Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Một số biện pháp tăng cường công tác tiêu thụ sản phẩm tại nhà máy gỗ cầu đuống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.79 KB, 59 trang )

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, kể từ khi nền kinh tế chuyển đổi từ
cơ chế hoá tập trung nên kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất
kinh doanh có nhiều biến đổi. Nếu như trước đây các doanh
nghiệp chỉ lo tới việc làm sao hoàn thành được các chỉ tiêu do Nhà
nước đặt ra thì ngày nay họ vừa phải lo sản xuất lại vừa phải lo tiêu
thụ. Chính vì lý do đó mà công tác tiêu thụ sản phẩm trở thành
một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh
nghiệp .
Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh thì tiêu thụ hàng
hoá là mối quan tâm hàng đầu của một doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối
cùng của quá trình sản xuất kinh doanh , là yếu tố quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp . Tiêu thụ sản phẩm thực hiện
mục đích và tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá , là cầu nối
trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác tiêu thụ
sản phẩm , trong thời gian thực tập tại Nhà máy Gỗ Cầu Đuống,
được sự hỗ trợ giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú và lãnh đạo Nhà
máy, đặc biệt là sự ân tình chỉ đạo, trực tiếp hướng dẫn của Thầy
Đỗ Quốc Bình, em đã chọn chủ đề "s" làm đề tài luận văn của
mình.
Luận văn này gồm 3 chương chính:
Chương I: Cơ sở lý luận của công tác tiêu thụ sản phẩm .


Chương II: Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở Nhà máy Gỗ Cầu
Đuống.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiêu
thụ sản phẩm ở Nhà máy Gỗ Cầu Đuống.



CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ
Tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là một trong saua chức năng hoạt
động chủ yếu của doanh nghiệp (chức năng tiêu thụ, hậu cân trong
kinh doanh, tài chính, kế toán, quản trị doanh nghiệp). Trong nền
kinh tế thị trường, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ
đòi hỏi phải tiến hành một loạt các công việc đa dạng, liên quan
đến chức năng khác và diễn ra ở một phạm vi rất rộng. Các nhà
quản trị doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển và tiêu
thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ : đê ra hàng loạt chính sách đúng
đắn liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ cũng
như phải biết sử dụng phương tiện thích hợp.
I. THỰC CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ
SẢN PHẨM
1. Thực chất của công tác tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối của quá trình sản xuất
kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp .
Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất là đưa sản
phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng
hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất phân phối và
một bên là tiêu dùng.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình
quyết định 3 vấn đề trọng tâm, đó là: sản xuất gì? Cho ai? Bao
nhiêu? cho nên việc tiêu thụ sản phẩm cần được hiểu theo nghĩa


rộng hơn. Đó là một quá trình baogồm nhiều khâu từ việc nghiên
cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng, tổ chức lại sản

xuất,xúc tiến bán hàng nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Nguyên tăc cơ bản trong tiêu thụ sản phẩm là nhận thức và
thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng về các sản phẩm, đảm
bảo tính liên tục trong quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm, tiết
kiệm và nâng cao trách nhiệm giữa các bên khi tham gia giao dịch
thương mại.
2. Vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm
Trong một doanh nghiệp, toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh
doanh từ khâu đầu đến khâu cuối cùng của chu kỳ sản xuất diễn ra
một cách nhịp nhàng, liên tục. Các khâu có mối liên hệ mật thiết
với nhau; khâu trước là khâu cơ sở, là tiền đề cho việc thực hiện
khâu sau. Trong đó tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng, là mắt
xích kết thúc của một chu kỳ kinh doanh. Công tác tiêu thụ sản
phẩm gắn người sản xuất với người tiêu dùng, nó giúp các nhà sản
xuất hiểu thêm về kết quả sản xuất của mình và nhu cầu khách
hàng. Về phương diện xã hội thì tiêu thụ sản phẩm có vai trò trong
việc cân đối giữa cung và cầu.
Thông qua tiêu thụ sản phẩm mà xác định nhu cầu của xã hội
nói chung và từng khu vực nói riêng với từng sản phẩm. trên cơ sở
đó các doanh nghiệp sẽ xây dựng được các kế hoạch phù hợp nhằm
dạt hiệu quả cao nhất.
Tiến hành tốt công tác tiêu thụ sản phẩm là động lực thúc đẩy
sản xuất, tăng nhanh vòng quay vốn kinh doanh vì sự biến động


thơi gian của một chu kỳ phụ thuộc một phần vào tiêu thụ sản
phẩm.
Tóm lại, để hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành
thường xuyên, liên tục, hiệu quả thì công tác tiêu thụ sản phẩm
phài được tiến hành tốt. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, việc

tiêu thụ sản phẩm có ý nghĩa quan trọng quyết địn sự sống còn của
các đơn vị sản xuất kinh doanh.
II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN
PHẨM
1. Tổ chức nghiên cứu thị trường và xác định chính sách
Marketing
1.1 Nhiệm vụ chủ yếu của nghiên cứu thị trường
Vắn tắt nhất có thể hiểu thị trường là nơi diễn ra các hoạt động
(trực tiếp và gián tiếp) mua bán hàng hoá. Nghiên cứu thị trường là
sự nhận thức một cách khoa học, có hệ thống mọi nhân tố tác động
tới thị trường mà các doanh nghiệp phái tính đến khi ra quyết định.
Nghiên cứu thị trường tạo ra các thông tin cần thiết về ảnh hưởng
của thị trường tới việc quyết định về chính sách tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá. Vì vậy nghiên cứu thị trường không chỉ giới hạn ở
nghiên cứu thị trường hiện tại mà còn cả thị trường tương lai.
Mục tiêu của nghiên cứu thị trường là xác định thực trạng của
thị trường theo các tiêu thức có thể lượng hoá về nguyên tắc có thể
đạt được bằng khoa học thống kê. Nghiên cứu thị trường tìm cách
giải thích các ý kiến về cầu hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp
cung cấp, lý do không mua hàng, dịch vụ do doanh nghiệp hay lý


do về sự trội hơn của các cơ hội cạnh tranh sản phẩm. Đây là cơ sở
để doanh nghiệp đưa ra các quyết định của mình. Nghiên cứu thị
trường phải quan tâm 3 lĩnh vực: Cầu hàng hoá và dịch vụ, cạnh
tranh về hàng hoá dịch vụ, guồng máy phân phối.
a/ Phân tích cầu
Phân tích nhu cầu để tìm cách biết được các dữ liệu về cầu
trong hiện tại hoặc trong khoảng thời gian tương lai xác định - khả
năng chấp nhận của thị trường. Nghiên cứu cầu sản phẩm hàng

hoá, dịch vụ thông qua những đối tượng có cầu sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ cho sản xuất và tiêu dùng của các doanh nghiệp, gia đình
và các tổ chức khác.
Sản phẩm hàng hoá chia làm 2 loại: Vật phẩm tiêu dùng và tư
liệu sản xuất.
Nếu doanh nghiệp xác định cầu về hàng hoá tư liệu sản xuất
thì doanh nghiệp phải số lượng và quy mô các doanh nghiệp có cầu
về loại tư liệu sản xuất mà doanh nghiệp phải cung ứng. Việc xác
định cầu loại này có điều kiện tiền đề ở các quá trình mua sắm diễn
ra ở các doanh nghiệp có khả năng mua sắm vì chỉ có thế mới có
được chìa khoá chính xác khuôn khổ xác định cầu thị trường.
Nghiên cứu thị trường còn phải tìm ra các khả năng có thể ảnh
hưởng tới cầu. Đó chẳng hạn là giá cả sản phẩm do doanh nghiệp
xác định và cả các đối thủ cạnh tranh, giá cả các sản phẩm thay thế,
thu nhập người có cầu, co giãn cầu,… nếu doanh nghiệp xác định
được các đại lượng đó đối với một sản phẩm của một chương trình


sản xuất sẽ đem lại cho doanh nghiệp khả năng kết hợp các phương
tiện để xây dựng kế hoạch tiêu thụ của mình.
b/ Phân tích cạnh tranh cung.
Bên canh việc nghiên cứu và quan sát cầu sản phẩm hàng hoá ,
dịch vụ, sản phẩm doanh nghiệp còn phải hiểu hết về các đối thủ
cạnh tranh cung cấp cho thị trường cùng loại sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ. Trước hết, nghiên cứu thị trường phải xác định rõ đối thủ
cạnh tranh và phải quan tâm tới các nhân tố có ý nghĩa đối với
chính sách tiêu thụ của các đối thủ như thị phần, chương trình sản
xuất, đặc biệt là chất lượng và hình thức của các sản phẩm cạnh
tranh, chính sách giá cả, phương pháp bán hàng, phương pháp
quảng cáo, phục vụ khách hàng, các điều kiện thanh toán và tín

dụng. Doanh nghiệp còn phải thường xuyên theo dõi xem liệu các
đối thủ cạnh tranh có kịp thời có các biện pháp gía vả, quảng cáo
cần thiết không? Tất nhiên không phái lúc nào doanh nghiệp cũng
phân tích được mọi đối thủ cạnh tranh của mình trong nhiều trường
hợp chỉ cần phân tích với những đối thủ chủ yếu, chiếm thị phần
cao trên thị trường.
c/ Phân tích mạng lưới tiêu thụ.
Việc tiêu thụ sản phẩm đạt kết quả ở một mức độ nào đó
không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố cung cấp sản phẩm hàng hoá ,
dịch vụ trên thị trường mà còn phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức
mạng lưới tiêu thụ chúng. Mạng lưới tiêu thụ được tổ chức cụ thể
như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất sẽ hình thành mạng


lưới tiêu thụ sản phẩm không giống với một doanh nghiệp thương
mại hay dịch vụ. Trong phân tích mạng lưới tiêu thụ doanh nghiệp
phải chỉ rõ được ưu nhược điểm của từng kênh tiêu thụ và so sánh
kênh tiêu thụ của doanh nghiệp với đối thủ cạnh trành.
1.2 Chính sách định hướng tiêu thụ.
Để có được chiến lược sản phẩm đúng đắn, bên cạnh việc tìm
hỉêu các nhu cần của thị trường và khả năng đáp ứng của doanh
nghiệp thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ chu kỳ sống của sản
phẩm ; nó luôn gắn liền với một thị trường nhất định vì nhu cầu về
một loại sản phẩm luôn có sự biến động theo không gian thời gian.
Thông thường chu kỳ sống của một sản phẩm trải qua 4 thời
kỳ (4 pha): Pha triển khai, Pha tăng trưởng, Pha chín muồi, Pha suy
thoái.
* Các chiến lược trong pha triển khai:
Ở giai đoạn này các doanh nghiệp có thể áp dụng 1 trong 4

chiến lược sau tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loaị sản phẩm và
thị trường.
+ Chiến lược "Thu lượm" nhanh phối hợp giá cả, khuyến mại
cao. Chiến lược này có hiệu quả khi phân lớn khách hàng đều biết
đến sản phẩm, có sự quan tâm tiềm ẩn cao với sản phẩm.
+ Chiến lược "Thu lượm" chậm phối hợp giá cao khuyến mại
thấp. chiến lược này thích hợp với quy mô thị trường nhỏ, khách
hàng có biết đến sản phẩm của doanh nghiệp, không nhạy cảm với
giá cả,ít có sự cạnh tranh.


+ Chiến lược "Thâm nhập" nhanh: Phối hợp giá thấp khuyến
mại tăng. Chiến lược này thích hợp khi tiềm năng thị trường lớn,
khách hàng chưa biết sản phẩm của doanh nghiệp, nhạy cảm với
giá, đối thủ tiềm ẩn mạnh, có thể tiết kiệm được do quy mô sản
xuất lớn.
+ Chiến lược "Thâm nhập chậm phối hợp giá thấp, khuyến mại
ở mức thấp. Chiến lược này thích hợp với thị trường tiềm năng lớn,
sản phẩm được biết đến ở mức độ cao.
* Chiến lược ở giai đoạn tăng trưởng:
Giai đoạn tăng trưởng được đặc trưng bởi lượng hàng hoá bán
ra nhanh. Vấn đề quan trọng trong giai đoạn nay là phải đảm bảo
nguồn lực để tăng trưởng cùng thị trường. Mỗi lĩnh vực cần phải sử
dụng nguồn lực ở đây là:
+ Tập trung cải tiến chất lượng và phát triển mẫu mã mới:
+ Tập trung khai thác các đoạn thị trường mới:
+ Tìm kiếm các kênh tiêu thụ mới…
* Chiến lược giai đoạn bão hoà:
Giai đoạn bão hoà là giai đoạn có xu hướng kéo dài nhất được
đặc trưng bởi số lượng hàng hoá bán ra ổn định. Mục tiêu của giai

đoạn này là tìm ra các chiếm lược phù hợp với các cơ hội trên thị
trường và bảo vệ thị phần hiện có. Có 3 phương án khả dụng, đó là:
+ Chú trọng đến việc tìm các đoạn thị trường mà trước đó
chưa khai thác;


+ Cải tiến chất lượng, kiểu dáng, tạo ra tính năng cho sản
phẩm ;
+ Cải tiến hiệu quả nếu điều kiện cho phép trong các khâu sản
xuất và tiêu thụ, các công đoạn Marketing.
* Chiến lược trong giai đoạn suy thoái:
Đặc trưng của giai đoạn này là lượng hàng bán giảm, lợi
nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Nếu lượng hàng hoá bán ra có
biểu hiện tiếp tục giảm thì ban lãnh đạo cần xem xét để đổi mới
hoặc loại bỏ sản phẩm đó bởi lẽ việc giữ lại sản phẩm yếu kém có
thể gây cho doanh nghiệp tốn kém trong tương lai cũng như tạo ra
sản phẩm mới.
1.3 Chính sách giá
Việc quy định mức giá bán cho một sản phẩm của doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh được gọi là chính sách giá. Mức giá
bán này có thể là mức giá bán cho các trung gian hoặc người khách
hàng cuối cùng.
Việc quy định sản phẩm là một quyết định quan trọng đối với
doanh nghiệp vì giá cả sản phẩm luôn được coi là công cụ mạnh
mẽ hữu hiệu trong sự cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Nó làm ảnh hưởng to lớn tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tác
động mạnh tới thu nhập doanh nghiệp. Để có thể lựa chọn được
mức giá hợp lý cho sản phẩm của mình trước hết doanh nghiệp cần
xác định giới hạn trên và giới hạn dưới trên cơ sở tính toán mức chi
phí và phân tích dự đoán tình hình thị trường.



Sơ đồ trang bên thể hiện các bước quy định giá sản phẩm.


Sơ đồ 1: Các bước định giá sản phẩm
Phân tích thị
Tính toán và

trường và ước

phân tích chi phí

đoán lượng bán

Xác định vùng giá
(giới hạn cao thấp)
và các mức giá dự
kiến
Đánh giá lựa chọn
mức giá tối ưu

Cơ cấu giá

Báo cáo và thực
hiện

1.4 Quảng cáo
Hoạt động quảng cáo có thể hiểu là hoạt động nhằm giới thiệu
sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng, gây

sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của
doanh nghiệp làm cho khách hàng quen biết có thiện cảm và ngày


càng tăng thiện cảm đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh
nghiệp.
Phương tiện quảng cáo rất đa dạng và phong phú. Tuỳ đặc
điểm của sản phẩm hàng hoá dịch vụ như đặc điểm của doanh
nghiệp mà chúng ta có thể lựa chọn và kết hợp các phương tiện
quảng cáo khác nhau: Báo chí, áp phích, hội trợ triển lãm,….
Các yêu cầu quan trọng nhất cần đặt ra cho công tác quảng cáo
là: Thông tin quảng cáo cần ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng và tập trung
trên nguyên tắ chỉ đưa vào những thông tin mà khách hàng quan
tâm như chất lượng, giá cả và tính có thể so sánh. Thông tin quảng
cáo phải bao hàm trong đó tính nghệ thuật nhằm thu hút khách
hàng.
Hiệu quả của quảng cáo có được là nhờ độ tin cậy của quảng
cáo. Muốn vậy thông tin quảng cáo cần phải chính xác.
2.Tổ chức hoạt động tiêu thụ
2.1 Xác định kênh tiêu thụ
Việc xác định hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch
vụ phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và đặc điểm của sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Các
doanh nghiệp sản xuất có thể tiêu thụ sản phẩm của mình thông
qua con đường trực tiếp gián tiếp. Trong trường hợp tiêu thụ gián
tiếp thì được thông qua các doanh nghiệp thương mại bán buôn và
bán lẻ và các đại lý của mình.
Sơ đồ 2: Tổ chức kênh tiêu thụ sản phẩm
Kênh ngắn:



Doanh nghiệp

Người tiêu dùng

sản xuất
Doanh nghiệp
sản xuất

Kênh dài:

Đại lý

Người tiêu dùng

Môi giới

Doanh

Người

Người

Người

nghiệp sản

bán buôn

bán lẻ


tiêu dùng

xuất
Đại lý

2.2 Tổ chức công tác bán hàng
Việc tổ chức công tác bán hàng gồm trong đó rất nhiều nội
dung khac nhau. Chúng ta chỉ đề cập ở đây một số nội dung cơ bản
được trình bày một cách khái quát.
Do đặc điểm của công tác bán hàng là giao tiếp với khách hàng
vì vậy nên lựa chọn người bán hàng phải có đầy đủ điều kiện về
hình thức, nghiệp vụ chuyên môn, nghệ thuật giao tiếp và ứng xử
những điều kiện rất quan trọng trước hết đối với công tác tổ chức
bán hàng.
Bên cạnh đó là công việc trưng bày và bố trí hàng hoá. Hàng
bày bán phải đảm bảo yêu cầu dễ thấy để khách hàng dễ tiếp cận
với hàng hoá. Tuy nhiên do điều kiện về diện tích và không gian
bán hàng luôn giới hạn nên việc bố trí cần theo ưu tiên tăng doanh


thu thì phải được ưu tiên ở chỗ thuận lợi nhất, những mặt hàng
được ưa chuộng phải được xắp xếp vào vị trí hấp dẫn để thu huát
khách hàng.
3. Tổ chức hoạt động sau bán hàng
Phát triển công tác bán hàng được thực hiện nhịp nhàng đồng
bộ tại mọi điểm bán hàng của doanh nghiệp nhằm giới thiệu sản
phẩm mới, tăng cường việc bán hàng sản phẩm hàng hoá của
doanh nghiệp. Tuy nhiên phát triển bán hàng còn nằm ngay ở việc
tổ chức hoạt động sau bán hàng. Việc tổ chức này có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc giữ khách hàng cũ và thu hút khách hàng
mới.
Các hoạt động quan trọng nhất là:
+ Có phiếu hướng dẫn cách sử dụng kèm theo sản phẩm;
+ Nội dung hướng dẫn phải đầy đủ rõ ràng song phải trình bày
ngắn gọn và dễ hiểu;
+ Trực tiếp hướng dẫn cách sử dụng khi bán sản phẩm cho
khách hàng;


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở
NHÀ MÁY GỖ CẦU ĐUỐNG

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHÀ MÁY GỖ CẦU ĐUỐNG
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Nhà máy
Để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất trong công cuộc
xây dựng các cơ quan xí nghiệp ở miền Bắc, năm 1956 Nhà máy
Gỗ Cầu Đuống được khởi công xây dựng và chính thức đi vào hoạt
đồng tháng 9 năm 1958 với tổng diện tích mặt bằng 138.610 m 2,
phía trước giáp Quốc lộ số 1, bên cạnh là sông Đuống thuộc địa
bàn thị trấn Đức Giang huyện Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm thủ
đô 9 km.
Đây là một Nhà máy chế biến gỗ đầu tiên của ngành Công
nghiệp Việt Nam với hệ thống dây chuyển sản xuất hiện đại nhâts
Đông Nam á do nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc viện
trợ.
Ban đầu có hai phân xưởng: Phân xưởng dán chuyên sản xuất
gỗ dán, gỗ xẻ, gỗ lạng với công suất thiết kế 5000 m 3 một năm và
Phân xưởng Mộc chuyên sản xuất hàng mộc với công suất thiết kế

1500 sản phẩm chuẩn (SPC) một năm tổng số lao động là 1000
người.
Nhà máy cũng rất vinh dự bởi sau một năm hoạt động được
đón Bác Hồ về thăm tháng 10 năm 1959, đón Bác Tôn Đức Thắng
về chúc Tết ở Khu công nhân năm 1959.


Quá trình phát triển của Nhà máy có thể chia thành 3 giai đoạn
như sau:
• Giai đoạn 1 (1958 - 1994)
Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, Nhà máy đã nhiều lần
bị máy bay Mỹ ném bom làm sập nhà cửa và hỏng nặng máy móc
thiết bị (MMTB), công nhân phải đi sơ tán nhiều nơi. Đến tận năm
1973, Nhà máy mới được phục hổi một cách chắp vá và tiếp tục
sản xuất.
Năm 1980, dây chuyền sản xuất bút chì của Nhà máy Văn
phòng phẩm Hồng Hà được chuyển về Nhà máy Gỗ Cầu Đuống.
Năm 1984, Nhà máy sát nhập với Công ty Diêm Thống Nhất
và lấy tên là Xí nghiệp Liên hiệp Gỗ Diêm Cầu Đuống nhằm sử
dụng hợp lý nguồn nguyên liệu đầu vào và hỗ trợ nhau cùng phát
triển nhưng do suy nghĩ đặc thù của một vài cấp trong ban lãnh đạo
rằng như vậy sẽ không tạo được khối gắn kết chặt chẽ, vì vậy, đến
đầu năm 1988, Gỗ và Diêm lại tách riêng ra.
Năm 1990 -1991, một số thiết bị chủ yếu của dây chuyền sản
xuất bút chì do Trung Quốc chế tạo được thay thế bằng thiết bị của
Nhật do nguồn vốn SIDA Thuỵ Điển tài trợ. Trong giai đoạn này
Nhà máy đã nhiều lần được người người cấp vốn đầu tư cho khôi
phục nhà xưởng và thiết bị để phục hồi và duy trì sản xuất.
Năm 1991, bằng nguồn vốn vay, Nhà máy đã đầu tư xây
dựng dây chuyền sản xuất đũa gỗ từ gỗ Bồ đề.

Năm 1992, Nhà máy Gỗ Cầu Đuống được Bộ Công nghiệp
nhẹ cho phép đầu tư đại tu và bổ sung hoàn chỉnh dây chuyền sản


xuất gỗ dán, gỗ ván ghép, đồ mộc nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm các trong nước và xuất khẩu bằng nguồn vốn tự có và vốn
vay đầu tư ngắn hạn của Ngân hàng Công thương. Đây là thời kỳ
kinh doanh hiệu quả nhất, là cơ sở sản xuất gỗ số một Việt Nam.
Nhìn chung ở giai đoạn này tuy gặp khó khăn bởi chiến tranh
nhưng Nhà máy vẫn tồn tại và phát triển bởi sản phẩm Nhà máy
sản xuất ra được phân phối theo chỉ tiêu của Bộ Công nghiệp nhẹ
và việc nhập gỗ được căn cứ theo chỉ tiêu của Nhà nước quy định.
Giá vật tư mua vào và sản phẩm bán ra đều theo sự chỉ đạo của
Nhà nước, mọi hoạt động đều dưới sự bảo trợ của Nhà nước.
• Giai đoạn 1 (1994 - 1997)
Khoảng đầu năm 1994, sau khi xoá bỏ bao cấp đối với Nhà
máy, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trở nên khó khăn hơn, sản
phẩm sản xuất ra không còn được phân phối như trước nữa và
nguyên vật liệu đầu vào cũng không được phân bổ theo chỉ tiêu của
Bộ Lâm nghiệp. Vì vậy Nhà máy phải tự cân đối đầu vào và đầu
ra hợp lý để đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Trong sự cạnh tranh không lành mạnh, Nhà máy phải vất vả
đương đầu với các cơ sở sản xuất tư nhân bởi họ có thể trốn thuế
và một số thủ tục giấy tờ liên quan đến giá thành của họ thấp hơn
18%- 20% giá mua của Nhà máy. Ngoài ra việc thu mua gỗ tròn
gặp nhiều khó khăn bởi:
+ Một số quy định mới về khai thác rừng của Nhà nước, địa
phương làm cho giá nguyên vật liệu đầu vào tăng cao kéo theo sự tăng
giấ thành sản phẩm.



+ Trước đây, ngành chế biến gỗ nộp thuế doanh thu 4%, nay
theo Nghị định 96CP của Chính phủ ban hành ngày 27 tháng 12
năm 1995 tăng thuế chế biến gỗ leen 6% (thực hiện từ năm 1996).
Đứng trước một loạt những khó khăn thách thức đó, Nhà máy
quyết định sản xuất đũa gỗ do khó khăn về nguyên vật liệu đầu vào
cũng như giá thành cao không được thị trường chấp nhận. Thay
vào đó, Nhà máy sử dụng một phần dây chuyền để sản xuất que
kem, que đè lưỡi phục vụ y tế nhằm tận dụng nguyên vật liệu
nhưng cũng không có kết quả mấy.
Từ 1000 lao động đã giảm xuống còn gần 300 do nghỉ hưu,
chờ việc hoặc chuyển đơn vị công tác vậy mà số lao động còn lại
vẫn không đủ việc làm. Nhà máy làm ăn thua lỗ mấy năm liên tiếp,
thu nhập của người lao động thấp, bình quân năm 1997 chỉ có
338.000 đồng một người một tháng. Do không có khả năng thanh
toán nên Ngân hàng tạm ngừng cho vay.
Trước tình hình đó, Bộ Công nghiệp đã có quyết định số 05
ngày 25/10/1997 sát nhập Nhà máy Gỗ Cầu Đuống vào Công ty
Giấy Bãi Bằng và chính thức trở thành một thành viên của Công ty
Giấy Bãi Bằng kể từ ngày 01/01/1997.
Dưới đây là một vài con số thống kê về tình hình tài chính
của Nhà máy Gỗ Cầu Đuống tại thời điểm bàn giao cho Công ty
Giấy Bãi Bằng (tính đến ngày 30/10/1997):
(1)

Lỗ cộng dồn

(2)

+ Nợ phải trả khách hàng


đồng

=

1.832

triệu


+ Thuế phải nộp cho Nhà nước

=

5.773

triệu

=

4.935

triệu

đồng
+ v.v…
(3)

+ Phải thu của khách hàng
+ Giá trị vật tư thành phẩm tồn kho


đồng
+ Tiền mặt tồn quỹ
Như vậy, nếu thu được hết nợ và bán được toàn bộ giá trị sản
phẩm, vật tư, nguyên liệu tồn kho thì Công ty Giấy Bãi Bằng vẫn
phải bù vào tổng số tiền là:
1.832 + 5.773 - 4.935 = 2.670 triệu đồng.
Đây là thời kỳ yếu kém nhất của Nhà máy.
• Giai đoạn 3 (1998 - 2000)
Sau khi được Công ty Giấy Bãi Bằng tiếp nhận, Nhà máy đã
lắp đặt thêm dây chuyền sản xuất với công suất thiết kế 1500 tấn
giấy 1 năm, duy trì sản xuất các mặt hàng truyền thống như gỗ dán
các loại, hàng mộc đảm bảo chất lượng cao; tổ chức sắp xếp lại lao
động, ổn định việc làm cho 294 người, bố trí sản xuất hợp lý hơn
nhằm phục hồi dần sản xuất kinh doanh và Nhà máy bắt đầu có lãi.
Hiện nay Nhà máy đang đầu tư thêm dây chuyền sản xuất
giấy vệ sinh cao cấp Tissue với tổng vốn đầu tư ban đầu 100 tỉ,
công suất thiết kế 10.000 tấn giấy một năm.
Nhà máy dự định tạm nhập giấy ngoại về thực hiện khâu bao
gói cuối cùng để làm quen dần với thị trường (tiến hành vào đầu


tháng 1 năm 2001); đến tháng 10 năm 2001 hoàn thành toàn bộ dây
chuyền và chính thức đi vào hoạt động.
2. Cơ cấu tổ chức Nhà máy
2.1. Sơ đồ tổ chức
+ Sản xuất gỗ, giấy và các sản phẩm từ gỗ theo kế hoạch của
Công ty và nhu cầu thị trường.
2.2. Quyền hạn của Nhà máy
Do ở xa Công ty mẹ nên Nhà máy có con dấu riêng và thực

hiện hạch toán theo hình thức báo sổ.
Nhà máy được phép ký trực tiếp các hợp đồng trị giá dưới
hoặc bằng 200 triệu nếu lớn hơn 200 triệu thì do Công ty Giấy Bãi
Bằng quyết định ký hoặc không ký.
Mọi hoạt động, tổ chức Đoàn thể, Đảng bộ của Nhà máy
cũng như các cuộc hội nghị lớn đều tổ chức ở Công ty Giấy Bãi
Bằng.
2.2. Các bộ phận trực thuộc Nhà máy
+ Giám đốc Nhà máy: là người lãnh đạo cao nhất của Nhà
máy, do Tổng công ty bổ nhiệm, có trách nhiệm quản lý chung
toàn Nhà máy. Giám đốc chỉ đạo trực tiếp các phòng ban chức
năng và các phân xưởng sản xuất. Giám đốc thực hiện tất cả các
quyết định, mệnh lệnh từ Tổng giám đốc Công ty chuyền xuống và
chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc Công ty.
+ Phó giám đốc Kỹ thuật sản xuất: tham mưu trực tiếp cho
Giám đốc về các hoạt động sản xuất, đào tạo và nâng cao trình độ


của công nhân sản xuất. Phó giám đốc sản xuất thay mặt giám đốc
chỉ đạo công tác của các phân xưởng.
+ Phó giám đốc kinh tế: tham mưu trực tiếp cho Giám đốc về
công tác kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, thay mặt Giám đốc phụ
trách Phòng Kinh doanh và Phòng Tài chính - Kế toán.
+ Phòng Tổng hợp: giúp Giám đốc thực hiện các công tác văn
phòng, tổ chức bộ máy quản lý và lực lượng lao động Nhà máy.
Phòng Tổng hợp thay Giám đốc thực hiện các chế độ chính sách
với cán bộ công nhân viên, ra quyết định nhân lực trực tiếp và điều
hành các hoạt động bảo vệ, nhà trẻ, nhà ăn, y tế, phòng cháy chữa
cháy. Chịu trách nhiệm trực tiếp với Giám đốc.
+ Phòng Kỹ thuật: chỉ đạo các công tác kỹ thuật, quy trình

công nghệ sản xuất của các phân xưởng, hướng dẫn an toàn lao
động và thực hiện kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS). Chịu trách
nhiệm trực tiếp với Giám đốc.
+ Phòng Kinh doanh: giúp giám đốc công tác điều độ sản
xuất, nhập và cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm. Khi Giám đốc
hoặc Phó giám đốc ký quyết định thực hiện thì Phòng kinh
doanh có quyền ra lệnh xuống các phân xưởng.
+ Phòng Tài chính - Kế toán: giúp Giám đốc công việc kế
toán, thống kê, tính toán giá thành, hạch toán tình hình tài chính
của Nhà máy.
+ Phân xưởng Gỗ dán: chuyên sản xuất gỗ dán các kích cỡ và
chủng loại theo kế hoạch của Nhà máy.


+ Phân xưởng Xén kẻ: chuyên sản xuất các loại giấy vở, giấy
tập.
+ Phân xưởng Mộc: chuyên sản xuất các mặt hàng mộc.
+ Phân xưởng Cơ điện: chuyên sửa chữa và bảo dưỡng thiết
bị máy móc của Nhà máy và đảm bảo điện trong toàn Nhà máy.
Như vậy, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bộ phận, mỗi
phòng ban khá rõ ràng và các bộ phận, phòng ban đã cố gắng thực
hiện tốt công việc của mình giúp kế hoạch của Nhà máy đạt kết quả
cao.
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA NHÀ MÁY
1. Đặc điểm nguyên vật liệu
Với đặc điểm là một đơn vị sản xuất kinh doanh các sản
phẩm từ gỗ, giấy. Vì vậy nguyên liệu để phục vụ cho việc sản xuất
của Nhà máy chủ yếu là gỗ (đặc biệt là gỗ tròn).
Ngoài những khó khăn liên quan đến việc mua gỗ tròn như đã

nêu, gỗ nhập có đường kính quá nhỏ và do đó phế phẩm nhiều, sản
lượng đầu ra ít… và nguồn nguyên liệu phôi giấy và ván bóc do
Công ty Bãi Bằng cung cấp cho sản phẩm giấy khá ổn định.
2. Đặc điểm về quy trình công nghệ
Máy móc thiết bị là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình
sản xuất sản phẩm của Nhà máy. Việc đáp ứng đầy đủ và kịp thời
các yêu cầu của khách hàng về mẫu mã, chủng loại và chất lượng
mặt hàng hay không cũng phụ thuộc vào trang thiết bị máy móc.


Hiện nay Nhà máy có hai phân xưởng sản xuất chính liên
quan đến máy móc quy trình công nghệ là phân xưởng sản xuất gỗ
dán và phân xưởng xén kẻ giấy. Máy móc thiết bị của hai phân
xưởng đều đơn giản, thô sơ và lạc hậu, hoạt động kém hiệu quả so
với công suất thiết kế được thể hiện ở biểu sau:
Biểu 1: Tình trạng dây chuyền thiết bị máy móc
Dây chuyền Trình độ
Gỗ dán
Xén kẻ

Thủ
công
Thủ
công

Năm sử

CSTK

CSTT


%

1958

5000

1000

20%

1998

25000

12000

48%

dụng

Qua biểu 1 ta thấy:
+ Dây chuyền sản xuất gỗ dán quá cũ và lạc hậu, nên sản xuất
gỗ dán vừa tiêu hao nguyên vật liệu vừa không bảo đảm chất lượng và
công suất hiệu quả.
+ Dây chuyền xén kẻ giấy tuy năng lực sản xuất có cao hơn
nhưng công suất thực tế vẫn thấp hơn nhiều so với công suất thiết
kế (chỉ bằng 48%) bởi vì quá trình xén kẻ cùng thô sơ và thủ công.
Lộtxưởng
vỏ

SauGỗ
đâycây
là quy trình công nghệ của hai phân
dán và kẻ giấy.
Bóc ván

Khí nóng

Phân xưởng dán

Hấp mềm

Cắt khúc

Sơ đồ 4: Quy trình công nghệ sản xuất gỗ dán

Xén ván
Sấy khô
Tráng keo

Khí nóng
Ép sơ bộ

NỒI HƠI

Ép nhiệt

Cắt cạnh
Thành phần



Sơ đồ 5: Quy trình công nghệ xén kẻ giấy
Phân xưởng xén kẻ:
Dập ghim

Đếm xiết

Kẻ dòng

Phôi

Nén ép

Xén

Bao gói

Thành
phẩm

3. Đặc điểm tình hình tài chính
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt,
rất nhiều doanh nghiệp đã phải giải thể vì không đáp ứng được
những yêu cầu của thị trường. Để có thể đứng vững và phát triển
được, bên cạnh vấn đề tổ chức và sắp xếp một cách hợp lý thì còn
phải có một nguồn tài chính đủ lớn để có thể duy trì và mở rộng
các hoạt động sản xuất kinh doanh này.
Vốn của Nhà máy rất ít bởi lẽ Nhà máy mới phát triển trong
ba năm gần đây nên nguồn tích luỹ còn rất hạn hẹp. Vốn tự có chỉ
chiếm 16,8% tổng số vốn kinh doanh của Nhà máy.



×