trong Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hướng
dẫn và hỗ trợ để tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hoàng Duy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI
QUẢN LÝ CÔNG TY ....................................................................... 5
1.1.

Quan niệm về nghĩa vụ ..................................................................... 5

1.2.

Mô hình quản trị công ty và ngƣời quản lý công ty ....................... 8

1.2.1.

Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty ..................... 8

1.2.2.

Mô hình quản trị công ty ................................................................... 10

1.2.3.

Khái niệm người quản lý công ty ...................................................... 13

1.2.4.

Khái niệm nghĩa vụ của người quản lý công ty ................................ 20

1.3.

Kinh nghiệm pháp lý của một số nƣớc về nghĩa vụ của ngƣời

quản lý công ty và gợi mở cho Việt Nam ...................................... 26

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ ........................................................... 47
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của
ngƣời quản lý công ty ....................................................................... 47

2.2.

Một số đánh giá về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty theo
pháp luật Việt Nam ......................................................................... 60

2.2.1.

Một số đánh giá về quy định pháp luật ............................................. 60

2.2.2.

Vấn đề tồn tại trong ý thức pháp luật ................................................ 62


Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NGHĨA
VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM........................................................................... 67
3.1.

Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về

nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty ............................................... 67

3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ
của ngƣời quản lý công ty ............................................................... 72

KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật Dân sự

CTCP:

Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ:

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT:

Hội đồng quản trị

HĐTV:


Hội đồng thành viên

LDN:

Luật Doanh nghiệp

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định cơ bản của pháp
luật về công ty hướng tới việc bảo đảm quản trị tốt công ty. Mặc dù nghĩa vụ
của người quản lý công ty có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn quản trị
công ty và trong pháp luật điều tiết các hoạt động của công ty. Song ở nước ta
cho đến nay, chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về
chế định này. Các vấn đề lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của người quản lý
công ty mới chỉ được giới thiệu sơ lược trong các giáo trình giảng dạy tại các
cơ sở đào tạo luật, cũng như trong một số ít ỏi các công trình nghiên cứu về
công ty hay doanh nghiệp. Do đó các qui định pháp luật về nghĩa vụ của
người quản lý công ty trong các đạo luật về doanh nghiệp được ban hành
trong nhiều năm qua kể từ khi “đổi mới” chưa hoàn toàn có tác dụng trong
thực tiễn kinh doanh và thiếu ý nghĩa pháp lý.
Xét từ thực tiễn, việc áp dụng các qui định về nghĩa vụ của người quản
lý công ty ở nước ta trong thời gian vừa qua rất hiếm khi và còn nhiều hạn
chế. Do đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, sự thúc bách của việc xây dựng một
môi trường kinh doanh lành mạnh hướng tới hội nhập và cạnh tranh quốc tế,
trên cơ sở tiếp thu phần nào đấy của kinh nghiệm nước ngoài, Luật Doanh

nghiệp năm 2014 đã có bước cải cách nhất định so với Luật Doanh nghiệp
năm 2005 liên quan tới nghĩa vụ của người quản lý công ty. Chế định này đã
được quan tâm hơn, dành nhiều dung lượng trong khuôn khổ một đạo luật
chung về doanh nghiệp. Tuy nhiên, còn có thể thấy ở đó nhiều khiếm khuyết
và khó có thể đi vào đời sống có lẽ bởi thiếu một nền tảng nghiên cứu chuyên
sâu. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, hiện tượng làm ăn chụp giật và vấn đề
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý công ty không thể không
nói là đang diễn ra khá phức tạp và gây ảnh hưởng rất xấu tới môi trường kinh
1


doanh. Vì vậy việc hoàn thiện các qui định pháp luật về nghĩa vụ của người
quản lý công ty hiện nay là một nhu cầu cấp thiết.
Bởi những lý do kể trên, tôi lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ của ngƣời quản
lý công ty theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định truyền
thống của luật công ty và được sử dụng rất nhiều trong thực tiễn tranh chấp
nội bộ công ty, nên thường được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu
về công ty nói chung và quản trị công ty nói riêng, cũng như trong quản trị
từng loại hình công ty cụ thể. Vì vậy có thể nói nghĩa vụ của người quản lý
công ty là đề tài nghiên cứu khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị
trường. Có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu như như: “Business Law”
của các tác giả Keith Abbott, Norman Pendlebury và Kevin Wardman xuất
bản tại USA; “The Legal Environment of Business” của các tác giả Jethro K.
Lieberman & George J. Sieded xuất bản tại Harcourt Brace Jovanovich
Publisher, San Diego. New York. Chicago. Austin. Washington D.C. London.
Sydney. Tokyo. Toronto năm 1989; “Laws of Corporations and Other
Business Enterprises” của các tác giả Harry G. Henn & John R. Alexander

xuất bản tại St. Paul, Minn. West Publishing Co. năm 1983…
Ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về nghĩa vụ của
người quản lý công ty, điển hình là:
“Giáo trình luật thương mại – Phần chung và thương nhân” của PGS.
TS Ngô Huy Cương xuất bản tại Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013;
Các bài viết, nghiên cứu của một số học giả, ví dụ như PGS. TS Bùi
Xuân Hải “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ
góc độ Luật so sánh” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý tháng 4 năm 2005
và “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong pháp luật công ty Việt Nam”
2


đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007 hoặc “Trách nhiệm người quản
lý theo luật công ty Việt Nam” của Lê Đức Nghĩa đăng tải trên Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp; và
Một số các luận văn cao học như “Nghĩa vụ của người quản lý công ty
theo Luật doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của Nguyễn
Thị Thái Vân năm 2010, “Nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần theo
pháp luật Việt Nam” của Trần Thị Kiều Oanh năm 2013 hay “Nghĩa vụ của
người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của Phan
Thị Thu Nhài năm 2014.
Các công trình này đã có những đóng góp không nhỏ cho khoa học
pháp lý và đã tạo dựng một nền tảng vững chắc cho các bước nghiên cứu tiếp
theo. Có thể thấy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài không đề cập đến
pháp luật Việt Nam và sự phù hợp của các giải pháp được tạo dựng trong
pháp luật nước ngoài với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Trong khi
đó, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa thực sự có hệ thống và đầy đủ
về vấn đề này, một số thì có mục tiêu nghiên cứu quá chuyên sâu, riêng biệt
(ví dụ như đi sâu vào nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên), hay các bài viết trên các tạp chí thì thường tập trung

vào nêu ra các vấn đề thay vì kiến nghị và xây dựng giải pháp hoặc bộ giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, một số công trình được viết cách
đây khá lâu làm phát sinh nhu cầu đánh giá, đối chiếu và so sánh khi Luật
Doanh nghiệp 2014 ra đời. Chính vì vậy đề tài này đối với pháp luật Việt
Nam hiện nay vẫn còn làm mảnh đất cần được khai phá.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chủ trương phân tích, đánh giá pháp luật Việt Nam nhằm tìm
kiếm những bất cập để kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật về nghĩa vụ
của người quản lý công ty ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể việc
nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau:
3


- Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người quản lý
công ty để lấy đó làm cơ sở tìm kiếm những bất cập của pháp luật liên quan;
- Kiến nghị hoàn thiện chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty ở
Việt Nam hiện nay.
Luận văn chủ yếu nghiên cứu nghĩa vụ của người quản lý công ty trong
công ty cổ phần và phần nào đấy trong công ty trách nhiệm hữu hạn (nếu
công ty TNHH đó có mô hình quản trị có phần tách biệt tương đối về điều
hành gần gũi với công ty đối vốn điển hình là công ty cổ phần) theo pháp luật
về doanh nghiệp của Việt Nam. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nhằm tiếp thu
những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia có truyền thống pháp luật lâu đời.
Luận văn cũng chú ý đến các quy định có liên quan, trong phạm vi tương tự
của các hệ thống pháp luật phát triển như Anh Mỹ, Úc, Singapore …
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở các luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và các chủ
trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế, xã hội, Luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để nghiên cứu đề tài: (1) các
phương pháp chung nghiên cứu khoa học xã hội bao gồm phương pháp

phân tích, thống kê, tổng hợp, xã hội học, phương pháp lịch sử; và (2) các
phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học pháp lý bao gồm phương
pháp so sánh pháp luật, phương pháp phân tích qui phạm, phương pháp
phân tích tình huống...
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên
cứu chủ yếu của Luận văn được chia thành 03 chương như sau:
Chương 1. Khái quát chung về nghĩa vụ của người quản lý công ty.
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của
người quản lý công ty
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định nghĩa vụ của
người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam
4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ
CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY
1.1. Quan niệm về nghĩa vụ
Theo Bộ luật dân sự 2005, nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một
hoặc nhiều chủ thể (bên có nghĩa vụ hoặc thụ trái) phải chuyển giao vật,
chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc
không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
(bên có quyền hoặc trái chủ). Định nghĩa này nhắc đến các chủ thể của nghĩa
vụ và các đối tượng của nghĩa vụ như vậy là không mang tính khái quát cao
và không nhấn mạnh được bản chất của nghĩa vụ là một mối quan hệ mà
trong đó có hai loại chủ thể có lợi ích trái ngược nhau. Một bên có quyền yêu
cầu, là trái chủ và bên còn lại có nghĩa vụ, là thụ trái. Nghĩa vụ, hay trái
quyền, là mối quan hệ trong đó trái chủ có quyền yêu cầu thụ trái thực hiện
một đối tượng vì lợi ích của mình. Đối tượng đó có thể là vật hoặc hành vi

hành động hoặc hành vi không hành động, như đã miêu tả trong Điều 280 của
Bộ luật dân sự 2005. Theo PGS. TS Ngô Huy Cương, nghĩa vụ dân sự có ba
đặc điểm quan trọng [2]. Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý, đặc
trưng bởi khả năng cưỡng chế thi hành bằng quyền lực nhà nước. Hai thành tố
được pháp luật công nhận và có giá trị cưỡng bức thi hành giúp phân biệt
nghĩa vụ dân sự với nghĩa vụ tự nhiên, khi mà nghĩa vụ tự nhiên có thể được
công nhận nhưng không thể cưỡng bức thi hành. Thứ hai, nghĩa vụ là quan hệ
đối nhân. Yếu tố đối nhân có nghĩa là thay vì áp đặt một nghĩa vụ đối với mọi
người nói chung như quan hệ đối vật, quan hệ đối nhân chỉ áp đặt nghĩa vụ
đối với một người xác định. Quyền sở hữu là dạng quan hệ đối vật, có thể đối
kháng chống lại khả năng sở hữu của của tất cả mọi người trên vật thuộc sở

5


hữu của mình; trong khi đó, nghĩa vụ là quan hệ đối nhân, ví dụ như nghĩa vụ
trả tiền, trong quan hệ đó, người trái chủ chỉ có thể đòi người thụ trái trả tiền
cho mình chứ không thể đòi bất cứ ai khác. Thứ ba, nghĩa vụ là một quyền
sản nghiệp, hay nói cách khác, quan hệ tài sản. Đặc điểm này có nghĩa là
nghĩa vụ có thể trị giá được bằng tiền, trong đó, khi người thụ trái thực hiện
nghĩa vụ thì người trái chủ sẽ được hưởng các lợi ích từ việc thực hiện đó.
Các lợi ích, theo cách thông thường nhất là tài sản, có thể trị giá được bằng
tiền. Tuy nhiên, cũng có những lợi ích khó hoặc không thể định lượng giá
trị bằng tiền bạc và trên cơ sở nhận định của nhiều luật gia Nhật Bản cho
rằng các hành vi không được trị giá thành tiền không nhất thiết thuộc phạm
trù đạo đức, Điều 399 của Bộ Luật Dân Sự của Nhật Bản có quy định rằng
đối tượng của nghĩa vụ có thể là những gì không xác định được bằng tiền.
Quan niệm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi soi chiếu vào đối tượng
nghiên cứu của luận văn này, nghĩa vụ của người quản lý công ty, sẽ được
phân tích ở phần sau.

Nguồn gốc của nghĩa vụ
Nghĩa vụ có thể được xuất phát từ ba nguồn gốc chính, đó là hành vi
pháp lý, sự kiện pháp lý và hiệu lực của luật. Hành vi pháp lý có thể bao gồm
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, có thể hiểu là làm phát sinh
nghĩa vụ trên cơ sở ý chí của các chủ thể. Sự kiện pháp lý là những gì xảy ra
ngoài ý chí của các đương sự và làm phát sinh nghĩa vụ cho các chủ thể. Cuối
cùng, hiệu lực của luật là các trường hợp mà nhà làm luật, trên cơ sở nhu cầu
quản lý trật tự xã hội, thừa nhận các giá trị đạo đức hoặc cách thức xử sự hoặc
các nguyên nhân khác làm phát sinh nhu cầu lập pháp mà quy định nghĩa vụ
cho các chủ thể.
Phân loại nghĩa vụ
Có nhiều cách thức phân loại nghĩa vụ khác nhau dựa trên các tiêu chí

6


phân loại. Có những cách thức được phản ánh trong các đạo luật nhưng cũng
có những cách thức chỉ được sử dụng trong học thuật. Cách thức phân loại
nghĩa vụ được sử dụng trong đạo luật cũng sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến cấu
trúc các quy định liên quan. Các cách thức phân loại thường thấy nhất bao
gồm (i) phân loại theo hiệu lực; (ii) phân loại theo nguồn gốc; (iii) phân loại
theo đối tượng và (iv) phân loại theo mức độ.
Phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực cho ta các loại nghĩa vụ đạo đức, nghĩa
vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự mà trong đó, chỉ duy nhất nghĩa vụ dân sự có
hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý.
Phân loại theo nguồn gốc chia nghĩa vụ ra nghĩa vụ từ hành vi pháp lý,
nghĩa vụ từ sự kiện pháp lý và nghĩa vụ do hiệu lực của luật. Đây là cách thức
phân loại căn bản nhất thường được phản ánh trong các bộ luật dân sự của các
nước trên thế giới. Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam cũng không nằm ngoài
số đó khi thiết lập quy chế riêng cho từng loại nguồn gốc của nghĩa vụ như:

hợp đồng, thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi không có căn cứ
pháp luật và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Phân loại nghĩa vụ theo đối tượng là cách thức như được ghi nhận trong
Điều 280 của Bộ Luật Dân Sự 2005. Theo đó, nghĩa vụ có ba loại đối tượng là
(i) chuyển giao vật, (ii) hành động (thực hiện hành vi) và (iii) không hành
động (không thực hiện hành vi).
Phân loại nghĩa vụ theo mức độ. Đây là cách thức phân loại nghĩa vụ ra
đời sau, tuy nhiên lại mang ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là trong nghiên cứu
nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tiêu chí này phân chia nghĩa vụ thành
nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán, trung thực. Cách thức phân loại này
không hề được đề cập trong Bộ Luật Dân Sự 2005 của Việt Nam, vốn được
xem là văn bản đặt nền tảng lí luận cho toàn bộ hệ thống luật tư. Thay vào đó,
một cách đáng ngạc nhiên, Luật Thương Mại 2005, tại Điều 79 và Điều 80 đã

7


áp dụng cách phân loại này. Theo đó, nghĩa vụ của theo kết quả công việc
được mô tả là yêu cầu bên thụ trái đạt được một kết quả nhất định theo hợp
đồng hoặc kết quả phù hợp với tiêu chuẩn thông thường; Trong khi đó, cách
thức ở Điều 80 yêu cầu người thụ trái thực hiện nghĩa vụ với nỗ lực và khả
năng cao nhất. Cách thức phân loại này tạo ra sự khác biệt lớn khi phải chứng
minh sự vi phạm nghĩa vụ. Đối với nghĩa vụ thành quả, vì người thụ trái đã
cam kết một kết quả nhất định, người trái chủ chỉ cần chứng minh rằng kết
quả không đạt được thì có nghĩa rằng người thụ trái đã vi phạm nghĩa vụ. Đối
với nghĩa vụ mẫn cán, trung thực, thay vì bắt người thụ trái phải chứng minh
mình đã thực hiện nghĩa vụ với khả năng cao nhất, gánh nặng chứng minh
thuộc về trái chủ khi phải chứng minh người thụ trái đã không thực hiện nghĩa
vụ một cách cẩn trọng và siêng năng.
Chế tài do vi phạm nghĩa vụ

Sự vi phạm nghĩa vụ sẽ dẫn đến các chế tài. Thông thường, các chế tài
này hướng đến việc bù đắp cho sự vi phạm theo một trong ba cách thức
truyền thống là (i) bồi thường thiệt hại, (ii) buộc thực hiện nghĩa vụ hoặc (iii)
buộc thực hiện nghĩa vụ thay thế.
1.2. Mô hình quản trị công ty và ngƣời quản lý công ty
1.2.1. Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty
Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty, trên thế giới có
hai lý thuyết nổi bật nhất, đó là lý thuyết đại diện (agency theory) và lý thuyết
người quản gia (stewardship theory).
Lý thuyết đại diện dường như chiếm ưu thế, được nghiên cứu bởi nhiều
học giả trên thế giới bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 20 cho đến tận ngày nay. Lý
thuyết đại diện cho rằng mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty là
mối quan hệ đại diện mà trong đó những người chủ sở hữu ủy quyền cho
những người quản lý công ty thực hiện việc quản lý công ty thay họ, bao gồm

8


cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty [5]. Lý
thuyết đại diện cho rằng, người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động
vì lợi ích tốt nhất của của những người chủ sở hữu công ty vì cả hai bên đều
muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Cộng hưởng với sự phân hóa giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý trong các công ty hiện đại, sự không đồng nhất về lợi
ích giữa chủ sở hữu công ty và người quản lý công ty sẽ dẫn đến nhu cầu
giám sát những người quản lý công ty. Lý thuyết này cũng phù hợp với những
nhận định thường được đề cập như bản chất của con người khi mô tả nguồn
gốc ra đời của hiến pháp và cơ chế tam quyền phân lập, đó là sự tha hóa bởi
quyền lực hay “nhân chi sơ, tính bản ác”.
Ngược lại, lý thuyết người quản gia cho rằng người quản lý công ty khi
được tự do hành động thì sẽ hành động giống như người quản gia đối với các

tài sản mà họ được trao quyền quản lý. Xuất phát từ nhận định công ty không
chỉ thuần túy hướng tới mục đích lợi nhuận mà còn có những mục tiêu cao cả
hơn, lý thuyết người quản gia cho rằng các mục tiêu này thúc đẩy người quản
lý công ty hành động tốt hơn. Chính vì vậy, lý thuyết người quản gia tập trung
vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho người quản lý công ty theo đuổi các mục
đích cao cả đó. Lý thuyết này phải gánh chịu nhiều chỉ trích do xem xét mối
quan hệ giữa công ty và người quản lý như một mối quan hệ tĩnh với nhiều
yếu tố phải cố định. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra có những
kết quả nhất định cho thấy hiệu quả quản lý được nâng cao khi người quản lý
công ty được trao nhiều quyền hơn theo lý thuyết người quản gia thay vì bị
đặt dưới con mắt quản lý, soi sét của lý thuyết đại diện [15, tr. 62].
Cá nhân tác giả luận văn thì cho rằng lý thuyết đại diện là hợp lý hơn
về mặt cơ bản, tuy nhiên, lý thuyết người quản gia cũng có những giá trị cần
xem xét và những nhân tố tích cực có thể áp dụng. Tóm tắt lại, có thể hiểu
mối quan hệ giữa người quản lý công ty với công ty là quan hệ đại diện, trong

9


đó những người quản lý công ty được ủy quyền quản trị công ty, thay mặt các
chủ sở hữu xác lập quyền và nghĩa vụ, trong đó lợi ích của hai phía là không
đồng nhất và những người quản lý công ty chỉ hành động vì lợi ích tốt nhất
của công ty trong những điều kiện xác định.
1.2.2. Mô hình quản trị công ty
Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn thường được xem là
các hình thức công ty đối vốn theo ngôn ngữ của các nước theo truyền thống
Civil Law. Tuy nhiên có thể nói công ty trách nhiệm hữu hạn là một hình
thức lai tạp giữa công ty đối vốn điển hình là công ty cổ phần và công ty đối
nhân điển hình là công ty hợp danh [3, tr. 162]. Song công ty trách nhiệm
hữu hạn có nhiều mô hình quản trị linh động hơn so với công ty hợp danh.

Có thể dạng công ty này có mô hình quản trị mà trong đó điều hành tương
đối tách biệt và gần gũi với một số đặc điểm của mô hình quản trị công ty cổ
phần. Vì thế phần nào đó có thể xếp nghĩa vụ của người quản lý trong hai
hình thức công ty này vào một loại nhằm mục đích của Luận văn này. Đối
với truyền thống Common Law ở Hoa Kỳ, khi nói tới công ty (corporation)
là nói tới các hình thức công ty đối vốn trong sự phân biệt với hợp danh
(partnership). Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là hai loại
hình công ty phổ biến và cơ bản nhất, tồn tại ở hầu hết các nước trên thế
giới, nếu không muốn nói là ở tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới.
Nhìn vào nền kinh tế thị trường, người ta thường thấy các hoạt động nổi trội
của hai loại hình công ty này. Nói cách khác chúng là các nhân tố không thể
thiếu của kinh tế thị trường. Đạo luật về công ty đầu tiên của Việt Nam ở
thời kỳ “đổi mới” là Luật Công ty năm 1990. Tại đó chỉ có hai loại hình
công ty được qui định là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đó là bằng chứng không thể bác bỏ về vai trò của hai loại hình công ty này
trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường.

10


Đây là hai loại hình công ty phát triển cao, nhất là công ty cổ phần.
Chúng rất hoàn bị. Và nhiều trong số chúng đã đạt đến quy mô rất lớn cả về
tài sản, kinh doanh, cũng như nhân lực... Vì vậy khả năng chủ sở hữu đồng
thời giữ vai trò người quản lý như trong các mô hình doanh nghiệp tư nhân
hay công ty hợp danh là không khả thi, dẫn đến đòi hỏi các hình thức công ty
này phải có bộ máy quản trị chuyên nghiệp. Chính đòi hỏi này khiến cho mô
hình quản trị công ty trở nên được chú trọng và mang lại nhiều khác biệt.
Những người quản lý có thể được thuê và thực hiện công việc quản lý như
một nghề nghiệp. Đây chính là đối tượng nghiên cứu của luận văn bởi lẽ lợi
ích của những người này không giống với lợi ích của những người quản lý

công ty xuất phát từ quyền sở hữu của chính họ đối với công ty, ví dụ như đối
với công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản.
Vấn đề xung đột lợi ích luôn tồn tại, ngay cả trong những công ty mà
những người quản lý đều đồng thời là chủ sở hữu. Tuy nhiên, khi những
người quản lý công ty là những nhân lực được thuê từ bên ngoài, thì khả
năng xung đột lúc này càng trở nên rõ rệt hơn. Thêm vào đó, những nhân lực
thuê ngoài này lại là đối tượng chuyên nghiệp, nắm trong tay những kiến
thức chuyên sâu và được đào tạo bài bản, có hệ thống liên quan đến quản trị
công ty, và hoàn toàn có thể lạm dụng những kiến thức và kỹ năng đó để
chống lại các đồng sở hữu chủ của công ty một cách rất tinh vi [7, tr. 27].
Chính vì thế, đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, kỹ lưỡng
hơn về những người quản lý này so với những người quản lý trong các loại
hình công ty khác.
Vì những lẽ đó mô hình quản trị công ty là vấn đề pháp lý quan trọng
có thể giúp cho công ty vận hành một cách an toàn hướng tới mục tiêu của
chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu. Mô hình quản trị công ty cổ phần thường
thấy ở Việt Nam bao gồm những cơ quan chính sau:

11


* Cơ quan quyền lực cao nhất – ĐHĐCĐ: Đây là cơ quan tập hợp tất
cả các cổ đông của công ty. ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất và có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty. Tuy nhiên, do
tính chất đông đảo và không chuyên nghiệp của cổ đông, ĐHĐCĐ không
thể là cơ quan hoạt động thường xuyên, quản lý các hoạt động thường ngày
của công ty mà chỉ có thể nhóm họp một số lần trong năm theo pháp luật
hoặc theo điều lệ công ty.
* Cơ quan chuyên quản lý chuyên trách - HĐQT: Cơ quan này gồm
một nhóm người, thường là cổ đông hoặc không phải là cổ đông của công ty,

được ĐHĐCĐ bỏ phiếu thành lập, chịu trách nhiệm quản lý công ty và thực
hiện những nhiệm vụ được ĐHĐCĐ giao hoặc đã được ấn định trong Điều lệ
của công ty. HĐQT cũng đồng thời đóng vai trò điều hành, điều phối các kỳ
họp của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, HĐQT cũng chỉ có thể hoạt động thường xuyên
hơn ĐHĐCĐ chứ không thể hoạt động liên tục, chính vì thế, tầng nấc quản trị
thứ ba được lập ra.
* Cơ quan quản lý thường xuyên: Cơ quan này thường là tổng giám
đốc, giám đốc hoặc ban giám đốc, chịu trách nhiệm điều hành tất cả những
hoạt động kinh doanh thường ngày của công ty do Điều lệ, ĐHĐCĐ và
HĐQT giao cho.
* Cơ quan kiểm soát: Đây là cơ quan theo dõi, kiểm tra, thẩm định các
hoạt động quản lý và điều hành.
Mô hình quản trị công ty TNHH bao gồm những cơ quan chính sau:
- Hội đồng thành viên: Cơ quan này có thể bao gồm các thành viên của
công ty hoặc đại diện của các thành viên công ty. Đây là cơ quan được xem
như có sự lai ghép giữa ĐHĐCĐ và HĐQT của công ty cổ phần (thẩm quyền
của hội đồng thành viên giống như ĐHĐCĐ nhưng cách thức hoạt động lại
tương đồng nhiều hơn với HĐQT). Mô hình tổ chức quản lý công ty TNHH

12


thông qua Hội đồng thành viên có thể được áp dụng cho cả công ty TNHH
nhiều thành viên lẫn công ty TNHH một thành viên.
- Chủ tịch công ty: Đây là vị trí trung tâm trong mô hình quản trị công
ty TNHH một thành viên mà đại diện của chủ sở hữu chỉ là một người.
- Cơ quan quản lý thường xuyên: Cơ quan này có thể tồn tại riêng biệt
giống như trong mô hình quản trị của công ty cổ phần (thường là khi công ty
TNHH theo mô hình hội đồng thành viên) hoặc kiêm nhiệm, tinh giản (khi
công ty TNHH một thành viên áp dụng mô hình chủ tịch công ty).

- Cơ quan kiểm soát: cơ quan theo dõi, kiểm tra, thẩm định các hoạt
động quản lý và điều hành cũng tương tự như trong công ty cổ phần.
Trong các mô hình quản trị hai loại hình công ty, người ta xác định
những ai là người quản lý công ty để áp đặt cho họ những nghĩa vụ của người
quản lý công ty.
1.2.3. Khái niệm người quản lý công ty
Người quản lý công ty là một khái niệm đã được đề cập trong Luật
Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 13). Trong phạm vi những người quản lý
chuyên nghiệp, những người quản lý công ty có thể bao gồm chủ tịch hội
đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên HĐQT, giám đốc hoặc tổng
giám đốc và một số chức danh khác do điều lệ công ty quy định. Các chức
danh khác có thể là kế toán trưởng, giám đốc tài chính của công ty. Họ là
cánh tay mặt và có lợi ích sát sườn với ban giám đốc hay hội đồng quản trị
của công ty. Tuy nhiên, với những chức danh như trưởng phó các bộ phận,
phòng ban hay các kiểm soát viên vốn được quy định trực thuộc bộ máy quản
lý của công ty thì lại tương đối khó xác định vì thiếu cơ sở pháp lý. Trên thực
tế, các chức danh nhỏ như vậy cũng đã có những ảnh hưởng và thẩm quyền
nhất định xác lập những quyền lợi và nghĩa vụ cho công ty, nhưng thường
không được quy định trong điều lệ công ty, vì với tư cách là người lao động

13


của công ty, những người này (hoàn toàn và dễ dàng) có thể bị thay đổi. Mặt
khác, chính vì bó hẹp vào quy định trong điều lệ, nhiều người quản lý hoàn
toàn có thể bị bỏ lọt và cũng chính là kẽ hở để họ chủ động trốn tránh trách
nhiệm. Dựa trên phân tích về mặt ngữ nghĩa của khoản 2, Điều 73, Luật
Doanh nghiệp 2005, đối với công ty TNHH, người quản lý chắc chắn bao
gồm các thành viên của hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty (tùy theo
mô hình quản lý được lựa chọn). Nhưng kiểm soát viên có thể không được

xem là người quản lý công ty khi không trực tiếp quyết định các vấn đề về
kinh doanh của công ty mà nhiệm vụ chủ yếu của họ là kiểm soát sự đúng đắn
trong hành động của những người quản lý công ty, vì lợi ích của chủ sở hữu.
Luật Doanh nghiệp 2014 (khoản 18, Điều 4) có đưa ra định nghĩa
“người quản lý doanh nghiệp”. Trong định nghĩa này bao gồm cả người quản
lý công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, và những chủ sở hữu của
doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh.
Theo pháp luật của Anh, Úc và các nước khác thuộc họ pháp luật
common law, những người quản lý công ty bao gồm 3 nhóm đối tượng sau đây:
+ Thứ nhất, người được bổ nhiệm làm người quản lý công ty (de jure
director). Đây là cách thức phổ thông. Và một người được xác định là người
quản lý theo cách này thì thường không vấp phải sự phản đối hay hoài nghi từ
những người khác.
+ Thứ hai, người tuy không được bổ nhiệm làm người quản lý công ty
nhưng hành động giống như người quản lý công ty. Đây chính là tấm lưới thứ
nhất để thâu tóm những “người quản lý thực tế” của công ty (de facto
director). Sự quy định nhóm đối tượng thứ hai này khiến cho việc bổ nhiệm
chính thức không còn có thể sử dụng như một lý lẽ hợp lý có thể nại ra để
trốn tránh nghĩa vụ của người quản lý [14, tr. 251]. Ở điểm này, cần bàn thêm
về mặt khái niệm. Thuật ngữ “director” trong tiếng Anh thường được dịch

14


sang tiếng Việt là “giám đốc” và “general director” được dịch là “tổng giám
đốc”. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, vị trị này tương ứng với vị trí CEO
(chief executive officer – thường được dịch là giám đốc điều hành) trong các
công ty của các nước phương Tây. Vị trí CEO này, theo từ điển thuật ngữ
pháp lý Black’s law dictionary, được hiểu là người quản lý có thứ hạng cao
nhất của một công ty, điều hành những công việc hàng ngày của công ty và

báo cáo với HĐQT. Vị trí này thực chất vừa giống với giám đốc vừa giống
với người đại diện theo pháp luật trong luật Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữ
“director” còn bao gồm ý nghĩa thứ hai, chỉ “một người được chỉ định hoặc
bổ nhiệm vào một hội đồng để quản lý các vấn đề của công ty” hay nói cách
khác, chính là thành viên HĐQT. Chính vì thế, thuật ngữ “board of directors”
của các nước common law phải dịch là HĐQT chứ không phải là ban giám
đốc. Tóm lại, thuật ngữ “director” trong tiếng Anh phải được hiểu là “người
quản lý doanh nghiệp/công ty” thay vì bó hẹp trong phạm vi là “giám đốc”.
Trong luận văn này, khi phân tích các quy phạm pháp luật hoặc vụ việc pháp
lý của các nước thuộc họ pháp luật common law, từ “giám đốc” có thể được
sử dụng vì lí do thuận tiện và ngắn gọn khi sử dụng tiếng Việt nhưng phải
được hiểu theo nghĩa chung là “người quản lý công ty”.
+ Thứ ba, những người mà chỉ thị hoặc mong muốn của họ sẽ được
thực hiện bởi những người quản lý hoặc các bộ phận/phòng ban của công ty.
Tấm lưới cuối cùng này có mục đích thâu tóm những “người quản lý trong
bóng tối” (shadow director) [14, tr. 252]. Tấm lưới này là quan trọng nhất để
ngăn chặn bất kỳ ai có mong muốn sử dụng một công ty hoặc lợi dụng quy
định về trách nhiệm của thành viên hội đồng quản trị để hành động sai trái
hoặc đẩy trách nhiệm sang người khác. Một ví dụ dễ thấy trong trường hợp
này là các Hội đồng sáng lập (“HĐSL”) ở các ngân hàng thương mại mà đi
đầu là Hội đồng sáng lập ACB do ông Nguyễn Đức Kiên (thường được biết

15


đến với tên gọi “bầu Kiên”) là Phó chủ tịch, đồng thời là người được cho là
chủ nhân của “sáng kiến” này [17]. Theo Điều lệ, quy chế hoạt động và các
quy định của pháp luật Việt Nam, những thành viên của hội đồng này không
phải những người quản lý của ACB và không được pháp luật thừa nhận khi
những người này dường như chỉ làm nhiệm vụ tư vấn cho các hoạt động của

ACB. Tuy nhiên, nếu xét theo pháp luật của Úc, những người này hoàn toàn
có thể được xem là những người quản lý của công ty và được xem xét như là
một “shadow director” khi họ có thể chỉ đạo và định hướng hoạt động của các
giám đốc/người quản lý của ACB. Mặc dù không có tư cách về mặt pháp lý,
nhưng các thành viên HĐSL, bằng chính quyết định trao quyền của HĐQT
của ACB cũng như vai trò là các cổ đông lớn, hoàn toàn có thể tác động và
quyết định mọi hoạt động của ngân hàng [18]. Khi xảy ra sai phạm thì chính
các thành viên HĐQT sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân vì quy định của pháp
luật chỉ ràng buộc những đối tượng này. Thực tế đã cho thấy, với vai trò Phó
chủ tịch HĐSL, Nguyễn Đức Kiên vẫn là nhân vật quan trọng, có ảnh hưởng,
chỉ đạo và quyết định hầu hết các hoạt động của ACB [17].
Năm 1995, tại Úc, trong vụ tranh chấp giữa Standard Chartered Bank of
Australia (“SCB”) và Antico (Antico là 1 trong 3 người quản lý đồng thời của
Pioneer và Giant bị kiện). Các tình tiết thực tế khá phức tạp. Tuy nhiên, liên
quan đến vấn đề đang nghiên cứu có thể thấy như sau: SCB có một khoản nợ
phải đòi từ Giant Resources Ltd (“Giant”). Tuy nhiên, do công ty này đã phá
sản nên SCB đã tiến hành đòi công ty mẹ của Giant (“Pioneer”) với lập luận
rằng Pioneer là một “shadow director” của Giant, vì thế, phải chịu trách nhiệm
đối với khoản nợ của công ty (cụ thể là Giant) khi tình trạng phá sản của Giant
có nguyên nhân từ sự quản lý và kiểm soát tài chính mà Pioneer áp dụng lên
Giant. Thực tế, Pioneer đã bắt buộc Giant phải có báo cáo tài theo các quy
chuẩn riêng của mình cũng như áp đặt những sự quản lý tài chính, chính sách,

16


từ đó dẫn đến hậu quả thiệt hại góp phần dẫn đến tình trạng phá sản của Giant.
Nếu xét trên góc độ tương đương, pháp luật Việt Nam không có cơ sở pháp lý
để xác định và buộc “shadow director” cũng như buộc pháp nhân phải chịu
trách nhiệm của người quản lý công ty với công ty [13, tr. 399].

Mặc dù vậy, các nhà làm luật Việt Nam dường như cũng đã ý thức
được và thiết kế một điều khoản bảo vệ cho lợi ích chính đáng của công ty
con như một thực thể độc lập, khỏi nguy cơ lạm dụng của công ty mẹ. Điều
khoản này không có nhiều thay đổi từ Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 147)
sang Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 190). Điều khoản này áp đặt một cách
trực tiếp trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con, hơn là dựa trên
nguyên tắc suy đoán xem công ty mẹ có phải là “shadow director” của công
ty con hay không, mặc dù về bản chất, đều phải dựa trên phạm vi hành động
của công ty mẹ để xác định trách nhiệm có phát sinh hay không. Nội dung
Điều 190 này như sau:
1. Tùy thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ
sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con theo quy định
tương ứng của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và
công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng
theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý độc lập.
3. Trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài thẩm quyền của
chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông và buộc công ty con phải thực
hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường
hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù hợp lý
trong năm tài chính có liên quan, gây thiệt hại cho công ty con thì
công ty mẹ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó.

17


4. Người quản lý của công ty mẹ chịu trách nhiệm về việc
can thiệp buộc công ty con thực hiện hoạt động kinh doanh quy
định tại khoản 3 Điều này phải liên đới cùng công ty mẹ chịu trách

nhiệm về các thiệt hại đó.
5. Trường hợp công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo
quy định tại khoản 3 Điều này thì chủ nợ hoặc thành viên, cổ đông
có sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền nhân
danh chính mình hoặc nhân danh công ty con đòi công ty mẹ đền bù
thiệt hại cho công ty con.
6. Trường hợp hoạt động kinh doanh như quy định tại khoản
3 Điều này do công ty con thực hiện đem lại lợi ích cho công ty con
khác của cùng một công ty mẹ thì công ty con được hưởng lợi đó
phải liên đới cùng công ty mẹ hoàn trả khoản lợi được hưởng đó
cho công ty con bị thiệt hại.
Khoản 4 của điều này cũng gợi ý rằng các nhà làm luật Việt Nam coi
người quản lý công ty là các cá nhân, khi xác định công ty mẹ và người quản
lý của công ty mẹ là 2 chủ thể độc lập sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm đối
với thiệt hại của công ty con. Mặt khác, trong các trường hợp can thiệp quá
mức vào hoạt động của công ty con, các đối tượng sau sẽ phải liên đới hoàn
trả phần thiệt hại: thứ nhất là bản thân công ty mẹ, thứ hai là những người
quản lý của công ty mẹ có liên quan đến sự can thiệp quá mức và cuối cùng là
các công ty con khác của cùng một công ty mẹ mà đã được hưởng lợi. Nhìn
vào bối cảnh tổ chức hiện tại của các tập đoàn kinh tế, có thể thấy quy định
liên đới trách nhiệm của các “công ty con” khác chưa thể bao quát hết các khả
năng xảy ra trên thực tế khi mỗi tập đoàn có thể có rất nhiều tầng bậc, không
chỉ các công ty con mà còn cả các “công ty cháu”. Trường hợp mà sự chỉ đạo
của công ty mẹ gây thiệt hại cho công ty con, nhưng công ty được hưởng lợi

18


×