Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Góp vốn thành lập công ty theo pháp luật Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







PHẠM TUẤN ANH




GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC












Hà Nội – 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






PHẠM TUẤN ANH





GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƯƠNG



Hà Nội – 2009


Mục lục

Trang
Lời cam đoan
3
Mục lục
4
Mở đầu
6
Chương 1. Khái luận về góp vốn thành lập công ty
10
1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty
10
1.1.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty
10
1.1.2. Bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty
13

1.2. Hệ quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty
15
1.2.1. Tạo lập ra một thực thể độc lập
15
1.2.2. Hệ quả đối với những người góp vốn
21
1.3. Hình thức và thủ tục thỏa thuận góp vốn
24
1.3.1. Hình thức thỏa thuận góp vốn
24
1.3.2. Thủ tục góp vốn thành lập công ty
27
1.4. Các hình thức của vốn góp thành lập công ty
31
1.4.1. Góp vốn bằng tiền
31
1.4.2. Góp vốn bằng hiện vật
33
1.4.3. Góp vốn bằng quyền sử dụng đất
37
1.4.4. Góp vốn bằng quyền hưởng dụng
43
1.4.5. Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại
47
1.4.6. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
50
1.4.7. Góp vốn bằng tri thức
55
1.4.8. Góp vốn bằng công sức
57

1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn
59
Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công
64
ty
2.1. Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
công ty
64
2.2. Quy định hiện hành của pháp luật việt nam về góp vốn thành lập công
ty và các khiếm khuyết
72
2.3. Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong quy định của pháp luật
Việt Nam về góp vốn thành lập công ty
81
Chương 3. Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về góp vốn thành lập công ty
87
3.1. Nhu cầu hoàn thiện
87
3.2. Phương hướng hoàn thiện
88
3.3. Kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện
91
Kết luận
107
Tài liệu tham khảo
110


8

PHẦN MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của khu vực kinh tư nhân và việc cải cách khu vực kinh tế
nhà nước đã thúc đẩy mạnh mẽ việc thành lập công ty ở Việt Nam. Thành lập
công ty với sự đảm bảo an toàn pháp lý cao đặc biệt là về vốn góp là mục tiêu
quan trọng của pháp luật về doanh nghiệp.
Tuy nhiên, góp vốn thành lập công ty là một vấn đề mang tính hai mặt.
Một mặt, quy định của pháp luật phải đảm bảo an toàn vốn góp của người
tham gia góp vốn thành lập công ty. Mặt khác, quy định của pháp luật phải
đảm bảo lợi ích của người thứ ba trong các giao dịch với công ty, đảm bảo lợi
ích của công ty với tư cách là một chủ thể độc lập sau khi được thành lập.
Thành lập công ty, trong đó một việc không thể thiếu là góp vốn có ảnh
hưởng lớn tới không chỉ quyền lợi của các thành viên trong công ty mà còn
ảnh hưởng tới hoạt động của công ty sau này. Mặc dù hiện nay pháp luật cho
phép sự thoả thuận của các thành viên trong việc thoả thận góp vốn, xác định
vốn góp. Tuy nhiên pháp luận cần có những dự liệu, những quy định để tạo cơ
sở pháp lý giải quyết các tranh chấp, tạo hành lang pháp lý an toàn cho các
bên. Ngoài ra vấn đề góp vốn trong trường hợp các công ty thực tế. Pháp luật
cũng cần có các quy định để giải quyết trong trường hợp có tranh chấp phát
sinh giữa các bên.
Vì thế khía cạnh pháp lý của vấn đề góp vốn thành lập công ty đang là
một vấn đề thực tiễn đặt ra, đặc biệt là chúng ta đang cố gắng tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập với mong muốn thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Tác giả chọn đề tài nêu trên để nghiên cứu vì những lý do sau đây:

9
1. Mong muốn được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ những
quy định của pháp luật về góp vốn thành lập công ty.

Nội dung mà tác giả hướng tới nghiên cứu bao gồm: các vấn đề lý luận
về góp vốn thành lập công ty, các hình thức của vốn góp, thực trạng quy định
của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty, những hạn chế và
phương hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành
lập công ty.
Hiện nay, thực tiễn về việc góp vốn thành lập công ty diễn ra rất phong
phú và đang dạng. Có những trường hợp đang diễn ra trên thực tế mà pháp
luật chưa dự liệu trước được. Trước những đòi hỏi của thực tiễn phải cố gắng
trước hết hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên khi tham gia thành lập công ty, cũng như những ảnh hưởng
trong quá trình hoạt động của công ty sau này, trong đó có cả vấn đề giải
quyết về vấn đề tài sản khi giải thể, phá sản công ty. Việc nghiên cứu đề tài
này sẽ góp phần vào việc thực hiện mục tiêu trên.
2. Hiện nay, việc áp dụng các hình thức vốn góp thành lập công ty theo
quy định của pháp luật Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào hình thức của tài
sản. Việc nghiên cứu các hạn chế trong quy định về hình thức vốn góp thành
lập công ty một cách thấu đáo sẽ giúp khắc phục các hạn chế và đem lại hiệu
quả thiết thực đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm giúp
cho việc thành lập công ty được thuận lợi, thúc đẩy hoạt động kinh doanh.
3. Thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về các hình
thức vốn góp thành lập công ty, việc góp vốn thành lập công ty trên thực tế và
so sánh với quy định của pháp luật một số nước, sẽ giúp đưa ra những nhận
xét và đề xuất phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong việc điều
chỉnh lĩnh vực này để không những có thể áp dụng được đối với việc góp vốn
thành lập công ty trong nước mà còn áp dụng đối với việc góp vốn thành lập

10
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy hoạt động đầu tư, bảo
vệ được một cách hợp pháp quyền lợi của các bên trong thành lập công ty.
II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sở lý
luận về góp vốn thành lập công ty. Từ các quy định của pháp luật đến những
vấn đề thực tế đang diễn ra và tham khảo các quy định của pháp luật một số
quốc gia. Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá
thực tiễn cũng như đánh giá xu hướng diễn ra trên thực tế về góp vốn thành
lập công ty. Qua đó nêu lên những kiến nghị để hoàn thiện các quy định về
góp vốn thành lập công ty.
III. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM VÀ
Ý NGHĨA LÝ LUẬN CỦA ĐỀ
Hiện này ở nước ta, ngoài một số bài báo đề cập hoặc nghiên cứu một
số khía cạnh của vấn đề góp vốn thành lập công ty, chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề: góp vốn
thành lập công ty. Trong xu thế phát triển của khu vực kinh tế tư nhân hiện
nay, có nhiều vấn đề đặt ra trong việc góp vốn thành lập công ty, nó đòi hỏi
sự hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo sự an toàn về pháp lý
cho những người đầu tư thành lập công ty. Những kiến nghị của đề tài hy
vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật về góp vốn thành lập công ty. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư
thích đáng, việc nghiên cứu sẽ đạt kết quả tốt.
IV. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tác giả sẽ sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu: phương
pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, kết hợp với nhiều
phương pháp cụ thể: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống.

11

Với các lý do trên, luận văn bao gồm các nội dung cơ bản sau:

Chương 1. KHÁI LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY

1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty
1.2. Hệ quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty
1.3. Hình thức và thủ tục góp vốn
1.4. Các hình thức của vốn góp
1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH
LẬP CÔNG TY
2.1. Cấu trúc và sự phát triển của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
công ty
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty và
những khiếm khuyết
2.3. Nguyên nhân của những khiếm khuyết trong quy định của pháp
luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty
Chương 3. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
3.1. Nhu cầu hoàn thiện
3.2. Phương hướng hoàn thiện
3.3. Những kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về góp vốn
thành lập công ty




12
Chƣơng 1
KHÁI LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
1.1. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA GÓP VỐN THÀNH
LẬP CÔNG TY
1.1.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty
Công ty ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã

hội và lịch sử nhất định. Lịch sử phát triển của công ty gắn với lịch sử phát
triển của hoạt động thương mại và sự phát triển của lực lượng sản xuất với
những tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại.
Sự ra đời của công ty là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế
hàng hoá. Theo quan niệm chung, có thể hiểu: Công ty kinh doanh là một
thực thể kinh doanh được tạo lập trên cơ sở vốn góp của một hay nhiều người.
Thông thường Công ty được chia làm 2 loại chính là Công ty đối nhân và
Công ty đối vốn.
Loại thứ nhất, Công ty đối nhân là công ty được thành lập trên cơ sở sự
liên kết giữa những người có uy tín, quen biết và tin cậy lẫn nhau, yếu tố nhân
thân được đề cao trong quá trình liên kết thành lập Công ty [18, tr.34]. Công
ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản là công ty hợp danh và công
ty hợp vốn đơn giản. Đối với công ty hợp danh, các thành viên cùng tiến hành
hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới chịu trách
nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của Công ty. Còn ở công ty hợp vốn đơn giản
có ít nhất một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn (thành viên nhận vốn), còn
những thành viên khác chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn góp vào
Công ty (thành viên góp vốn).
Loại thứ hai, Công ty đối vốn là loại công ty mà những thành viên tham
gia phải góp một phần vốn xác định tạo nên vốn, tài sản riêng của Công ty
trong quá trình hoạt động kinh doanh. ở Công ty đối vốn yếu tố nhân thân của

13
người góp vốn thường ít được quan tâm mà vấn đề vốn góp được đề cao. Các
thành viên Công ty đối vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của
Công ty nghĩa là họ chỉ chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ của Công ty trong
phạm vi phần vốn mà họ góp vào Công ty [18, tr.34,35]. Các công ty đối vốn
thông thường có công ty cổ phân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp
vốn cổ phần.
Nói chung ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, các loại hình

công ty đã ra đời từ rất sớm, các công ty thương mại đối nhân đầu tiên ra đời
vào khoảng thế kỷ thứ XIII ở các thành phố lớn ở Châu Âu, sang thế kỷ XVII
xuất hiện các công ty đối vốn. Ban đầu chúng được hình thành một cách tự
nhiên xuất phát từ nhu cầu kinh doanh và lập hội của các thương gia sau đó
Luật Công ty đã ra đời để ghi nhận và điều chỉnh hoạt động của các loại hình
công ty nhằm đảm bảo an toàn cho quá trình kinh doanh.
Hiện nay, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, ở Việt Nam có 3 hình
thức Công ty là Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn (gồm 2 loại
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và Công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên) và Công ty hợp danh.
Sự phát triển của công ty trước tiên xuất phát từ nhu cầu tự nhiên. Ban
đầu các thương nhân hoạt động kinh doanh đơn lẻ, nhưng với sự phát triển và
mở rộng của hoạt động thương mại và sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi
hỏi các thương nhân phải có sự liên kết hùn vốn với nhau để kinh doanh nhằm
tăng sức cạnh tranh và mở rộng hoạt động kinh doanh.
Hoạt động thương mại phát triển đòi hỏi các thương gia phải có sự liên
kết hùn vốn với nhau để buôn bán. Việc tích lũy vốn, “hùn vốn”, “gom vốn”
cho hoạt động kinh doanh đã thúc đẩy các nhà tư bản phải tìm đến những hình
thức tổ chức kinh doanh mới. Sự góp vốn theo hình thức công ty chính là đáp
ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Hơn nữa, nền kinh tế ngày càng phát triển thì

14
càng có nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh doanh mới ra đời, tạo ra những
cơ hội và khả năng thu hút nhà đầu tư gặp gỡ hợp tác kinh doanh với nhau
trên cơ sở góp vốn thành lập một thực thể kinh doanh - đó chính là công ty.
Như vậy, góp vốn trước hết là nhu cầu tự nhiên để phục vụ hoạt động
kinh doanh của một nhóm người. Sau đó, mới tạo nên một thực thể mới là
công ty. Khi pháp luật có sự điều chỉnh đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt
động của công ty, thì công ty phải được thành lập, tổ chức và hoạt động theo
quy định của pháp luật. Công ty trở thành một thực thể pháp lý, mang các

quyền và nghĩa vụ pháp lý do pháp luật quy định. Sự quy định của pháp luật
về thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty trong đó có việc góp vốn thành
lập công ty đã đưa việc góp vốn thành lập công ty từ quan hệ xã hội trở thành
quan hệ pháp luật với sự điều chỉnh của pháp luật về góp vốn thành lập công
ty.
Vậy, góp vốn thành lập công ty ban đầu xuất phát từ nhu cầu tự nhiên
của các thương gia mang tính riêng lẻ, sau đó được pháp luật về công ty quy
định chung cho hoạt động góp vốn thành lập công ty trong một cộng đồng
chính trị nhất định.
Vậy góp vốn thành lập công ty là gì?
Theo Bộ luật dân sự của nước cộng hoà Pháp, công ty do hai hay nhiều
người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp, sử
dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm
chia lãi hoặc thu lợi
Trong những trường hợp do pháp luật quy định, công ty có thể do một
người thành lập.
Các thành viên công ty cam kết cùng chịu lỗ. [Điều 1832]

15
Như vậy, có thể hiểu góp vốn thành lập công ty là việc một hay nhiều
người đóng góp tài sản, tri thức hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh
doanh dưới hình thức công ty nhằm thu lợi hoặc chia lãi.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, Điều 4, khoản 4 “Góp vốn là
việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu
chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do
chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành
viên góp để tạo thành vốn của công ty.”
Góp vốn theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 là việc đưa tài
sản vào công ty để trở thành chủ sử hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công

ty. Quy định của pháp luật Việt Nam mới chỉ đề cập đến việc góp vốn bằng
tài sản và liệt kê các loại tài sản được góp vốn. Sự liệt kê thì không thể tránh
khỏi sự không đầy đủ, do vậy Luật Doanh nghiệp 2005 đã mở ra cho phép các
chủ thể có thể thỏa thuận xác định những loại tài sản khác được góp vốn.
Qua các phân tích trên có thể hiểu theo nghĩa chung nhất, Góp vốn
thành lập công ty là việc tạo lập ra công ty thông qua việc chuyển giao tài
sản, tri thức hoặc công sức của người góp vốn để hình thành vốn của công ty.
1.1.2. Bản chất pháp lý của góp vốn thành lập công ty
Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một
thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành
vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó góp vốn cũng được hiểu theo nghĩa
kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm góp vốn từ
phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý.
Nếu như xét từ phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho
công ty nhằm bảo đảm cho những chi phí trong hoạt động của công ty và bảo

16
đảm quyền lợi cho các chủ nợ. Khi góp tài sản vào công ty, thì tài sản đó trở
thành đối tượng sở hữu của công ty bởi hợp đồng thành lập công ty đã tạo ra
một thực thể tách biệt có sản nghiệp riêng. Mỗi thành viên của công ty có
được từ hành vi góp vốn này một quyền lợi đối với công ty tương ứng với
phần vốn góp của mình xét theo lẽ thông thường. Tuy nhiên, các quyền lợi và
nghĩa vụ của thành viên còn phụ thuộc vào các quy định của hợp đồng thành
lập hay điều lệ của công ty hoặc pháp luật.
Xét từ phương diện pháp lý, thì góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản
hay đưa tài sản vào sử dụng để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Hành vi đổi
lấy quyền lợi này khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tài sản ở
chỗ: trong hành vi mua bán hay cho thuê, khi chuyển giao quyền sở hữu tài
sản hay quyền sử dụng tài sản, thì người chuyển giao có được một quyền lợi

là được nhận một khoản tiền từ giá bán hay giá thuê; còn trong hành vi góp
vốn, khi chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản cho công ty, thì
người góp vốn không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao
đó, mà thay vào đó là nhận được một quyền lợi trong công ty có giá trị tương
ứng với phần vốn góp.
Quan niệm góp vốn theo phương diện pháp lý đặt ra hai vấn đề lớn cần
tìm hiểu. Đó là hình thức góp vốn và quyền lợi có được từ việc góp vốn.
Trong thực tiễn có nhiều hình thức góp vốn. Nếu căn cứ vào chủ thể
quyền sở hữu đối với tài sản đem góp vốn thì có góp vốn bằng quyền sở hữu
và góp vốn bằng quyền hưởng dụng. Nếu căn cứ vào tính chất của tài sản thì
có thể có cách thức góp vốn bằng tài sản giá trị, bằng tài sản hiện vật, bản
quyền sở hữu công nghiệp, góp vốn bằng tri thức, góp vốn bằng công sức.
Chính xuất phát từ sự đa dạng của hình thức góp vốn mà đòi hỏi sự
điều chỉnh cách thức tiến hành quan hệ chuyển dịch vốn góp vào công ty cũng
đa dạng và phải phù hợp với từng hình thức cụ thể. Các thành viên phải lựa

17
chọn hình thức góp vốn cụ thể không trái với quy định của pháp luật và được
ghi tại hợp đồng thành lập công ty.
Nếu đối tượng góp vốn là tài sản thì người góp vốn phải là chủ sở hữu
khối tài sản góp vốn. Thông qua hành vi chuyển dịch, tài sản từ phần vốn góp
trở thành tài sản của công ty. Công ty trở thành chủ sở hữu vật quyền, còn
thành viên trở thành chủ sở hữu trái quyền đối với phần góp vốn, theo đó
thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm về thực trạng tài sản của mình đúng
như cam kết, phải chịu trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ cam kết và thực hiện
thủ tục chuyển dịch, tùy theo tính chất của mỗi loại tài sản khác nhau.
1.2. HỆ QUẢ CỦA VIỆC GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
1.2.1. Tạo lập ra một thực thể độc lập
Công ty được thành lập trên cơ sở sự góp vốn của một hoặc nhiều
người. Vậy, vấn đề đặt ra là công ty với tư cách là một thực thể pháp lý, một

thực thể kinh doanh mới có sự độc lập như thế nào đối với các thành viên đã
góp vốn để tạo lập nên công ty.
Các quy tắc liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty có
thể không đủ để chi phối các quan hệ phát sinh từ sự hình thành công ty có tổ
chức. Bởi vì, một mặt, nếu giữa lợi ích riêng và lợi ích chung có sự mâu
thuẫn, thì thành viên luôn cớ thiên hướng hy sinh lợi ích cung để bảo vệ lợi
ích riêng; mặt khác, thời gian tồn tại của công ty có thể lâu hơn thời gian tồn
tại của các thành viên.
Chính vì vậy, để bảo vệ tốt lợi ích của công ty cũng như lợi ích của
người thứ ba có quan hệ với công ty, cần công nhận sự tồn tại độc lập của
công ty so với các thành viên. Luật đáp ứng yêu cầu đó bằng cách thừa nhận
cho công ty có tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật. Công ty coi như có
nhân thân riêng của mình, phân biệt với nhân thân của từng thành viên. Được

18
nhân cách hóa, công ty có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ,
nghĩa là có năng lực hành vi, và có tài sản riêng bảo đảm cho việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ đó. Như một con người trừu tượng, công ty thực hiện
các quyền và nghĩa vụ thông qua những con người cụ thể được bố trí vào các
cơ quan của công ty, gọi là các cơ quan quản trị, điều hành và kiểm soát hoạt
động của công ty.
Sau khi được thành lập, công ty có khối tài sản riêng, bao gồm các tài
sản có riêng và các tài sản nợ riêng. Công ty chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
tài sản của mình bằng các tài sản có của mình. Tài sản của công ty độc lập với
khối tài sản của mỗi thành viên: các chủ nợ của thành viên không có quyền
yêu cầu kê biên và bán tài sản của công ty để thực hiện nghĩa vụ riêng của
thành viên; ngược lại các chủ nợ của công ty không có quyền yêu cầu kê biên
và bán tài sản của thành viên để thực hiện các nghĩa vụ của công ty. Trong
quan hệ giữa công ty và thành viên của công ty, các tài sản của công ty không
phải thuộc sở hữu chung của các thành viên công ty: công ty có tài sản riêng

của mình, còn các thành viên khi góp vốn vào công ty thì được hưởng các
quyền từ việc góp vốn đó.
Công ty được thành lập trên cơ sở sự góp vốn của các thành viên. Công
ty được coi là một thực thể được pháp luật thừa nhận kể từ khi nó được đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì công ty được tiến
hành hoạt động với tư cách là một chủ thể độc lập kể từ thời điểm được cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nghĩa là công ty có năng lực pháp luật
kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Khác với
năng lực pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của công ty do luật xác
định về nội dung. Chắc chắn, công ty không thể có các quyền và nghĩa vụ đặc

19
thù của cá nhân, như quyền kết hôn, quyền nhận cha, mẹ cho con, quyền nuôi
con nuôi Mỗi công ty có những mục đích xác định để theo đuổi và, do đó,
có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giới hạn bởi chính các mục đích đó.
Ví dụ: Công ty A đăng ký kinh doanh về sản xuất, lắp giáp, mua bán máy vi
tính thì công ty A được quyền kinh doanh trong các ngành nghề đó mà không
được quyền kinh doanh các ngành nghề chưa đăng ký. Hay công ty trách
nhiệm hữu hạn thì không có năng lực phát hành cổ phiếu;
Công ty không có năng lực hành vi thực. Suy cho cùng, khái niệm năng
lực hành vi của công ty không thể được xây dựng như một khái niệm ứng
dụng được. Công ty, dù được nhân cách hoá, không phải là con người cụ thể
và do đó, không thể tự mình xử sự. Ngay cả các cơ quan của công ty cũng chỉ
vận hành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể đảm nhận các chức vụ
cụ thể. Suy cho cùng, công ty luôn phải được đại diện, từ khi được thành lập
cho đến khi chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi
của công ty thực ra là năng lực hành vi mà công ty vay mượn của những con
người mà công ty hoá thân vào.

Công ty được thành lập theo ý chí của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ
được luật thừa nhận. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm
2005, các chủ thể khi thành lập công ty phải đăng ký kinh doanh cho công ty,
việc đăng ký kinh doanh khi thành lập công ty được thực hiện theo trình tự
sau:
Thứ nhất, người thành lập công ty nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh theo
quy định của Luật Doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm
quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ
sơ đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ
đăng ký kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong thời

20
hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập
doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi, bổ
sung.
Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp
lệ của hồ sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không được yêu
cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy định
tại Luật Doanh nghiệp.
Sau khi được thành lập, với tư cách là một chủ thể pháp lý độc lập,
công ty có các quyền và nghĩa vụ độc lập với các thành viên đã thành lập ra
công ty. Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005 tại Điều 8 quy định rõ
các quyền của công ty bao gồm: Thứ nhất, quyền tự chủ kinh doanh; chủ
động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động
mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước khuyến khích,
ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch
vụ công ích; Thứ hai, quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân
bổ và sử dụng vốn; Thứ ba, quyền chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng

và ký kết hợp đồng; Thứ tư, quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Thứ
năm, quyền tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh;
chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và khả năng cạnh tranh; Thứ sáu, quyền tự chủ quyết định các công
việc kinh doanh và quan hệ nội bộ; chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của
doanh nghiệp; Thứ bảy, quyền từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực
không được pháp luật quy định; Thứ tám, quyền khiếu nại, tố cáo theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; trực tiếp hoặc thông qua người đại
diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật; Và các
quyền khác theo quy định của pháp luật.

21
Về nghĩa vụ của công ty, Luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 2005
cũng quy định cụ thể nghĩa vụ của công ty bao gồm: Thứ nhất, hoạt động kinh
doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh
doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Thứ hai, tổ chức công tác kế
toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo
quy định của pháp luật về kế toán; Thứ ba, đăng ký mã số thuế, kê khai thuế,
nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp
luật; Thứ tư, bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của
pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo
hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm; Thứ
năm, bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu
chuẩn đã đăng ký hoặc công bố; Thứ sáu, thực hiện chế độ thống kê theo quy
định của pháp luật về thống kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thông tin về
doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát hiện các thông tin đã kê khai hoặc
báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các
thông tin đó; Thứ bảy, tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch
sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh; Và các nghĩa vụ khác theo quy định của
pháp luật.
Công ty có cơ cấu tổ chức riêng. Để ngăn ngừa sự lạm quyền của một
hoặc một nhóm cá nhân trong việc điều hành công ty cũng như để thực hiện
các hoạt động của công ty việc tổ chức công ty thành nhiều cơ quan tỏ ra cần
thiết. Việc tổ chức các cơ quan của công ty được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật và điều lệ công ty. Điều lệ của công ty phải có hình thức
và nội dung phù hợp với các quy định của pháp luật áp dụng đối với từng loại

22
công ty. Điều lệ của công ty, một khi được xây dựng và thông qua đúng luật,
có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với tất cả thành viên của công ty. Không
chấp nhận điều lệ, thành viên chỉ có mỗi cách xử sự đúng luật là xin ra khỏi
công ty. Điều lệ hợp pháp của công ty cũng có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba.
Một cách tổng quát, công ty có hai nhóm cơ quan chính: cơ quan quyết
nghị và cơ quan chấp hành. Công ty có quy mô tổ chức lớn còn có thêm cơ
quan kiểm soát.
Cơ quan quyết nghị của công ty: là cơ quan có quyền quyết định cao
nhất của pháp nhân và có cả khả năng định đoạt số phận pháp lý của pháp
nhân (sáp nhập, giải thể, ). Cơ quan này được tổ chức dưới hình thức đại hội
thành viên.
Cơ quan chấp hành của công ty: là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện
các quyết định của cơ quan quyết nghị, đồng thời đảm nhận việc quản lý đối
với các công việc hàng ngày của công ty, kể cả việc đại diện cho công ty
trong quan hệ với người thứ ba. Cơ quan chấp hành có thể mang những tên
gọi khác nhau: ban giám đốc, hội đồng quản trị, ban quản lý, Bằng hoạt
động của mình, cơ quan chấp hành ràng buộc trách nhiệm của công ty đối với
những giao dịch mà cơ quan chấp hành xác lập và thực hiện nhân danh công

ty và trong giới hạn quyền và nhiệm vụ được giao.
Cơ quan kiểm soát: là cơ quan có trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp
của các hoạt động của công ty. Thông qua hoạt động kiểm soát, cơ quan này
đánh giá chất lượng pháp lý của sự vận hành của công ty cũng như của các
giao dịch mà công ty xác lập với người thứ ba.
Công ty có nhân thân riêng của mình bao gồm: quốc tịch, tên gọi, trụ sở,
uy tín thương hiệu.

23
Về tên của công ty, công ty phải có tên gọi riêng và phải sử dụng tên gọi
của mình trong các giao dịch. Tên gọi của công ty theo pháp luật Việt Nam
phải bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt
với các công ty khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động, ví dụ: công ty cổ
phần Bảo Việt, Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu, Công ty có
thể sử dụng tên gọi tắt hoặc tên gọi bằng tiếng nước ngoài trong các hoạt động
trao đổi thông tin hoặc trong quan hệ giao tế.
Tên gọi của công ty là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ. Tên thương
mại còn có giá trị tài sản, có thể được chuyển nhượng và được bảo hộ theo
quy định của pháp luật. Bởi vậy, việc lựa chọn tên gọi của công ty không tự
do như việc đặt tên cho một cá nhân.
Về trụ sở của công ty, công ty có trụ sở tại nơi đặt cơ quan điều hành
của mình, dù có thể toàn bộ hoặc một phần lớn hoạt động của công ty được
thực hiện ở nơi khác. Trụ sở của công ty, trong chừng mực nào đó, mang ý
nghĩa đối với công ty (và đối với người giao dịch với công ty) như nơi cư trú
của cá nhân: nếu công ty là bị đơn trong một vụ tranh chấp liên quan đến
động sản, thì Toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trên nguyên tắc, là
Toà án nơi có trụ sở của công ty
Về quốc tịch của công ty. Cũng như cá nhân, công ty có quốc tịch riêng.
Tất cả các công ty có trụ sở tại Việt Nam, trên nguyên tắc là công ty Việt
Nam.

Về uy tín thương hiệu của công ty, với tư cách là một chủ thể của quan
hệ xã hội, công ty có thương hiệu, uy tín của riêng mình, độc lập với uy tín,
danh dự của cá nhân thành viên. Uy tín, thương hiệu của công ty hình thành
trong quá trình hoạt động của công ty nhằm vươn tới mục đích của mình và
được củng cố bằng hiệu quả hoạt động của công ty.

24
Về quyền kiện cáo bảo vệ lợi ích riêng, công ty có quyền kiện để yêu
cầu bảo vệ lợi ích của công ty, trong lĩnh vực tài sản (đòi nợ hội phí, đòi lại
tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật, đòi bồi thường thiệt hại vật chất,…) hoặc
phi tài sản (đòi bồi thường thiệt hại về tinh thần).
Về chấm dứt công ty, công ty chấm dứt khi rơi vào một trong các trường
hợp sau: Một là hợp nhất, sáp nhập, chia, tách công ty; Hai là, giải thể công
ty; Ba là, công ty bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
Như vậy, công ty là một thực thể độc lập, sau khi ra đời nó tồn tại và
chấm dứt độc lập với sự tồn tại và chấm dứt của các thành viên đã góp vốn
thành lập công ty. Công ty có các quyền và nghĩa vụ pháp lý độc lập với các
chủ thể đã góp vốn thành lập ra nó. Công ty có tên gọi, trụ sở, cơ cấu tổ chức
riêng. Công ty có tài sản riêng độc lập với tài sản của các thành viên và công
ty trịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình khi tham gia các quan hệ xã
hội.
1.2.2. Hệ quả đối với những ngƣời góp vốn
Khi đã cam kết góp vốn thành lập công ty là các thành viên đã tự ràng
buộc mình vào các nghĩa vụ và quyền lợi nhất định từ việc góp vốn đó. Hệ
quả pháp lý của việc góp vốn thành lập công ty đối với những người góp vốn
có thể được xem xét dưới hai khía cạnh là quyền lợi và nghĩa vụ.
Bộ luật dân sự Pháp quy định:
“Mỗi hội viên là người có nghĩa vụ đối với công ty về những gì họ đã
hứa đóng góp bằng hiện vật, bằng tiền hoặc bằng công nghệ…
Người hội viên phải góp một số tiền vào công ty mà không đóng góp thì

đương nhiên trở thành người mắc nợ đối với khoản lãi của số tiền đó kể từ
ngày phải góp tiền và bồi thường thiệt hại, nếu có” [Điều 1843-3].
Như vậy, khi đã thỏa thuận góp vốn thành lập công ty thì người góp
vốn đã tự ràng buộc mình vào một nghĩa vụ đối với công ty. Nếu đến hạn mà

25
người đó không thực hiện nghĩa vụ (đóng góp) thì đương nhiên trở thành
người mắc nợ đối với công ty và phải chịu khoản lãi đối với khoản đóng góp
kể từ ngày phải đóng góp, đồng thời phải bồi thường thiệt hại nếu có.
Phản ánh các quan điểm khoa học này, bộ luật dân sự Bắc Kỳ 1931 có
quy định: “Nếu khế ước không có kỳ hạn hay một điều kiện gì, thì chính ngày
hôm ấy, các thành viên phải nộp phần mình đã hứa góp, nếu không thì đương
nhiên phải trả hoa lợi cùng lời lãi và đồng thời phải bồi tổn hại vì lẽ chậm
trễ, dù là tiền bạc cũng vậy” [Điều thứ 1205].
Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật (bộ luật dân sự Trung Kỳ 1936) quy
định: “Mỗi hội viên đối với hội là người mắc nợ về phần mình đã góp, và phải
góp ngay vào ngày hội thành lập; nếu không thời đương nhiên phải trả hoa
lợi hay là tiền lời của phần mình cho hội, chiếu theo số tiền lời luật định, nếu
phần góp ấy là một số tiền, và có khi lại phải bồi tổn hại nhiều vì lẽ góp chậm
nữa” [Điều thứ 1437].
Theo khuynh hướng này, Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam có
quy định:
“Trường hợp có thành viên không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam
kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên đó đối với công ty;
thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không
góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. [khoản 2, Điều 39].
Trước hết nếu xem xét góp vốn dưới khía cạnh là một nghĩa vụ, thì góp
vốn là nghĩa vụ căn bản của thành viên khi thành lập công ty. Khi cam kết hay
thỏa thuận góp vốn thành lập công ty, thành viên đã tự ràng buộc mình trở
thành người thụ trái hay con nợ của công ty. Khi người ta góp tài sản vào

công ty thì tài sản đó trở thành đối tượng sở hữu của công ty - một thực thể
pháp lý độc lập. Nếu thành viên không góp vốn hoặc góp vốn chậm thì công
ty có quyền đòi. Với việc không thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn thành viên

26
sẽ phải chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định như phải trả lãi, phải bồi
thường thiệt hại….
Nếu xem xét dưới khía cạnh quyền lợi, khi góp vốn vào công ty người
góp vốn được hưởng các quyền lợi nhất định đối với công ty. Khi người ta
góp tài sản vào công ty, thì tài sản đó trở thành đối tượng sở hữu của công ty
bởi hợp đồng thành lập công ty đã tạo ra một thực thể tách biệt hay một pháp
nhân có sản nghiệp riêng. Mỗi thành viên của công ty có được từ hành vi góp
vốn này một quyền lợi đối với công ty tương ứng với phần vốn góp của mình
xét theo lẽ thông thường. Tuy nhiên, các quyền lợi và nghĩa vụ của thành viên
còn phụ thuộc vào loại cổ phần được quy định trong hợp đồng thành lập hay
điều lệ của công ty mà vốn của nó được chia ra thành các cổ phần.
Thành viên được hưởng các quyền từ việc góp vốn vào công ty như:
quyền hưởng lợi tức từ hoạt động của công ty, quyền biểu quyết tương ứng
với phần vốn góp, quyền tham gia quản lý công ty… và thành viên chỉ chịu
trách nhiệm đối với khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào
công ty, đồng thời thành viên chỉ được rút vốn trong những điều kiện nhất
định như: mua bán, chuyển nhượng….
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005, thành viên góp
vốn vào công ty có các quyền chủ yếu bao gồm: Thứ nhất, được chia lợi
nhuận tương ứng với phần vốn góp; Thứ hai, được quyền biểu quyết tương
ứng với phần vốn góp; Thứ ba, được quyền tham gia quản lý công ty; Thứ tư,
được quyền định đoạt phần vốn góp của mình bằng cách chuyển nhượng, để
thừa kế, tặng cho…; Thứ năm, được chia giá trị tài sản còn lại của công ty
tương ứng với phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá sản.
Các quyền lợi của thành viên trong công ty như nêu trên đều là động

sản mặc dù có thể thành viên góp vốn bằng bất động sản, bởi hành vi góp vốn
đã làm cho tài sản trở thành đối tượng của quyền sở hữu của công ty.

27
Các quyền lợi chủ yếu của thành viên trong công ty đối nhân là những
phần lợi được thể hiện bằng việc được chia lợi nhuận theo quy định tại hợp
đồng thành lập công ty. Các quyền lợi trong công ty đối vốn cũng là các phần
lợi được thể hiện bằng việc được chia lợi nhuận và biểu quyết tương ứng với
phần vốn góp. Việc chuyển nhượng các phần lợi này phải tuân thủ những quy
chế do pháp luật quy định, nhất là đối với các công ty đối nhân.
1.3. HìNH THứC Và THủ TụC THỏA THUậN GóP VốN
1.3.1. Hình thức thỏa thuận góp vốn
Hình thức thỏa thuận góp vốn nghĩa là thoả thuận góp vốn được biểu
hiện ra ngoài thế giới vật chất dưới dạng nào và như thế nào. Nói tới hình
thức thoả thuận góp vốn người ta phải xem xét nó dưới dạng hình thức chứng
cứ và kết cấu nội dung.
1.3.1.1. Hình thức chứng cứ
Xét theo khía cạnh hình thức chứng cứ, thoả thuận góp vốn có hai dạng
biểu hiện đó là bằng văn bản và không bằng văn bản.
Thoả thuận góp vốn dưới dạng văn bản. Đây là hình thức biểu hiện chủ
yếu của thoả thuận góp vốn. Thoả thuận góp vốn có thể được thể hiện bằng
một văn bản độc lập, một cam kết góp vốn hoặc là một điều khoản trong hợp
đồng góp vốn thành lập công ty.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự Pháp:
“Công ty do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng
hợp đồng về việc đóng góp, sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt
động kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi.
Trong những trường hợp do pháp luật quy định, công ty có thể do một
người thành lập.
Các thành viên công ty cam kết cùng chịu lỗ.” [Điều 1832]


28
Như vậy, theo Bộ luật Dân sự Pháp việc góp vốn thành lập công ty phải
được lập thành hợp đồng. Nói chung, pháp luật các nước đều quy định việc
góp vốn phải được lập thành hợp đồng và góp vốn hay điều khoản về vốn là
một điều khoản thiết yếu của hợp đồng thành lập công ty. Chẳng hạn pháp
luật về công ty của Malaysia và Singapore quan niệm: Trừ khi là một công ty
có trách nhiệm vô hạn, hợp đồng thành lập của công ty nhất thiết phải chứa
đựng một điều khoản về vốn (capital clause) mà trong đó có tuyên bố về
khoản vốn được phép và phân chia vốn đó thành các cổ phần với số lượng ấn
định trở thành giới hạn mà công ty có thể được phép quyên góp [35, tr.155-
156].
Thỏa thuận góp vốn được thực hiện giữa những người góp vốn thành
lập công ty hoặc cam kết góp vốn thành lập công ty đối với công ty một thành
viên mang lại quyền cho người thứ 3 đó là công ty - với tư cách là một thực
thể pháp lý độc lập. Bởi vì, người góp vốn có nghĩa vụ phải chuyển giao vốn
góp cho công ty có thể bằng tài sản hoặc các hình thức khác sau khi công ty
được thành lập. Và ở đây, công ty có quyền yêu cầu người góp vốn phải chịu
các trách nhiệm nhất định nếu người góp vốn thực hiện không đúng thỏa
thuận góp vốn và gây thiệt hại cho công ty (như ở phần trên đã phân tích).
Như vậy, góp vốn thành lập công ty là hành vi pháp lý mang lại quyền lợi cho
người thứ ba. Do vậy, đòi hỏi cam kết góp vốn, thỏa thuận góp vốn hay hợp
đồng thành lập công ty trong đó có điều khoản góp vốn phải được lập thành
văn bản. Văn bản này là cơ sở pháp lý để chứng minh quyền và nghĩa vụ của
các bên. Đồng thời cam kết góp vốn hay hợp đồng thành lập công ty trong đó
có thỏa thuận góp vốn còn là căn cứ để các bên xây dựng điều lệ công ty và là
tài liệu trong hồ sơ để các bên thực hiện đăng ký kinh doanh.
1.3.1.2. Kết cấu nội dung

×