Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần á châu chi nhánh duyên hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.99 KB, 72 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.

CIC = credit information centre

: Trung tâm tín dụng

2.

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

3.

BCTC

: Báo cáo tài chính

4.

TSTC

: Tài sản tài chính


5.

TCDN

: Tài chính doanh nghiệp

6.

TMCP

: Thương mại cổ phần

7.

HĐSXKD

: Hoạt động sản xuất kinh doanh

8.

ACB

: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu

9.

NHTM

: Ngân hàng thương mại


10. BCĐKT

: Bảng cân đối kế toán

11. TSNH – DH

: Tài sản ngắn hạn – Dài hạn

12. KHCN - DN

: Khách hàng cá nhân – Doanh nghiệp

13. TSCĐ

: Tài sản cố định

14. VCSH

: Vốn chủ sở hữu


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thành tựu phát triển kinh tế của các nước thời gian qua đã khẳng định vai
trò quan trọng của nhà đầu tư cho vay đối với sự thúc đẩy phát triển của mỗi
quốc gia nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng.
Ở Việt Nam trong những năm qua việc mở rộng hoạt động cho vay đã tạo
đà cho nền kinh tế, góp phần quan trọng cho sự phát triển và thực hiện công cuộc

công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đầu tư cho vay để có hiệu quả luôn là
vấn đề phải cân nhắc thảo luận không chỉ đối với các chủ đầu tư mà còn với các
nhà tài trợ vốn, các cơ quan quản lý,… khi đưa ra các quyết định liên quan đến
dự án.
Hoạt động cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng mang
lại lợi nhuận rất cao nhưng lại hàm chứa nhiều rủi ro hơn so với các hoạt động
khác. Trong hoạt động tài trợ vốn cho doanh nghiệp, các khoản vay thường lớn,
trong khi chênh lệch giữa thu nhập và chi phí của chúng ngày càng nhỏ do sự
cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Do đó, chỉ cần một khoản vay không thu
được không chỉ làm cho lợi nhuận của ngân hàng từ khoản vay đó bị mất đi mà
rất có thể sẽ ảnh hưởng đến các khoản vay khác. Để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro
trong hoạt động tín dụng của ngân hàng tới mức thấp nhất, đòi hỏi công tác tín
dụng nói chung và hoạt động thẩm định tín dụng nói riêng phải được xem xét,
nghiên cứu kỹ hơn và toàn diện hơn phù hợp với điều kiện của nền kinh tế và của
mỗi ngân hàng.
Là một Chi nhánh cấp I được thành lập và đi vào hoạt động từ năm 2005,
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải luôn nhận thức
rõ được những khó khăn và thách thức trong hoạt động kinh doanh của mình. Để
tồn tại và phát triển, Chi nhánh đã đề ra chiến lược kinh doanh nhằm thực hiện có
hiệu quả các chỉ tiêu về nguồn vốn, sử dụng vốn, và các dịch vụ ngân hàng khác.
Tuy nhiên, dù nhiều cố gắng nỗ lực và tiên phong đi đầu trong các hoạt động
hiện đại hóa ngân hàng và đạt được những kết quả khả quan, nhưng quá trình
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh
Duyên Hải vẫn còn những bất cập, đặc biệt là một số hạn chế về phân tích tài
chính của khách hàng doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh. Để


2
giúp ngân hàng khắc phục tồn tại trên tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu: “Phân
tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng thương

mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
cho vay tại các ngân hàng thương mại.
- Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp trong các dự án cho vay tại
ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Phân tích tài chính của những khách hàng cho
vay là doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh
Duyên Hải.
- Phạm vi nghiên cứu: Là các dự án cho vay doanh nghiệp mà ngân hàng
thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải tham gia tài trợ tín dụng
trong thời gian gần đây. Ví dụ minh họa: “Dự án đầu tư xây dựng Xưởng sản
xuất bê tông thương phẩm và sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn của Công ty
cổ phần Xây dựng và vận tải Thăng Long”.
- Về thời gian: Tập trung phân tích tài chính của chính doanh nghiệp
trong các dự án cho vay doanh nghiệp tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
- Chi nhánh Duyên Hải từ năm 2011 - 2013
4. Phương pháp nghiên cứu.
Xuất phát từ những lý luận chung, tác giả vận dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu, kết hợp chặt chẽ phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử với phương pháp khái quát hóa, cụ thể hóa, phương pháp hệ thống điều
tra thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh làm phương pháp luận trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
- Chuyên đề hệ thống hóa những vấn đề về lý luận cơ bản về hoạt động
cho vay, cho vay doanh nghiệp, nội dung phân tích tài chính trong hoạt động cho



3
vay khách hàng doanh nghiệp để từ đó làm nền tảng cho việc phân tích tình hình
thực tế tại đơn vị và đề xuất hoàn thiện.
- Chuyên đề đánh giá thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp trong
các dự án cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên
Hải, nêu lên được những ưu điểm và vấn đề còn tồn tại ở đơn vị.
- Chuyên đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay của các dự án đầu tư tại ngân
hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải.
6. Nội dung kết cấu của chuyên đề.
- Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày thành 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải.
Chương 3: Hoàn thiện phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
cho vay tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu - Chi nhánh Duyên Hải.


4

CHƯƠNG 1
CƠ SƠ LÝ LUẬN CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ MỤC
ĐÍCH PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP.
1.1.1. Rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng.

Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh khi một hoặc các bên tham gia hợp đồng
tín dụng không có khả năng thanh toán cho bên còn lại. Đối với các ngân hàng
thương mại, rủi ro tín dụng xảy ra trong trường hợp ngân hàng không thu được
đầy đủ cả gốc và lãi của các khoản cho vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi
vay không đúng hạn.
Rủi ro tín dụng trong ngân hàng không chỉ giới hạn ở các hoạt động cho
vay mà còn bao gồm rất nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như: bảo
lãnh, cam kết, tài trợ ngoại thương, cho vay tài chính, cho vay trên thị trường liên
ngân hàng…Thông thường trong các NHTM thì đây là loại rủi ro lớn nhất,
thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại nhiều nhất bởi hoạt động tín dụng đầu tư là
hoạt động chủ yếu của bất kỳ một ngân hàng nào.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động tín dụng ngân hàng luôn tiềm ẩn
những rủi ro. Vì vậy, vấn đề quan trọng mà các ngân hàng đặt ra là cần quản trị
rủi ro như thế nào để hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất nhưng vẫn phải đáp ứng
được yêu cầu mở rộng và phát triển cho vay. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến
rủi ro tín dụng. Thông thường, người ta phân rủi ro tín dụng thành ba nhóm:
nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân thuộc về người vay, nguyên nhân
khác.
1.1.1.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng:
Thứ nhất: Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu kém ở đây bao gồm cả
về năng lực và phẩm chất đạo đức. Nếu một cán bộ tín dụng non kém về trình độ,
thiếu kiến thức, thiếu kinh nghiệm thì sẽ không có khả năng thẩm định và xử lý
thông tin, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, mức vay,lãi suất vay và kỳ hạn
không phù hợp; dẫn đến chất lượng tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngoài ra, nếu cán
bộ tín dụng không tuân thủ theo đúng quy trình tín dụng như giải ngân trước khi
hoàn thành chứng từ hay không kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của người
vay, thì việc mất vốn rất dễ xảy ra. Hơn nữa, cán bộ tín dụng mà phẩm chất đạo
đức kém, không có tinh thần trách nhiệm, dễ bị cám dỗ thì sẽ gây thiệt hại rất lớn



5
cho ngân hàng bằng cách cho vay chỉ dựa trên mối quan hệ với khách hàng, dựa
trên lợi ích cá nhân mà bỏ qua những điều kiện và thủ tục cần thiết.
Thứ hai: Sự giám sát của các cấp quản lý trong ngân hàng là thiếu sát sao.
Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh đạo trước khi giải ngân. Vậy nên
nếu cấp trên không có sự kiểm tra, đánh giá xem quyết định của cán bộ đã thực
sự chính xác chưa thì nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ là rất cao. Hơn nữa, sau khi giải
ngân rồi, cán bộ tín dụng vẫn phải tiếp tục theo dõi khách hàng để sớm phát hiện
ra dấu hiệu của những khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc theo dõi này đối với
nhiều cán bộ chỉ mang tính hình thức. Do vậy, nếu các cấp quản lý không có sự
giám sát đối với cán bộ tín dụng, hoạt động của các cán bộ tín dụng sẽ không
hiệu quả, thậm chí dẫn đến những sai phạm đạo đức trong cho vay và thu nợ.
Ngoài ra, các cơ quan cấp trên không quan tâm đến thực trạng tín dụng của ngân
hàng thì sẽ không có những chỉ đạo kịp thời để ngăn ngừa và xử lý rủi ro xảy ra.
Thứ ba: Ngân hàng chưa đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Một công cụ
luôn được nhắc đến trong quản trị tín dụng ở tất cả các ngân hàng trên thế giới là
quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục làm cân đối và kiềm chế rủi ro bằng
cách nhận dạng, dự báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, khách
hàng, loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên
gia ngân hàng tin rằng đa dạng hoá là giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu
hiệu nhất. Mặc dù hiểu rõ tầm quan trọng của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư,
song rất nhiều ngân hàng chỉ cho vay một hoặc hai ngành hoặc chỉ cho vay một
vài doanh nghiệp lớn, nhóm kinh doanh đơn lẻ. Một danh mục đầu tư phụ thuộc
chủ yếu vào một ngành hay một loại mặt hàng là rất nguy hiểm vì không ngành
nào là không có rủi ro.
Thứ tư: Định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng. Về
cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo bù đắp
được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần
bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng
cao, phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể

chấp nhận mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí
quản lý, không tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn không những
làm giảm lợi nhuận mà còn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng.
1.1.1.2. Nguyên nhân thuộc về người vay:


6
Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro tín dụng, có thể chia nhóm này
thành hai loại chính:
Thứ nhất: Do khách hàng kinh doanh thua lỗ nên mất khả năng trả nợ.
Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình độ yếu kém trong dự đoán
các vấn đề kinh tế, yếu kém trong năng lực quản lý, sử dụng vốn sai mục đích,
sản phẩm chất lượng thấp không bán được… Hơn nữa có rất nhiều người vay sẵn
sàng lao vào những cơ hội kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận
cao, mà không tính toán kỹ hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có
thể xảy ra nên khả năng xảy ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Thứ hai: Do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để đạt
được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn
để ứng phó với ngân hàng như mua chuộc hoặc cung cấp các báo cáo tài chính
sai lệch. Trong trường hợp này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá
sai về khả năng tài chính của khách và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn
không hợp lý, dẫn đến rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Ngoài ra, cũng có những trường
hợp người kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà
cố tình kéo dài với ý định không trả nợ hoặc tiếp tục sử dụng vốn vay càng lâu
càng tốt.
1.1.1.3. Nguyên nhân khác:
Những nguyên nhân này phần lớn xuất hiện từ môi trường xung quanh
như chất lượng thông tin, biến động kinh tế, chính sách pháp luật…
Thứ nhất: Chất lượng thông tin chưa cao. Các thông tin mà ngân hàng thu

thập thường liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của
khách hàng, tình hình kinh tế xã hội, cạnh tranh trên thị trường; sau đó dựa vào
các thông tin thu thập được để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế thì
không phải lúc nào các thông tin ngân hàng thu thập được đều có tính chính xác,
đầy đủ và kịp thời. Do vậy, nếu hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng không
hoạt động có hiệu quả, cập nhật được những thông tin đáng tin cậy thì tất yếu dẫn
đến việc ngân hàng thất thoát vốn khi cho vay.
Thứ hai: Những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn
định, tăng trưởng lành mạnh thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia
tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện
những biến động kinh tế như lạm phát, giá tăng ở một số mặt hàng nào đó ảnh
hưởng đến một nhóm ngành thì rủi ro tín dụng với ngân hàng là rất lớn. Nhiều
người vay có thể thích ứng và vượt qua khó khăn đó, nhưng cũng có rất nhiều
người bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ nên khả năng trả nợ vốn
vay ngân hàng không được đảm bảo.


7
Thứ ba: Sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật. Sự thiếu nhất
quán trong các chính sách kinh tế pháp luật cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới
ngân hàng cũng như như các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay ngân hàng. Hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không ổn định khi có những thay đổi trong
quy định về thuế, vốn..,cũng như hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị tác
động nhiều bởi những văn bản luật về tài sản đảm bảo, dự trữ, trích lập… Như
vậy, các chính sách kinh tế, pháp luật không hoàn chỉnh cũng gây khó khăn có
doanh nghiệp về khả năng trả nợ, cũng như đe doạ đến sự an toàn của ngân hàng
trong cho vay.
Rủi ro tín dụng trong ngân hàng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên,
dù nguyên nhân đến từ phía nào thì sau cùng chủ yếu cũng do công tác hoạch
định chiến lược, sự quản lý và kiểm soát của Ban lãnh đạo ngân hàng, cũng như

trình độ yếu kém của cán bộ tín dụng trong năng lực và đạo đức, dẫn đến việc
thẩm định đánh giá khách hàng không chính xác. Do đó để giảm thiểu rủi ro tín
dụng thì công tác thẩm định khách hàng là điều vô cùng quan trọng, nhất là đối
tượng khách hàng là doanh nghiệp.
1.1.2. Mục đích của phân tích tài chính trong hoạt động cho vay doanh
nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp (TCDN) sử dụng một tập hợp
khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép xử lý các thông tin trong báo cáo
tài chính (BCTC) của doanh nghiệp và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh
giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Phân tích tình hình tài chính để cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích cho
các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính khác
để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi ra quyết định đầu tư, quyết định
cho vay.
Phân tích tình hình tài chính để cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư, nhà
cho vay và những người sử dụng thông tin khác đánh giá khả năng và tính chắc
chắn của dòng tiền mặt vào ra và tình hình sử dụng có hiệu quả nhất vốn kinh
doanh, tình hình và khả năng thanh toán của công ty.
Phân tích tình hình tài chính để cung cấp thông tin về nguồn vốn chủ sở
hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự kiện
và các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản nợ của doanh
nghiệp.


8
Các mục tiêu phân tích ở trên có mối liên hệ mật thiết với nhau, nó góp
phần cung cấp những thông tin nền tảng đặc biệt quan trọng cho nhà cấp vốn tín
dụng cho vay.
Tóm lại, phân tích tình hình TCDN là một công việc có ý nghĩa cực kỳ

quan trọng trước khi quyết định cho vay của các ngân hàng, nó không chỉ có ý
nghĩa cho bản thân ngân hàng cho vay, mà còn cần thiết cho các chủ thể quản lý
khác có liên quan đến doanh nghiệp. Cụ thể, là nó cung cấp kịp thời đầy đủ và
trung thực các thông tin tài chính cần thiết cho chủ doanh nghiệp và các nhà cho
vay, cung cấp thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn, khả
năng sinh lời và hiệu quả sản xuất kinh doanh, cung cấp thông tin về tình hình
công nợ, khả năng thu hồi các khoản phải thu, khả năng thanh toán các khoản
phải trả cũng như các nhân tố khác ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty.
1.1.3. Vai trò phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động phức tạp thì rủi ro là không
thể loại trừ và đặc biệt rủi ro từ dự án đầu tư là mối quan tâm hàng đầu của chủ
đầu tư cũng các ngân hàng, nhà tài trợ vốn,... Do vậy, để dự đoán chính xác kết
quả mà dự án đem lại và xem xét có nên đầu tư hay không thì không chỉ phương
án sản xuất kinh doanh đó được thẩm định trên mọi phương diện mà bản thân
chính doanh nghiệp lập dự án sản xuất kinh doanh đó cũng phải được phân tích,
đánh giá một cách chi tiết và chính xác.
Phân tích tài chính doanh nghiệp chính là nhận thức, xem xét và đánh giá
một cách toàn diện các vấn đề về phương diện tài chính của doanh nghiệp, ảnh
hưởng trực tiếp tới quyết định và tổ chức thực hiện đầu tư cho vay. Phân tích về
phương diện tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp cho phép đánh
giá tình hình và hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Có thể khẳng định phân
tích tài chính là công cụ quan trọng không thể thiếu khi cân nhắc cho vay một
doanh nghiệp, các số liệu mà nó cung cấp rất có ích cho nhà đầu tư, cơ quan quản
lý nhà nước, nhà tài trợ vốn, nhà bảo hiểm và người lao động trực tiếp.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước: Các doanh nghiệp được cho vay dù
thuộc nguồn vốn nào, thành phần kinh tế nào khi tiến hành vay vốn đầu tư, mở
rộng sản xuất đều có thể gây tác động xấu đến môi trường, cộng đồng như: xử lý
chất thải, làm cạn kiện nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên trong dự án vay đó.



9
Cơ quan quản lý nhà nước cần kiểm tra để đưa ra các biện pháp khắc phục hoặc
hỗ trợ doanh nghiệp. Quy chế đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định số
52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ nêu rõ giai đoạn chuẩn bị đầu tư
cực kỳ quan trọng mà quyết định là ở khâu thẩm định dự án và khâu thẩm định
doanh nghiệp cho vay.
Đối với các NHTM: Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của
phần lớn các NHTM, tuy nhiên nó cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Để hạn chế
rủi ro, ngân hàng phải lựa chọn những doanh nghiệp có khả năng trả nợ tốt để tài
trợ cho vay. Qua phân tích tài chính, ngân hàng có thể xác định: doanh nghiệp có
đủ khả năng trả nợ hay không, thời gian hoàn trả nợ của doanh nghiệp, tính toán
được lợi nhuận thu về trong tương lai của dự án,… để ra quyết định cho vay đối
với doanh nghiệp hay không.
Đối với các nhà bảo hiểm: Đánh giá khả năng tài chính của doanh nghiệp
để giúp họ thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm nhằm hạn chế đến mức thấp nhất
những rủi ro xảy ra với doanh nghiệp.
Đối với người lao động: Giúp họ yên tâm công tác, ổn định cuộc sống để
từ đó họ có thể dốc sức phục vụ cho doanh nghiệp theo những công việc đã được
phân công đảm nhiệm.
Từ các vấn đề trên cho thấy phân tích tài chính là công cụ hữu ích, được
sử dụng để xác định hiệu quả kinh tế, đánh giá được ưu điểm, nhược điểm để từ
đó họ ra quyết định đúng đắn với mục đích mà họ mong muốn.
1.2. NỘI DUNG PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP.
Đứng về góc độ NHTM cho vay, việc trả đủ lãi và gốc của của khách
hàng khi đến hạn là quan trọng nhất trong bất kỳ một món vay nào. Khi phân tích
đánh giá cần tìm ra được mối liên hệ giữa các tỷ số tính toán được để có thể đưa
ra những kết luận chính xác về doanh nghiệp. Hoàn toàn không có một chuẩn

mực nào cho phần phân tích theo từng tỷ số. Một hoặc một số chỉ số là tốt cũng
chưa thể kết luận là doanh nghiệp đang trong tình trạng tốt. Do đó, phân tích
đánh giá tình hình tài chính khách hàng thực chất là ngân hàng đang đi phân tích
khả năng trả nợ và ý chí trả nợ của khách hàng.

1.2.1.1. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp.


10
Khả năng sinh lời cũng có thể gọi là hiệu quả đầu tư. Thông thường có hai
cách tiếp cận: một là để kiểm tra hiệu quả quản lý đối với đồng vốn đầu tư bỏ ra,
dựa trên mối quan hệ giữa vốn và lợi nhuận (khả năng sinh lời của một đồng
vốn); và một là để kiểm tra mức lợi nhuận đạt được của một công ty dựa trên mối
quan hệ giữa mức bán hàng và lợi nhuận (khả năng sinh lời so với chi phí)
• Mức sinh lời trên vốn (ROA/ROE)
Khả năng sinh lời tổng tài sản

=

(ROA)

Lợi nhuận trước thuế
Tổng tài sản

Hệ số này cho biết khả năng sinh lời của tất cả các khoản vốn đầu tư trong
công ty và là chỉ số cơ bản nhất. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.

Khả năng sinh lời trên vốn chủ sở hữu
(ROE)


=

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu

Chỉ số này được tính để biết được lợi nhuận thực tế đạt được trên vốn chủ
sở hữu của khách hàng, đánh giá khả năng kinh doanh thực hiện của doanh
nghiệp: Một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu lợi nhuận. Chỉ số này càng
cao càng tốt, ít nhất phải cao hơn lãi vay trong kỳ
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu

=

(tỷ suất lợi nhuận ròng)

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu bán hàng

Chỉ số này đánh giá năng lực kinh doanh, cạnh tranh của khách hàng trong
việc tạo ra lợi nhuận.
Mức sinh lời trên tài sản chính

=

Thu nhập từ các khoản lời, cổ tức × 100%
Tài sản chính

(Tài sản tài chính = Các khoản đầu tư + Tiền mặt và tiền gửi + Chứng
khoán + Các TSTC khác)
Nhiều doanh nghiệp tạo lợi nhuận không chỉ dựa trên tài sản hoạt động mà

còn dựa trên tài sản tài chính. Nếu tỷ lệ của loại tài sản này lớn trong tổng giá trị
tài sản có thể việc phân tích tỷ số này càng quan trọng hơn.
* Mức sinh lời từ hoạt động bán hàng


11

Tỷ suất lợi nhuận gộp

Lợi nhuận gộp từ bán hàng x 100%

=

Doanh thu

Đây là tỷ số thể hiện mức độ tạo lợi nhuận trực tiếp từ hoạt động bán
hàng. Lợi nhuận gộp từ bán hàng được tính bằng cách lấy Doanh thu trừ đi chi
phí hàng bán (chi phí cần thiết để sản xuất hoặc mua hàng). Tỷ số này càng cao
càng tốt.

Mức lời hoạt động

Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và các
hoạt động phụ x 100%

=

Doanh thu
Đây là tỷ số giữa lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và các hoạt động phụ
so với doanh thu. Nó là một chỉ số đại diện cho khả năng sinh lời tổng thể của

một công ty. Các hoạt động phụ ở đây gồm cả việc tăng vốn của công ty. Do đó
đây là tỷ lệ quan trọng nhất trong việc đánh giá khả năng sinh lời chung.
1.2.1.2. Tính ổn định của doanh nghiệp.
Rất nhiều doanh nghiệp bị phá sản so thiếu vốn. Do vậy, bằng cách kiểm
tra việc tăng vốn và khả năng quản lý từ nhiều góc độ khác nhau, sự ổn định và
vững vàng của công ty được đánh giá qua việc kiểm tra khả năng của công ty đó
có thể trả được các khoản nợ thương mại và hoàn toàn trả vốn hay không. Do
những tỷ số này được tính toán dựa trên tài sản Có tại một thời điểm nhất định
(lấy từ số liệu của bảng tông kết tài sản), nên chúng còn được gọi là các tỷ số
tĩnh.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán (tính lỏng)
Hệ số khả năng thanh toán ngắn
hạn

=

Tài sản ngắn hạn x 100%
Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn đến hạn

Tỷ số này được dùng để đánh giá khả năng thanh toán chung của doanh
nghiệp:
• Một tỷ lệ quá cao có thể dẫn đến những nhận định sau đây về doanh
nghiệp: quá nhiều tiền nhàn rỗi; quá nhiều các khoản thu; quá nhiều hàng tốn
kho.
• Một tỷ lệ nhỏ hơn 1 có thể cho ta những nhận định rằng công ty: trả chậm
các nhà cung ứng quá nhiều; dùng các khoản vay ngắn hạn để mua tài sản cố


12
định; dùng các khoản vay ngắn hạn để trả các khoản nợ thay vì dùng lợi nhuận

trong hoạt động kinh doanh để chi trả.
Hệ số khả năng thanh toán
nhanh

=

Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn

Đây là chỉ số đánh giá khả năng thanh toán nhanh, được tình giữa các tài
sản Có có tính lỏng cao (như tiền mặt và tiền gửi, các khoản phải thu và chứng
khoán có khả năng bán ngay) với tài sản Nợ ngắn hạn. Do đó hệ số thanh toán
nhanh có thể kiểm tra tình trạng tài sản một cách chặt chẽ hơn so với hệ số thanh
toán ngắn hạn. Thông thường hệ số này > 1 được coi là doanh nghiệp có tình
hình thanh toán khả quan và ngược lại doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh
toán.

Hệ số khả năng thanh toán tức thời

=

Tiền + Các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn

Hệ số này > 0,5 là tốt, hệ số khả năng thanh toán tức thời cho biết khả
năng huy động tức thời các nguồn tiền và chứng khoán có thể dễ dàng chuyển
đổi thanh tiền để trả nợ ngắn hạn.

Thước đo tiền mặt


=

Tồn quỹ tiền
mặt bình quân

=

Những tài sản có thể bán
chuyển thành tiền dễ dàng

* Tính ổn định về khả năng tự tài trợ
Hệ số tài sản cố định

=

Tài sản cố định x 100%
Vốn chủ sở hữu

Tỷ số này cho thấy mức độ ổn định của việc đầu tư vào tài sản cố định.
Điều này dựa trên quan điểm rằng những khoản đầu tư vào tài sản cố định (như đất


13
đai và nhà cửa) có thể được tái tạo như mong muốn từ vốn chủ sở hữu và những
khoản đầu tư như vậy thường cần một khoảng thời gian dài để tái tạo. Tỷ lệ này
càng nhỏ thì càng an toàn. Tuy nhiên nếu công ty nắm giữ nhiều tài sản như chứng
khoán có khả năng chuyển đổi ra tiền mặt cao, thì thực tế công ty này an toàn hơn
nhiều hơn là so với những hệ số này có thể phản ảnh. Đồng thời nếu nhiều tài sản
cố định thuộc diện phải khấu hao, tỷ số này sẽ tự được cải thiện hơn (tức là sẽ
giảm đi) do quá trình khấu hao với giả định công ty không mua mới thiết bị và có

một dự trữ nhất định và bất cứ lúc nào. Tỷ số này và hệ số thanh toán ngắn hạn tốt
lên hoặc xấu đi một cách đồng thời nhưng theo ngược chiều nhau.
Nếu như tỷ số này cao, cần thiết phải kiểm tra hệ số thích ứng dài hạn của
tài sản cố định và tình hình hoàn trả các khoản vay dài hạn. Nếu việc hoàn trả
những khoản vay dài hạn có thể được thực hiện trong phạm vi thu nhập ròng hiện
tại và chi phí khấu hao, ta có thể nói rằng hiện tại doanh nghiệp đang ở mức độ
an toàn.
Tài sản cố định x 100%
Hệ số thích ứng dài hạn của tài sản
cố định

=

Vốn chủ sở hữu + Nợ
dài hạn

Tỷ lệ này cho biết phạm vi mà công ty có thể trang trải tài sản cố định của
mình bằng các nguồn vốn ổn định dài hạn (gồm có vốn chủ sở hữu và tài sản cố
định). Về nguyên tắc, hệ số này không cần vượt quá 100%. Lý tưởng nhất là
trường hợp các khoản đầu tư vào tài sản cố định có thể được trang trải trong
phạm vi vốn chủ sở hữu, còn nếu không được như vậy thì ít nhất là chúng phải
được trang trải bởi những nguồn vốn ổn định khác, như là các khoản vay dài hạn
và trái phiếu công ty nhưng phải được hoàn trả với điều kiện, những khoản này
có kỳ hạn hoàn trả dài hạn. Nếu hệ số thích ứng dài hạn của tài sản cố định lớn
hơn 100% thì công ty sẽ phải trang trải tài sản cố định bằng những nguồn vốn có
kỳ hạn hoàn trả ngắn (ví dụ như các khoản vay ngắn hạn). Tuy nhiên lúc đó dòng
tiền của nó sẽ trở nên không ổn định.
Hệ số nợ

=


Tài sản nợ x 100%
Vốn chủ sở hữu

Đây là tỷ lệ giữa vốn vay (các tài sản Nợ, ví dụ như các khoản vay) so với
vốn chủ sở hữu tính đến thời điểm cuối kỳ. Tỷ lệ này càng nhỏ thì giá trị vốn của


14
chủ sở hữu ngày càng lớn, lại là nguồn vốn không phải hoàn trả, điều đó có nghĩa
khả năng tài chính của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên nếu tỷ lệ này càng cao
thì có một khả năng lớn là doanh nghiệp đang không thể trả được các khoản nợ
theo những điều kiện tài chính thắt chặt hoặc có sự kém cỏi trong quản lý hoặc
cũng có thể dòng tiền của nó sẽ kém đi do gánh nặng từ việc thanh toán các
khoản lãi vay. Trong trường hợp thanh lý giải thể doanh nghiệp, hệ số này cho
biết mức độ được bảo vệ của các chủ nợ. Các chủ nợ được hưởng quyền ưu tiên
đòi lại phần của mình trong tài sản của doanh nghiệp.
Hệ số Vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu x 100%

=

Tổng tài sản có

Đây là tỷ số giữa vốn chủ sở hữu với tổng vốn và dùng để đo lường sự ổn
định cảu việc tăng vốn. Bổ sung vào vốn góp bởi các cổ đông và các khoản dự
trữ vốn thì vốn chủ sở hữu cũng góp phần tạo ra dự trữ cho vốn điều lệ và phần
thặng dư mà bao gồm thu nhập giữ lại của doanh nghiệp. Do những nguồn vốn
này không cần được hoàn trả (mặc dù lợi tức cổ phần phải được trả cho cổ đông)

thì tỷ lệ này càng cao, doanh nghiệp càng được đánh giá cao. Về cơ bản thì chỉ số
này có mục đích giống như hệ số nợ đã đề cập ở trên.
Khả năng trang trả lãi vay
(lần)

Lợi nhuận từ kinh doanh

=

Chi phí trả lại vay

Chỉ số này xem xét khả năng của doanh nghiệp khi trả lãi vay từ lợi nhuận
thu được từ hoạt động kinh doanh.

Khả năng hoàn trả nợ vay
(số năm)

=

Nợ có tính lãi
Dòng tiến

(Dòng tiền = Lợi nhuận sau thuế - Lợi tức – Các khoản tiền thưởng cho
ban giám đốc + Khấu hao + Các quỹ dự trữ và dự phòng khác)
Tỷ lệ này tính ra số năm mà một doanh nghiệp cần mất để hoàn trả các
khoản có lãi từ dòng tiền thu được hàng năm.
1.2.1.3. Phân tích tính hiệu quả


15

Những tỷ số này cho biết những hoạt động của vốn và tài sản mà doanh
nghiệp có. Chúng chỉ ra tài sản của công ty đã được sử dụng nhanh và hiệu quả
đến mức nào để tạo ra lợi nhuận. Từ khi những chỉ số này được dùng để xem xét
hiệu quả hoạt động của tài sản công ty trong một thời kỳ (từ những số liệu trên
bảng tổng kết tài sản và báo cáo thu nhập chi phí), chúng được gọi là những tỷ số
năng động.
* Doanh thu từ tổng tài sản
Doanh thu từ tổng tài sản

=

(số lần/năm)

Doanh thu
Tổng tài sản

Tỷ số này cho biết tổng vốn đầu tư được chuyển đổi bao nhiêu lần thành
doanh thu. Nếu tỷ lệ này thấp, có nghĩa là vốn đang không được sử dụng hiệu
quả, và có khả năng doanh nghiệp có thừa hàng tồn kho hoặc tài sản nhàn rỗi
hoặc vay tiền quá nhiều so với nhu cầu thực sự.
* Tỷ số hoạt động tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho

Số ngày tồn kho

=

=

Gía vốn hàng bán

Gía trị ban đầu hàng tồn kho
Số ngày trong năm
Số vòng quay hàng tồn kho

Tỷ số này cho biết doanh nghiệp lưu hàng tồn kho, gồm có nguyên vật
liệu và hàng hóa, trong bao nhiêu tháng. Hàng hóa sớm hay muộn cũng sẽ được
bán, nên cần giữ hàng tồn kho ở một số lượng nào đó. Tuy nhiên, lưu giữu quá
nhiều hàng tồn kho đồng nghĩa với việc vốn được sử dụng kém hiệu quả (doàng
tiền sẽ bị giảm đi do vốn kém hoạt động và gánh nặng trả lãi vay tăng lên). Điều
này làm tăng chi phí lưu giữ hàng tồn kho và tăng rủi ro khó tiêu thụ hàng tồn
kho này do có thể không hợp nhu cầu tiêu dùng cũng như tình hình thị trường
kém đi. Do vậy, thời gian chuyển đổi hàng tồn kho có được quản lý tốt hay
không (nếu cần có thể xem xét hàng tồn kho của thành phẩm, sản phẩm dở dang
và nguyên vật liệu).
* Thời gian thu hồi công nợ.
Vòng quay các khoản phải thu

=

Doanh thu thuần


16

Các khoản phải thu bình quân

Kỳ thu tiền bình quân

Số ngày trong năm


=

Số vòng quay khoản phải thu

Hệ số này cho biết tốc độ thu hồi các khoản nợ của khách hàng. Hệ số
vòng quay nhanh thì tốc độ thu hồi các khoản nợ nhanh.
* Thời gian thanh toán công nợ
Vòng quay khoản phải thu

Gía vốn hàng bán

=

Kỳ thu tiền bình quân

Gía trị khoản phải trả

=

Số ngày trong năm
Số vòng quay khoản phải trả

Tỷ số này cho biết thời gian từ khi mua hàng hóa và nguyên liệu tới khi
thanh toán tiền. Không thể nói rằng chu kỳ các khoản phải trả nên ngắn hay dài.
Nếu chu kỳ dài thì cũng có nghĩa là những điều kiện thanh toán với người cung
cấp là thuận lợi cho doanh nghiệp, thời gian trả chậm dài còn giúp cho doanh
nghiệp dễ dàng tăng vốn điều lệ. Còn nếu chu kỳ này ngắn, thì có thể do các điều
kiện thanh toán là bất lợi vì quan hệ với nhà cung cấp trở nên xấu đi. Tuy nhiên
cũng có khả năng doanh nghiệp có nhiều vốn trong tay, và thay vì gia tăng các
khoản thanh toán bằng tiền mặt, công ty đang mua hàng với giá cả thuận lợi (có

chiết khấu).
Hiệu suất lao động
(đồng)

Tổng giá trị gia tăng

=

Số lao động bình quân đầu kỳ và cuối kỳ

Tổng giá trị gia tăng = Lợi nhuận từ hoạt động + chi phí nhân sự và lao
động + chi phí thuế + thuế và các chi phí xã hội + các khoản chi phí + chi phí
khấu hao
Mức độ tập trung vốn
(đồng)

=

Gía trị bình quân đầu kỳ và cuối kỳ
Số lao động bình quân đầu kỳ và cuối kỳ


17
Tỷ số này thể hiện giá trị đầu tư vào thiết bị trên đầu nhân công và giúp
người phân tích hiểu được mức độ tiết kiệm lao động và sự hợp lý hóa của các
khoản đầu tư vào thiết bị nhà máy trong quá trình sản xuất và bán hàng.
Hiệu quả của đồng vốn
(%)

=


Tổng giá trị gia tăng
Gía trị bình quân đầu kỳ và cuối kỳ cho

Tỷ số này tính toán giá trị gia tăng trên một đồng vốn tài sản cố định hữu
hình hoạt động. Đây là một chỉ số thể hiện hiệu quả sản xuất.
1.2.4.4. Phân tích tăng trưởng
Những chỉ số này nhằm mục đích giúp cho người phân tích hiểu rõ mức
độ tăng trưởng và sự mở rộng về quy mô của doanh nghiệp. Chúng tính toán mức
độ tăng trưởng hàng năm của doanh thu và lợi nhuận. Trường hợp lý tưởng là khi
tăng trưởng doanh thu đi liền với tăng trưởng lợi nhuận.
* Nhóm chỉ tiêu đánh giá sự tăng trưởng của doanh nghiệp:
Tốc độ tăng trưởng
doanh thu

=

Doanh thu kỳ hiện tại - Doanh thu kỳ trước
Doanh thu kỳ trước

x 100%

Đây là chỉ số quan trọng nhất phản ánh mức độ tăng trưởng của doanh
nghiệp. Cần ghi nhận khi tỷ lệ này lớn hơn chỉ số lạm phát, (còn nếu nó nhỏ hơn
thì có nghĩa mức độ tăng trưởng là âm) hoặc lớn hơn mức độ tăng trưởng của thị
trường của thị trường (nếu nhỏ hơn có nghĩa là doanh nghiệp đang gặp vấn đề về
khả năng cạnh tranh và thị phần của nó đang giảm)
Tốc độ tăng trưởng lợi
=
nhuận


Lợi nhuận kỳ hiện tại - Lợi nhuận kỳ trước
Lợi nhuận kỳ trước

x

100%

Đây là chỉ số quan trọng nhất để xem xét mức độ tăng trưởng của lợi
nhuận doanh nghiệp. Trong khi tỷ lệ tăng trưởng doanh thu đánh giá mức độ mở
rộng về mặt số lượng thì tỷ lệ này đánh giá mức độ mở rộng về mặt chất lượng.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
trong thẩm định dự án cho vay của ngân hàng thương mại.
Như phân tích ở phần trên việc phân tích tài chính khách hàng có vai trò
rất quan trọng trong việc ra quyết định tài trợ tín dụng. Có nhiều nhân tố ảnh
hưởng đến việc phân tích, đánh giá tài chính đó, mỗi nhân tố có tác động mạnh


18
yếu khác nhau theo những chiều hướng khác nhau. Nói chung, có thể chia thành
hai nhóm nhân tố chính: nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
1.2.2.1. Nhân tố khách quan
Thứ nhất, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công tác thẩm định.
Điều kiện làm việc và cơ sở vật chất có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả thẩm
định. Với việc trang bị các thiết bị, các phần mềm phân tích chuyên dụng cho
thẩm định, quá trình thẩm định sẽ được rút ngắn về thời gian cũng như là công
sức, đồng thời tăng độ chính xác trong phân tích, đánh giá hiệu quả tài chính. Với
trang thiết bị hiện đại, sự trợ giúp của internet và kho thông tin điện tử, việc thu
thập và xử lý thông tin được tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác, các kết
luận về thẩm định và quyết định tín dụng ngày càng chuẩn xác.

Thứ hai, việc cung cấp thông tin từ phía khách hàng nhiều khi còn chưa
chính xác. Bất kỳ khách hàng nào xin vay vốn cũng phải có trách nhiệm cung cấp
các thông tin của chính doanh nghiệp mình theo yêu cầu ngân hàng đưa ra.
Những nguồn thông tin này rất quan trọng nhưng khó xác định được độ tin cậy
của nó, bởi các khách hàng muốn được vay vốn bao giờ cũng đưa ra mặt tốt của
dự án và thường mang tính chủ quan một chiều và có một tâm lý chung là đều
không muốn tiết lộ tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp mình. Điều này
gây bất lợi tới công tác thẩm định của cán bộ tín dụng.
Thứ ba, sự phát triển của thị trường tài chính. Kể từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1986), với sự chuyển mình từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã đạt được
những kết quả nhất định. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới nền kinh tế cũng gặp
nhiều khiếm khuyết, các thị trường mới ở giai đoạn đầu hình thành và phát triển,
hệ thống thông tin thống kê còn chưa đầy đủ, thông tin chưa minh bạch rõ ràng,
thiếu những nhà nghiên cứu thị trường…; thêm vào đó, nền kinh tế có nhiều biến
động bất thường tạo nên các biến động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Từ đó, ảnh hưởng đáng kể đến việc phân tích các nguồn thông
tin của cán bộ thẩm định về doanh nghiệp vay vốn ngân hàng.
Thứ tư, sự biến động về chính trị, kinh tế xã hội tại các nước trong khu
vực và trên thế giới. Hầu hết các quốc gia đều có sự gắn bó ít nhiều với phần còn
lại của thế giới, do đó, những biến động như chiến tranh, khủng hoảng, suy
thoái… và các biến động của môi trường tự nhiên như thiên tai, dịch bệnh… có
ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và vì vậy việc


19
thẩm định tín dụng, nhất là thẩm định về tài chính đối với các doanh nghiệp cũng
sẽ bị ảnh hưởng.
1.2.2.2. Nhân tố chủ quan
Thứ nhất, trình độ, năng lực của bộ phận thẩm định tín dụng. Cán bộ thẩm

định là những người trực tiếp tiếp nhận hồ sơ, thu thập và khai thác các nguồn
thông tin để phân tích, tính toán các chỉ tiêu tài chính, xác định hiệu quả hoạt
động kinh doanh… Do đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức, kinh
nghiệm và sự am hiểu về thị trường, xã hội của cán bộ thẩm định có tác động rất
lớn đến việc thẩm định tín dụng. Mặt khác, các kết luận về thẩm định tín dụng
dựa trên sự đánh giá chủ quan của cán bộ thẩm định, vì vậy đòi hỏi cán bộ thẩm
định ngoài kiến thức, kinh nghiệm còn phải có đạo đức nghề nghiệp. Nếu cán bộ
thẩm định vì có mối quan hệ mật thiết với khách hàng mà bỏ qua một số bước
thẩm định quan trọng thì hậu quả của nó có thể dẫn đến những thiệt hại to lớn đối
với ngân hàng.
Thứ hai, khả năng khai thác và sử dụng các nguồn thông tin liên quan đến
khoản vay của doanh nghiệp. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển như
vũ bão, thông tin đã trở thành một nhân tố quan trọng tác động đến sự thành công
hay thất bại của các doanh nghiệp, doanh nghiệp nào nắm bắt được thông tin,
khai thác và xử lý thông tin nhanh nhạy thì doanh nghiệp đó hầu như nắm chắc
phần thắng. Trong lĩnh vực ngân hàng, với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa
các ngân hàng, thông tin là yếu tố nguyên liệu đầu vào của quá trình thẩm định
tín dụng, nếu cán bộ thẩm định nắm được càng nhiều thông tin chính xác, kịp
thời sẽ càng làm tăng sự chính xác trong phân tích, dự báo, tăng chất lượng thẩm
định tín dụng; ngược lại, nếu thông tin đầu vào không đầy đủ, lỗi thời, có độ tin
cậy thấp sẽ dẫn đến việc đưa ra những quyết định tín dụng sai lầm, ảnh hưởng tới
hoạt động của ngân hàng.
Thứ ba, trình độ tổ chức quản lý công tác thẩm định tín dụng. Thẩm định
tín dụng là tập hợp nhiều hoạt động có liên quan chặt chẽ với nhau, vì vậy, nó
cần được tổ chức, quản lý một cách hợp lý về cơ chế tổ chức, nhân sự theo một
quy trình thống nhất. Việc thẩm định không tuân theo một quy trình hợp lý,
không có cơ cấu tổ chức hoặc phân công trách nhiệm không rõ ràng sẽ làm gia
tăng thời gian và chi phí thẩm định, ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định.
Hiện nay, với nền kinh tế mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, nước ta đã và
đang có nhiều dự án cho vay hoạt động hiệu quả. Để đảm bảo được điều đó khâu

thẩm định khách hàng, nó quyết định sự thành bại của ngân hàng nói riêng và của
nền kinh tế nói chung. Do vậy, doanh nghiệp phải được thẩm định trên nhiều


20
phương diện kinh tế, tư cách, năng lực pháp lý, tài chính,… Trong đó, phân tích
về phương diện tài chính là một công cụ không thể thiếu được trong hoạt động
đầu tư, cho vay khách hàng. Đối với doanh nghiệp, nó giúp đánh giá hiệu quả sản
xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp đó, đối với ngân hàng thì việc quyết
định tài trợ vốn hay không phụ thuộc rất nhiều vào kết quả thẩm định tài chính
của doanh nghiệp.
Tóm lại: Phân tích TCDN trong hoạt động cho vay là bước vô cùng quan
trọng và không thể thiếu trong quá trình thẩm định các dự án vay vốn. Việc ngân
hàng thương mại cấp vốn cho vay chỉ mang lại hiệu quả thực sự sau khi có sự
thẩm định phân tích đánh giá tất cả các khía cạnh của doanh nghiệp như năng lực
pháp lý của doanh nghiệp, những tác động môi trường, chính trị, xã hội, an ninh,
tài chính…trong đó thẩm định tài chính được coi là khâu quan trọng nhất. Kết
quả của phân tích TCDN cùng với kết quả của thẩm định phương án sản xuất
kinh doanh/dự án đầu tư sẽ là cơ sở cho việc ngân hàng đưa ra quyết định có tài
trợ vốn hay không. Như vậy, việc phân tích TCDN vay vốn là đòi hỏi bắt buộc
đối với mỗi ngân hàng trước khi cho vay vốn để đảm bảo sử dụng đồng vốn an
toàn hiệu quả, hạn chế thấp nhất rủi ro. Nội dung công tác phân tích TCDN về cơ
bản là các ngân hàng sử dụng giống nhau, tuy nhiên trong từng trường hợp cụ thể
các ngân hàng sẽ có những ưu tiên khác nhau trong việc nhấn mạnh vào chỉ tiêu,
phương pháp nào để phân tích.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Á CHÂU - CHI NHÁNH DUYÊN HẢI

2.1. NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU - CHI NHÁNH DUYÊN HẢI VÀ CÁC
HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU - CHI NHÁNH
DUYÊN HẢI.
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Á ChâuChi nhánh Duyên Hải.
Pháp lệnh về Ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh về ngân hàng thương mại,
hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5 năm 1990 đã
tạo dựng một khung pháp lý cho hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt
nam. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đã được thành lập
theo Giấy phép số 0032/NH-GP ngày 24 tháng 4 năm 1993 của Ngân hàng Nhà


21
nước Việt Nam và Giấy phép thành lập số 533/GP-UB ngày 13 tháng 5 năm
1993 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh. ACB bắt đầu hoạt động vào ngày 04
tháng 6 năm 1993.
Với chủ trương phát triển mạng lưới kinh doanh trên toàn quốc, ngày 15
tháng 03 năm 2005, ACB đã khai trương Chi nhánh ACB Duyên Hải với trụ sở
giao dịch đặt tại số 15 Hoàng Diệu, Quận Hồng Bàng, Thành phố Hải Phòng.
ACB Duyên Hải là một trong số rất ít những chi nhánh ngân hàng cổ phần
hoạt động trên địa bàn Hải Phòng. Tuy gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ, nhưng tập
thể 30 cán bộ công nhân viên Chi nhánh đã luôn hào hứng, kề vai sát cánh bên
nhau vượt qua mọi khó khăn thách thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ, giúp Chi
nhánh liên tục phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ. Đến nay, ACB
Duyên Hải đã phát triển với đội ngũ gần 300 nhân viên, mạng lưới Phòng giao
dịch, máy ATM, đại lý thanh toán thẻ ở khắp các quận, huyện, trung tâm thương
mại trong thành phố, với kết quả hoạt động kinh doanh khả quan, tạo được uy tín
tốt, thị phần ổn định và là một thương hiệu mạnh.
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP Á Châu – Chi
nhánh Duyên Hải giai đoạn 2011 – 2013.
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.

Trong những năm gần đây, sự cạnh tranh về việc huy động vốn giữa các
ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt. Trước những thách thức mới, ACB Duyên
Hải cũng đã có những định hướng chiến lược nhằm nâng cao sự tín nhiệm của
khách hàng đối với ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn ngắn
hạn, trung hạn, dài hạn dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn; tiếp
nhận vốn ủy thác đầu tư và phát triển của các tổ chức trong nước; vay vốn của
các tổ chức tín dụng khác…Do đó, hoạt động của ACB Duyên Hải luôn theo
chiều hướng phát triển đi lên.
Bảng 2.1: Kết quả huy động vốn của ACB Duyên Hải giai đoạn 2011-2013
Đơn vị: Tỷ đồng; tỷ trọng (%)
STT

NỘI DUNG

1.

Huy động vốn

NĂM

SO SÁNH %

2011

2012

2013

2012/2011


2013/2012

1.950 tỷ

2.400 tỷ

2.550 tỷ

123,08 %

106,25 %

(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của ACB Duyên Hải từ năm 2011- 2013)


22
Năm 2012 huy động đạt 123,07% và tăng 450 tỷ đồng so với năm 2011;
năm 2013 huy động tăng 106,25% và tăng 150 tỷ đồng so với năm 2012. Có
được kết quả này là do ACB Duyên Hải mở rộng mạng lưới các phòng giao dịch
thực hiện đúng theo tiêu chí ngân hàng bán lẻ, ngân hàng của mọi nhà. Bên cạnh
đó, ACB Duyên Hải cũng luôn có chính sách thu hút tiền gửi linh hoạt, lãi suất
huy động cao, ngày càng nâng cao uy tín để người dân, doanh nghiệp yên tâm
gửi tiền vào ngân hàng.
2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Về hoạt động tín dụng và đầu tư, có sự gia tăng khá mạnh qua các năm:
Năm 2012 cho vay tăng 134,6% so với năm 2011 về giá trị tuyệt đối tăng 270 tỷ,
đến năm 2013 cho vay tăng 300 tỷ và đạt 128,57% so với năm 2012. Mặc dù có
sự gia tăng về giá trị tín dụng và đầu tư qua các năm nhưng tỷ trọng cấp tín dụng
và đầu tư so với huy động vốn vào là thấp, trung bình 46%. Thực tế cơ chế cho
vay của ACB khá chặt chẽ, vì vậy tuy dư nợ cho vay không cao nhưng chất

lượng khoản vay tốt, không có nợ khó đòi, tỷ lệ nợ gia hạn cũng rất thấp.


×