Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận Toàn cầu hóa và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.86 KB, 24 trang )

MỤC LỤC

1


A.LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, bởi toàn cầu hóa là động lực phát
triển của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất thì không ngừng lớn mạnh đó
là quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội. Trong xu thế toàn
cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập nền kinh tế quốc tế
đang trở thành một xu thế khách quan với hầu hết tất cả các quốc gia trên thế
giới.Theo xu thế chung của Thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ
nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam
hiện nay cũng như sau này. Hội nhập kinh tế quố tế vừa là thời cơ đồng thời
cũng là thách thức đối với Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa.
Vì vậy em xin lựu chọn đề tài: “ Toàn cầu hóa và quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam”

2


B.NỘI DUNG
I. Toàn cầu hóa.
1. Khái niệm chung về toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên
quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được
dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại
hay "tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các


dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ
thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
2. Các nhân tố dẫn đến tiến trình toàn cầu hóa kinh tế
Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất; quá trình chuyên môn hóa,
hợp tác hóa sản xuất và phân công lao động đã vượt khỏi tầm tay của từng
nước.
Hai là, sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, nhất là sự phát
triển nhảy vọt về thông tin liên lạc, giao thông, đặc biệt là sự ra đời của công
nghệ thông tin.
Ba là, nhu cầu mở mang thị trường, xuất khẩu tư bản, sự di cư ồ ạt về lao
động. Bốn là, sự hòa hợp và tham gia rộng rãi vào các hoạt động quốc tế của
các quốc gia, đặc biệt là các nước thứ ba.
Năm là, sự phát triển và phổ cập của kinh tế thị trường và cơ chế thị
trường.
Sáu là, Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức quốc tế
về thương mại và tài chính, sự hình thành các hệ thống tài chính, ngân hàng
quốc tế, tạo ra khối lượng giao dịch tiền tệ, hàng hóa khổng lồ.
3. Quá trình diễn ra toàn cầu hoá kinh tế.
Toàn cầu hóa kinh tế nảy sinh rất sớm và dần dần phát triển, để rồi tạo ra
những bước phát triển nhảy vọt như hôm nay. Ngay từ đầu thế kỷ XVI - XVII
– XVIII với sự giao thương giữa các quốc gia, đã hình thành dần các nhân tố
quốc tế hóa kinh tế. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã khẳng định: “Đại công
nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới...Thay cho tình trạng cô lập trước kia của
3


các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ
phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc”. Toàn cầu hóa kinh tế khởi
nguồn từ trao đổi thương mại, dần dần phát triển sang nhiều lĩnh vực khác như
sản xuất, dịch vụ, đầu tư, môi trường, xã hội. Nó thu hút tất cả các nền kinh tế

của các quốc gia, không phân biệt giàu, nghèo, phát triển hay chưa phát triển,
quốc gia lớn và cả quốc gia bé, các nước có chế độ chính trị khác nhau. Toàn
cầu hóa kinh tế làm cho các mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia gắn bó với
nhau, phụ thuộc vào nhau, tác động lẫn nhau. Thông qua toàn cầu hóa mà nền
kinh tế các nước tạo ra những lợi thế mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất, kỹ
thuật công nghệ phát triển từ đó làm cho nền kinh tế của từng nước có thể vượt
qua các thế yếu của mình mà tạo ra lợi thế mới và thế mạnh mới. Nhưng ngược
lại toàn cầu hóa cũng có thể làm cho nền kinh tế của từng nước, từ chỗ có lợi
thế so sánh, từ chỗ có thế mạnh lại trở thành nền kinh tế yếu kém, không có lợi
thế, nếu bỏ lỡ thời cơ. Toàn cầu hóa kinh tế cũng dẫn đến xu thế khu vực hóa
kinh tế. Khu vực hóa kinh tế thực chất là sự tập hợp lực lượng của các nền kinh
tế khu vực để hỗ trợ nhau tạo ra sức mạnh của từng khu vực kinh tế thích ứng
với toàn cầu hóa kinh tế. Hiện tượng này chính là sự thể hiện sinh động, đa
dạng mà thống nhất của toàn cầu hóa. Chúng ta có thể kể ra đây rất nhiều khu
vực kinh tế như : ASEAN, Đại Tây Dương, EU, Bắc Phi, APEC, FTAA, Ấn
Độ Dương ... Xu thế toàn cầu hóa kinh tế được thể chế hóa thành nhiều văn
bản mang tính quốc tế như các công ước, hiệp định quốc tế và được tổ chức
thành các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ. Đây là một quá trình
đấu tranh gay gắt kéo dài của các nền kinh tế của các quốc gia, giữa nước
nghèo và nước giàu nhằm vừa bảo vệ lợi ích kinh tế của quốc gia mình vừa hòa
thuận để cùng phát triển, cạnh tranh và sinh tồn.
4. Những mặt tích cực, tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế
4.1.Tích cực của quá trình toàn cầu hóa.
Một là, toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy tự do hoá mậu dịch phát triển. Nhìn
lại tình hình buôn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như không còn
tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế phát triển.
Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế
giới, là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước
cũng như ngành ngoại thương đóng vai trò rất lớn đối với tăng trưởng tổng sản
lượng quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của GDP Mỹ vào ngành

ngoại thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc của GDP Trung Quốc
với ngành ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%. Do tính phụ thuộc vào
4


ngành ngoại thương ngày càng cao, nên mức độ tự do hoá mậu dịch của các
nước trong khu vực Đông Nam Á cao hơn của các nước ở Mỹ Latinh. Bởi vì,
tới nay sự phát triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ yếu dựa vào nội thu,
trong khi nhân tố nhu cầu nước ngoài thấp hơn nhiều so với các nước Đông Á.
Hai là,toàn cầu hoá kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hoá lưu chuyển
vốn, có lợi cho tự do hoá đầu tư. Từ năm 2001 tới 2003, mặc dù đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) giảm sút rất lớn, nhưng bắt đầu từ năm 2004 đã có dấu
hiệu tăng trưởng trở lại. Theo “Báo cáo đầu tư năm 2005” do Hội nghị phát
triển mậu dịch Liên hợp quốc công bố, tổng số FDI trên toàn thế giới đã lên tới
648 tỷ USD, tăng 2% so với năm 2003. Điều này cho thấy xu thế đầu tư quốc
tế giảm sút từ năm 2001 tới 2003 đã được ngăn chặn và bắt đầu gia tăng trở lại
trên thế giới. Năm 2004, các nước Phương Tây đã tiếp nhận FDI trị giá khoảng
380 tỷ USD, giảm 14% so với năm 2003. Trong khi đó, FDI ở các nước đang
phát triển tăng 40%, với tổng giá trị 233 tỷ USD. Rõ ràng nếu không có toàn
cầu hoá kinh tế thì không thể quốc tế hoá vốn và di chuyển dễ dàng từ nước
này qua nước khác. Toàn cầu hoá kinh tế chẳng những thúc đẩy FDI tăng lên
mà ở mức độ lớn đã thúc đầy tự do hoá đầu tư. Mấy năm qua, do môi trường
đầu tư được cải thiện, xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt. “Báo cáo
của Hội nghị mậu dịch Liên Hợp quốc” năm 2004 cho biết hai nước có FDI đổ
vào nhiều nhất là Mỹ và Anh, trong đó Mỹ tiếp nhận tới 96 tỷ USD và nước
Anh tới 78 tỷ USD. Mặc dù các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị
trường vốn của mình và đưa ra nhiều chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước
ngoài, nhưng do cơ chế và thị trường còn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự
do hoá tiền vốn của các nước đang phát triển kém hơn nhiều so với các nước
phát triển. Đây chính là vấn đề mà các nước đang phát triển cần nghiên cứu và

hoàn thiện để tận dụng được cơ hội tốt của toàn cầu hoá.
Ba là, toàn cầu hoá kinh tế đã “bật đèn xanh” cho tự do hoá lưu chuyển
tiền tệ. Trong điều kiện ngày nay, mọi tổ chức ngân hàng, tài chính, tiền tệ và
thị trường chứng khoán của các nước đều phải phát triển theo xu thế toàn cầu
hoá. Nếu ra đời xu thế này, thì không thể nói tới tự do hoá lưu chuyển tiền vốn.
Ba thị trường chứng khoán nổi tiếng là New York, London và Tokyo giờ đây
đã len lỏi tới khắp nơi trên thế giới đề thu hút tiền vốn. Thông qua việc không
ngừng điều chỉnh tỷ giá hối đoái, những đồng tiền như USD, Euro và đồng
Franc của Thuỵ Sĩ đều trở thành đồng tiền dự trữ và có thể tự do lưu hành ở
các nước. Tóm lại, tiền tệ được tự do lưu hành như hiện nay rõ ràng do tác
động mạnh mẽ của tiến trình toàn cầu hoá.
5


Bốn là, toàn cầu hoá đã thúc đẩy phát triển sản xuất xuyên quốc gia. Mấy
năm qua, đặc điểm nổi bật nhất của sản xuất xuyên quốc gia là sản xuất của các
công ty xuyên quốc gia mở rộng mạnh mẽ ra các nước. Đầu năm 1994, Khu
vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ vừa mới khởi động, các công ty xuyên quốc gia
của Mỹ đã nhân cơ hội này thành lập một loạt công ty con ngay gần biên giới
Mehico. Những công ty này đã lợi dụng nguyên vật liệu, tài lực, vật lực của địa
phương sản xuất hàng hoá giá rẻ đưa về thị trường nội địa Mỹ. Mấy năm qua,
hầu hết các công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và các nước trên thế giới đều
tới Trung Quốc lập văn phòng hoặc trụ sở công ty để tiến hành sản xuất kinh
doanh ngay tại Trung Quốc.
4.2.Tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Một là, toàn cầu hóa kinh tế làm nảy sinh nhiều vấn đề cho xã hội con
người. Bên cạnh những mặt tốt, mặt tích cực, nó gây ra không biết bao nhiêu
điều tiêu cực, gây ra những hậu quả khôn lường .
Hai là, không phải những quốc gia nào cũng khai thác, tận dụng được các
mặt tích cực của toàn cầu hóa mà chỉ có các nước phát triển mới thụ hưởng

được những lợi thế đó. Toàn cầu hóa đã khoét sâu thêm hố ngăn cách giàu
nghèo, làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội trong từng nước và giữa các
nước với nhau.
Ba là, toàn cầu hóa tạo cơ hội mở rộng thị trường, tạo ra sự canh tranh gay
gắt song là cuộc chay đua không cân sức giữa các nước giàu, các tập đoàn tư
bản khổng lồ với các nước kém phát triển. Trong cuộc chạy đua đó, chắc chắn
các nước đang và kém phát triển sẽ bị thua thiệt.
Bốn là, toàn cầu hóa cũng tạo ra nguy cơ làm biến dạng hoặc mất đi bản
sắc dân tộc, mất độc lập tự chủ của các quốc gia, đồng thời nó cũng tạo ra khả
năng quốc tế hóa các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội.
=>Toàn cầu hóa kinh tế, mặc dù đến nay vẫn có những quan điểm trái
ngược nhau nhưng rõ ràng là 1 xu thế phát triển của thời đại không thể
khác được. Chỉ những quốc gia nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng cơ hợi,
vượt qua thách thức mới có thể đứng vững và phát triển. Cự tuyệt hay
khước từ toàn cầu hóa kinh tế tức là tự gạt mình ra ngoài lề của sự phát
triển.

6


II. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1.Hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.Khái niệm hội nhập kinh tế.
Hội nhập kinh tế là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế
giới gắn với quá trình toàn cầu hóa và khu vực do dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học -công nghệ.Đối với các nước công nghiệp hội nhập kinh tế
quốc tế là quá trình chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri
thức. Đối với các nước đang và chập phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế là giải
pháp để khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển bên ngoài, tránh tình
trạng tụt hậu.

Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ
chức hợp tác kinh tế khu vực và tòa cầu trong đó các nước thành viên chịu sự
ràng buộc theo những quy định chung của cả khối.
1.2.Các vấn đề của hội nhập kinh tế
Hội nhập kinh tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu:
-Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng 0 đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu.
-Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với
hoạt động thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông (như giấy phép,
tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh kiểm dịch...) cần được chuẩn mực hoá theo các
quy định chung của WTO hoặcác các thông lệ quốc tế và khu vực khác.
- Giảm thiểu các hạn chế đối với các hoạt động dịch vụ. Tức là tự do hoá hiện
nay có khoảng 12 nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ tư vấn
giáo dục, tin học đến các dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, giao thông
vận tải...
-Giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động đầu tư quốc tế. Giảm thiểu các hạn
chế đối với đầu tư để mở đường hơn nữa cho tự do hoá thương mại.
-Điều chỉnh các quy định và công cụ của chính sách thương mại khác. Điều
chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi chung
quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại , như thủ tục
hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh ...Tại các diễn đàn quốc tế
7


và khu vực hiện nay, việc điều chỉnh và hài hoà các thủ tục hành chính liên
quan đến giao dịch thương mại được gọi là hoạt động thuận lợi hoá thương mại
-Phát triển các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế….trên toàn cầu.Triển khai các
hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá, xã hội…nhằm nâng cao năng lực của các
nước trong quá trình hội nhập
1.3.Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tể được thể hiện chủ yếu ở các khía cạnh sau đây:
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và phần còn lại của thế giới.Nó là quá trình
vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh lẫn nhau rất phức tạp, đặc biệt là đấu
tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của quốc gia và vì một trật
tự công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường quốc kinh tế và các
công ty xuyên quốc gia.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình giảm thiểu và xóa bỏ từng bước và
từng phần các rào cản thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo xu hướng
tự do hóa thương mại, đầu tư, taì chính…
- Hội nhập kinh tế quốc tế một mặt, tạo ra những điều kiện thuận lợi mới
cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; mặt khác, buộc các doanh
nghiệp phải tiến hành đổi mới để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới
cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng kinh tế trên cở sở sự phát
triển của lực lượng sản xuất và việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực trọng nước và quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho hoạt dộng điều chỉnh chính
sách ở các quốc gia đồng thời cũng gây sức ép buộc các quốc gia phải đổi mới
và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là chính sách, pháp luật và phương thức
quản lý.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là sự mở rộng quá trình khai thác, phân bổ và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển trong và ngoài nước, tạo điều
kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mà các doanh nghiệp tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu trong các khâu như nghiên cứu- thiết kế, thử nghiệm, sản
xuất, phân phối, dịch vụ sau bán hàng.
8



2. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Trong khoảng hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế thế giới
có bước phát triển vượt bậc, với đặc điểm cơ bản là: Tốc độ tăng trưởng nhanh
và khá ổn định; lạm phát được kiềm chế, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Nhưng từ giữa
những năm 70 đến đầu thập kỷ 80 (thế kỉ XX) “thế giới đang trải qua một trong
những cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của mình”. Từ thập
kỷ 80, toàn cầu hoá là hiện tưởng nổi bật và là xu thế khách quan của nền kinh
tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển không thể tách rời sự tác động
của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội nhập trở thành một
xu thế tất yếu của thời đại.
Thực trạng nền kinh tế Việt Nam trước 1986 là một nền kinh tế kém phát
triển. Đặc biệt trong những năm 1976-1980, kinh tế tăng trưởng chậm chạp,
thậm chí có năm giảm sút.Giai đoạn 1981-1985, nền kinh tế tăng trưởng nhanh
hơn, nhưng tình hình kinh tế bất ổn do lạm phát nghiêm trọng. Vì vậy đặt ra
cho Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế để tranh thủ vốn công nghệ để có
thể đi tắt đón đầu vươn lên trở thành 1 nền kinh tế mạnh của khu vực. Ngay khi
bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội VI của Đảng đã nhận định: “Trên thế giới
đang hình thành một thị trường” (khác với trước đó ta thường nhấn mạnh trên
thế giới có hai thị trường vận hành theo các quy luật riêng). Cương lĩnh của
Đảng được thông qua tại Đại hội VII có đánh giá rằng, “nền sản xuất vật chất
và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới
nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc”. Đại hội IX lần đầu tiên đề
cập khái niệm “toàn cầu hóa kinh tế”, coi đó là một xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia…Đại hội X khẳng định lại “Toàn cầu hóa kinh
tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng,
gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát
triển." Là một bộ phận cấu thành của thế giới, nước ta không thể không tính
đến và đứng ngoài xu thế đó. Trên thực tế nền kinh tế nước ta gắn kết khá chặt
chẽ với kinh tế thế giới cả ở “đầu vào” lẫn “đầu ra”. Để duy trì tốc độ tăng
trưởng tương đối cao, nước ta cần số vốn đầu tư không nhỏ song vốn trong

nước lại có hạn nên riêng trong 5 năm qua đã phải huy động khoảng 30% nhu
cầu vốn từ bên ngoài (cả FDI lẫn ODA) và nhập khẩu một lượng đáng kể máy
móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu. Do thu nhập của các tầng lớp dân cư còn
thấp và cần có ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất, nhiều hàng
hóa làm ra phải tiêu thụ tại thị trường bên ngoài, do đó kim ngạch xuất khẩu
của nước ta chiếm tới trên 60% giá trị GDP (nếu tính cả giá trị xuất nhập khẩu
thì chúng chiếm trên 130% GDP, so với Trung Quốc tỷ lệ đó chỉ khoảng 57%).
Với nhận thức và nhu cầu nói trên, suốt mấy chục năm qua Đảng ta luôn luôn
9


nhấn mạnh yêu cầu mở rộng sự hợp tác kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu,
tranh thủ vốn, công nghệ từ bên ngoài. Đại hội IX lần đầu tiên đã nêu khái
niệm “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” và tháng 11/2001 Bộ Chính trị Trung
ương Đảng đã thông qua nghị quyết riêng là Nghị quyết 07/NQ-TW về hội
nhập kinh tế quốc tế. Cũng theo tinh thần đó Đại hội X bổ sung thêm ý “tích
cực” sau ý “chủ động” hội nhập kinh tế quốc tế nhằm nhấn mạnh thêm quyết
tâm hội nhập. Ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã
ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để
nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ
phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là “chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội trước,
chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan
trọng về tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI. Ngày 10-4-2013, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW về hội nhập quốc tế. Đây là
văn kiện quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, làm rõ và thống nhất nhận thức
trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết
đã xác định rõ hội nhập quốc tế sẽ được triển khai sâu rộng trên nhiều lĩnh vực,

đặc biệt, hội nhập kinh tế phải gắn với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và
tái cơ cấu nền kinh tế. Gần đây nhất trong Đại hội lần thứ XII của Đảng, vấn đề
hội nhập như thế nào để vừa đảm bảo quyền và lợi ích của doanh nghiệp, người
lao động và cả nền kinh tế Việt Nam mà không bỏ lỡ những cơ hội mà hội
nhập mang lại là vấn đề được Nghị quyết của các Hội nghị trung ương 12, 13,
14 nhắc đến nhiều trước thềm Đại hội XII của Đảng.Có thể thấy, hội nhập
chính là vấn đề được các đại biểu tham dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
cũng như các kỳ Hội nghị Trung ương đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ, các Hiệp định
Thương mại tự do thế hệ mới không chỉ mang lợi cơ hội cho doanh nghiệp,
người lao động và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, mà còn đặt chúng ta trước rất
nhiều thách thức mới.
3.Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong các
tổ chức kinh tế quốc tế. Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc
tế: WTO, ASEAN, APEC, ASEM, TPP, Việt Nam đã đang nỗ lực thực hiện
đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các hoạt động trong
khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:
* Trong khuôn khổ tổ chức thương mai thế giới (WTO)
10


- Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách
thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện
ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ
- Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở
cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ
nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội
nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu.
- Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm

phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Namcó liên
quan đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp thủy
sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO…..
- Việt Nam đang tích cực chuẩn bị cho phiên rà soát chính sách thương
mại lần đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn ra trong khoảng thời gian đầu năm
2013.
* Trong khuôn khổ hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN)
- Sau 21 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN,
1995-2011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày
càng phát triển toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và
chính trị của Việt Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn
đàn hợp tác khu vực và thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác
thương mại và đầu tư lớn nhất (riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ
2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).
- Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng
đồng ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi
trường luật pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam
tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
- Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN
vào năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương
trình hợp tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Cho tới nay,
Việt Nam là một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện cao các biện pháp và sáng
kiến đề ra trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.

11


-Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam
kết và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến

nhằm thúc đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội.
Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong khuôn
khổ đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào quá trình hợp tác liên
kết ASEAN hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015
với ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
* Trong khuôn khổ hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC)
- Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng.
APEC là khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn
đầu tư nước ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng
số khách du lịch quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan
trọng và các đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế
thành viên của APEC.
- Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm
1998, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như
Báo cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương
trình Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu
tư... Việt Nam đã tích cực tham gia và đóng góp thúc đẩy hợp tác APEC. Nổi
bật là nước ta đảm nhiệm thành công vai trò chủ tịch APEC năm 2006, với việc
đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao 14, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế
APEC 18 và hơn 100 sự kiện, đưa ra triển vọng dài hạn về hướng tới mục tiêu
hình thành Khu vực thương mại tự do của toàn khu vực châu Á - Thái Bình
Dương (FTAAP), Chương trình Hành động Hà Nội về thực hiện các Mục tiêu
Bô-gô và các biện pháp cải cách tổng thể, tạo nên những động lực mới cho hợp
tác APEC. Việt Nam là một trong những thành viên chủ động đề xuất và tham
gia nhiều sáng kiến mới, với hơn 70 sáng kiến ở hầu hết mọi lĩnh vực (thương
mại, đầu tư, đối phó với tình trạng khẩn cấp, y tế, chống chủ nghĩa khủng bố,
…) và đã đảm nhiệm nhiều vị trí chủ chốt trong APEC (Phó Chủ tịch Ủy ban
Thương mại và đầu tư năm 2006, Chủ tịch Nhóm công tác doanh nghiệp vừa
và nhỏ năm 2006, Chủ tịch Ủy ban Quản lý ngân sách năm 2007, Phó Chủ tịch
Nhóm công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Chủ tịch Nhóm công tác về đối phó

với tình trạng khẩn cấp nhiệm kỳ 2012 - 2013). Việt Nam đã đề xuất và triển
khai thành công sáng kiến đầu tiên của APEC về tìm kiếm và cứu hộ trên biển;
đồng thời, tổ chức một số hoạt động khác như Cuộc họp Nhóm chuyên gia
APEC lần thứ 40 về công nghệ năng lượng mới và có thể tái tạo (Hà Nội, tháng
4-2013), Hội thảo về hòa mạng thủy điện và điện tái tạo (Hà Nội, tháng 412


2013), Cuộc họp Nhóm công tác về giao thông - vận tải lần thứ 37 (Thành phố
Hồ Chí Minh, tháng 4-2013), Hội thảo APEC về duy trì sản xuất kinh doanh
cho doanh nghiệp trong bối cảnh thiên tai lớn (Hà Nội, tháng 5-2013) … Việt
Nam đã triển khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng
kiến trên hầu hết các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế,
đối phó với thiên tai, chống khủng bố... Việt Nam đã được đánh giá là một
trong những thành viên năng động, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho Diễn
đàn APEC.
* Trong khuôn khổ hợp tác Á-Âu (ASEM)
- Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ
đối tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những
đóng góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
- Trong hai năm qua (2010-2011), Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển
khai nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức thành công
nhiều hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường hình ảnh ASEM thông
qua các hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng hoảng- định
hình sự phát triển bền vững", "Diễn đàn ASEM về an ninh lương thực", "Diễn
đàn ASEM về biến đổi khí hậu", "Diễn đàn ASEM về lưới an toàn xã
hội", Diễn đàn Á – Âu (ASEM) về tăng trưởng xanh với chủ đề: “Cùng hành
động hướng tới các nền kinh tế xanh tăng”…
* Trong khuôn khổ Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương
(TPP)

- Việt Nam chính thức ký kết TPP vào ngày 04 tháng 02 năm 2016 và là
thành viên chính thức thứ 12 của TPP.
- Tham gia TPP với tư cách là một trong những thành viên đầu tiên sẽ
giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc
tế, giúp thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa
dạng hóa quan hệ quốc tế.
-Về kinh tế, theo tính toán của các chuyên gia kinh tế độc lập, trong điều
kiện các yếu tố khác đều thuận lợi, TPP có thể giúp GDP của Việt Nam tăng
thêm 23,5 tỷ USD vào năm 2020 và 33,5 tỷ USD vào năm 2025. Xuất khẩu sẽ
tăng thêm được 68 tỷ USD vào năm 2025. Theo các nghiên cứu này, Việt Nam
có thể là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong số 12 nước tham gia TPP.
13


-Đối với xuất khẩu, việc các nước, trong đó có các thị trường lớn như Mỹ,
Nhật Bản và Canada giảm thuế nhập khẩu về 0% cho hàng hóa của Việt Nam
sẽ tạo ra “cú hích” lớn. Riêng ngành dệt may, theo tính toán cứ 1 tỷ USD kim
ngạch xuất khẩu sẽ tạo ra khoảng 250.000 việc làm các loại. Việt Nam cũng sẽ
có điều kiện thu hút đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm và sản xuất nguyên phụ
liệu để tăng giá trị nội địa, giúp ngành may phát triển bền vững.
Tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam và các nước có được các cơ hội mới từ
chuỗi cung ứng mới, được hình thành sau khi TPP có hiệu lực. Một số tập
đoàn, công ty lớn trên thế giới đã cân nhắc đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu
biến Việt Nam trở thành một trong những cứ điểm quan trọng trong chuỗi sản
xuất của họ.
4.Tác đông của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu khách quan trong thế giới ngày
nay. Đối với các nước đang và kém phát triển (trong đó có Việt Nam) thì hội
nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so
với các nước khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những lợi thế so sánh của

mình trong phân công lao động và hợp tác quốc tế. Như vậy vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam không còn là “hội nhập” hay “không hội nhập” mà phải là hội
nhập như thế nào để tận dụng tốt cơ hội, giảm thách thức trong quá trình phát
triển của mình trong điều kiện thế giới có nhiều biến động khó có thể dự đoán
trước được.
Trước đây, tính chất xã hội hoá của quá trình sản xuất chủ yếu chỉ lan toả
trong phạm vi biên giới của từng quốc gia, nó gắn các quá trình sản xuất , kinh
doanh riêng rẽ lại với nhau, hình thành các tập đoàn kinh tế quốc gia và làm
xuất hiện phổ biến các loại hình công ty cổ phần trong nền kinh tế quốc gia.
Qua đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất đã có những thay đổi đáng kể, hình
thành nên sở hữu hỗn hợp. Từ đó, việc đáp ứng yêu cầu về quy mô lớn cho sản
xuất kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. tình hình này đòi hỏi sự tham gia
ngày càng lớn của chính phủ các quốc giacó nền kinh tế phát triển. Bởi lẽ,
những nước này là những nước có thế mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản
lý…
Ngày nay, một mặt do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho
tính chất xã hội hoá của nó vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan toả
sang các nước trong khu vực và thế giới. Mặt khác tự do thương mại cũng đang
trở thành xu hướng tất yếu và được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy
buôn bán giao lưu giữa các quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao
14


đời sống của mọi quốc gia. Vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới đều điều
chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa , giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản
thương mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hoá tiêu
dùng giữa các quốc gia.
Có thể nói sự hội nhập của nền kinh tế các nước trong khu vực đang đưa
lại những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản xuất và người tiêu dùng
trong các nước thành viên. Đặc biệt là Việt Nam thì mở cửa và hội nhập với

các nước trong khu vực và trên toàn thế giới đang là xu thế tất yếu. Chính sự
hội nhập này đã đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích đáng kể. Cụ thể:
Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng
hơn nữa khả năng xuất, nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước, các
khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của
Việt Nam được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự
do hội nhập khu vực đã thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển.
ĐVT: 1000USD
Khối
năm

EU
NK

ASEAN
XK

NK

XK

2007

5139097

9095953

15889221

7813358


40267

2008

5445162

10853004

19570866

10194815

53302

2009

6417515

9378294

13813070

8591867

49219

2010

6361714


11385478

16407520

10350948

60595

2012

8791339

20302820

20758231

17312112

82090

2014

8893011

27907376

22998205

19090189


11266

2015

10248848

31091082

23881161

18043858

12876

Kim ngạch xuất nhập khẩu phân theo nước, khối nước và vùng lãnh thổ chủ yếu sơ bộ các năm

Hai là, hội nhập khu vực còn góp phần chuyển hướng mậu dịch, sự
chuyển hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan vì khi
đó các điều kiện cơ bản giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên
thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn trước ngay cả trong trường hợp một nước nào đó
trong liên minh tiến hành nhập khẩu hàng hoá của các quốc gia ngoài liên minh
với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng việc nhập khẩu những sản
phẩm cùng loại của các nước trong liên minh mà giá cả lại cao hơn( do được
hưởng chính sánh ưu đãi thuế quan…) chính những ưu đãi này giữa các nước
thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên ( tức
là thay thế những người cung cấp những sản phẩm cùng loại có chi phí thấp
15



hơn nhưng không được hưởng các chính sách ưu đãi bằng những người cung
cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn ( kém hiệu quả ) nhưng được hưởng
sự ưu đãi của khối.
Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá Thương Mại tạo điều
kiện cho Việt Nam có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ,
trình độ quản lý…từ các quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do hoá
Thương Mại góp phần tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tự do hoá
Thương Mại giúp tăng trưởng kinh tế bằng hai cách: tăng xuất khẩu và tăng
năng suất cận biên của 2 yếu tố sản xuất là vốn và lao động
5.Thành tựu và hạn chế trong hội nhập kinh tế quốc tế của việt Nam.
5.1.Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Một là, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với các nước,
các tổ chức quốc tế. Việt Nam ra khỏi tình trạng bị bao vây cấm vận, cô lập tạo
dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên chính trường và thương trường
thế giới. Tính đến năm 2004, Việt Nam đã ký 90 hiệp định thương mại song
phương, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và 40 hiệp định chống
đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ,81 thoải thuận về đối xử tối
huệ quốc; có quan hệ thương mại với trên 160 nước và nền kinh tế. Cho đến
nay 2016 Việt Nam đã có qan hệ thương mại với hơn 220 quốc gia,và chúng ta
đã là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO cũng như
nhiều định chế tài chính như WB, ADB, IMF... Việc gia nhập WTO vào năm
2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng giữa Việt Nam với 150 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng của việc thực hiện chính
sách đối ngoại đổi mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia bình đẳng trong
thương mại với các nước trên thế giới.
Ngoài ra, ta đã có quan hệ thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng
lãnh thổ ở khắp các châu lục; trên một trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án
đầu tư ở Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy
mươi quốc gia và vùng lãnh thổ.

Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng
tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có
tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và
thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình kinh tế hướng về xuất khẩu của
16


ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị
thế của một quốc gia thành công trong quá trình đổi mới.
Hai là, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng GDP bình quân
thời kỳ 1986 - 1990 chỉ đạt 4,4%/năm thì bình quân thời kỳ 1991 - 2011 đạt
7,34%/năm. Đặc biệt, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng
trưởng cao, trong năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,46% (là mức cao
nhất trong vòng 11 năm trước đó). Các năm tiếp đó 2011-2014 GDP giảm do
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế cụ thể: năm 2011, GDP của Việt Nam tăng
6,24%; năm 2012 tăng 5,25%; năm 2013 tăng 5,42%, năm 2014 tăng 5,98%.
Đến năm 2015ước tính tăng 6,68% so với năm 2014. N ăm 2015 của Việt Nam
ước tính tăng 6,68% so với năm 2014. Mức tăng trưởng này cao hơn mục tiêu
6,2% đề ra và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-2014, cho thấy nền kinh
tế phục hồi rõ nét. Ngoài ra, có thể nói thành tựu về tăng trưởng kinh tế được
nhìn nhận một cách rõ ràng nhất là đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội và ra khỏi danh sách các nước kém phát triển sau 30 năm đổi mới. Đối
với hoạt động xuất, nhập khẩu, từ năm 1986 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam tăng đều qua các năm. So với năm 1986(kim ngạch xuất khẩu đạt
789,1 triệu USD) thì kim ngạch xuất khẩu năm 2013 tăng gấp khoảng 167 lần
(132,2 tỷ USD). Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt trên thị trường
220 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục. Nước ta có vị thế ngày càng
lớn trong xuất khẩu hàng hóa toàn cầu và được xếp vào nhóm 30 nền kinh tế

xuất khẩu hàng hóa hàng đầu thế giới. Từ chỗ thường xuyên nhập siêu, Việt
Nam đã chuyển sang cân bằng xuất, nhập khẩu, thậm chí là có xuất siêu. Năm
2012, Việt Nam đã xuất siêu 287 triệu USD, năm 2013 xuất siêu 9 triệu USD
và 10 tháng đầu năm 2014 xuất siêu 1,9 tỷ USD.
Ba là, thúc đẩy và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện chính sách
mở cửa nền kinh tế, vốn đầu tư nước ngoài (FDI) liên tục phát triển cả về tổng
vốn, cả về số dự án, cả về quy mô vốn/ dự án… Giai đoạn 1991 - 1997 đã diễn
ra làn sóng FDI vào Việt Nam lần thứ nhất với 2.230 dự án và vốn đăng ký là
16,244 tỷ USD. Việc thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là
cam kết gia nhập WTO đã giúp hoàn thiện và làm minh bạch hệ thống pháp
luật, nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vốn
FDI trong năm 2007 đã có mức tăng trưởng 75,3% và năm 2008 là
42,6%. Trong năm 2013, tổng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam đã đạt 22,35 tỷ
USD. Khu vực doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho khoảng hơn 2
triệu lao động trực tiếp, và hàng chục triệu lao động gián tiếp, chiếm hơn 60%
17


tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, góp phần tăng vốn đầu tư phát triển xã
hội, tăng kim ngạch xuất khẩu, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và
giải quyết các vấn đề xã hội.
Bốn là, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế, cải thiện tích cực môi trường
trong nước. Hệ thống luật pháp trong nước cũng không ngừng được sửa đổi
theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường kinh doanh
thông thoáng, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh
tế, giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Trong thời gian gần 10 năm trở lại đây, để thực hiện các cam kết gia nhập
WTO như tự do hóa quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu, xóa bỏ các hạn chế
xuất, nhập khẩu, xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu gây bóp méo cạnh tranh, giảm thiểu
sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp, các cam kết mở

cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, minh bạch hóa chính sách… hệ thống pháp
luật của ta đã và đang tiếp tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng trở nên
rõ ràng, minh bạch hơn, tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng trong nước.
Thứ năm, Tiếp thu được khoa học - công nghệ mới và kỹ năng quản lý
tiên tiến trên nhiều lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, kỹ thuật, văn hóa - xã
hội… Góp phần đào tạo cho Việt Nam có được đội ngũ nguồn nhân lực có
trình độ và năng lực cả về chuyên môn lẫn quản lý.
Thứ sáu, Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tham gia chuỗi giá trị và
mạng lưới sản xuất khu vực, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng tích cực,
tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng chế biến, chế tạo có giá trị và hàm lượng
công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn (Năm 2015, công nghiệp chế biến, chế
tạo trở thành động lực chính cho tăng trưởng GDP).
5.2.Hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam cũng gặp phải không ít thách thức, hạn chế mà cụ thể là:
Thứ nhất, trong một thời gian dài trước khi Chính phủ ban hành Chiến
lược tham gia các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) đến năm 2020, việc tham
gia các FTA chưa thực sự chủ động và mới chỉ tập trung vào các lợi ích mang
tính ngắn hạn như cắt giảm thuế quan, mà chưa chú trọng đúng mức đến các
mục tiêu dài hạn như nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng tăng trưởng, cải
cách môi trường, thể chế trong nước.
Thứ hai, việc triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa thực sự gắn kết đầy
đủ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược phát triển ngành.
18


Việc tập trung các nỗ lực hội nhập kinh tế vào khu vực Đông Á đã làm tăng sự
phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào các nền kinh tế lớn trong khu vực về các
nguồn nguyên phụ liệu, máy móc thiết bị, đầu tư, công nghệ.
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của ta
mặc dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả các nước

trong khu vực. Các ngành kinh tế, các doanh nghiệp mang tính mũi nhọn, có
khả năng vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới chưa nhiều, chưa
có khả năng đi đầu, kéo các ngành, các doanh nghiệp khác cùng phát triển. Một
số sản phẩm đã gặp khó khăn trong cạnh tranh, tốc độ tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu dù cao hơn nhiều các nước khác trong khu vực nhưng bắt đầu có xu
hướng giảm, cơ cấu hàng xuất khẩu còn nghèo nàn.
Thứ tư, các cam kết mở cửa thị trường của ta trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
vào Việt Nam, trong khi đó, ta chưa thiết kế được những biện pháp bảo hộ phù
hợp với cam kết quốc tế để bảo hộ sản xuất trong nước.
Thứ năm, chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn bản.
Hiệu quả đầu tư chưa được cao như mong muốn. Tăng trưởng của ta thời gian
qua phần nhiều dựa vào các yếu tố như tín dụng, lao động rẻ mà thiếu sự đóng
góp đáng kể của việc gia tăng năng suất lao động hay hàm lượng tri thức.
Thứ sáu, công tác phối hợp về hội nhập giữa các bộ, ngành, giữa các cơ
quan Trung ương với các địa phương, doanh nghiệp chưa tốt. Nhiều vấn đề
mang tính liên ngành chậm được xử lý đặc biệt là trong lĩnh vực nâng cao hiệu
quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh, phát triển đồng bộ các yếu tố kinh tế thị
trường.
III.Giải pháp đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới, cần phối hợp
nhiều nhóm giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn đọng, đồng thời
khai thác tối đa những lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Các giải
pháp chính là:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để
thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình đã đề ra.
Trong việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy hiện hành, cần cố gắng bảo
đảm tính đồng bộ, hiệu quả, duy trì ổn định môi trường đầu tư, kinh doanh,
không gây xáo trộn, ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp đang hoạt
động cũng như các nhà đầu tư mới.

19


Thứ hai, Xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp các nguyên tắc
của các tổ chức kinh tế quốc tế. Trong qúa trình đổi mới, hệ thống chính sách
của Nhà nước ta đã có thay đổi rất cơ bản phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế,
góp phần tăng trưởng kinh tế và hội nhập, mở cửa thị trường. Song trên thực tế
hệ thống chính sách kinh tế của nước ta chưa đồng bộ, chưa phù hợp với những
nguyên tắc của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Đặc biệt là hệ thống
chính sách thuế quan và phi thuế quan, chính sách thương mại, xuất nhập khẩu.
Tuy chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2000-2010 đã được thông qua
tại Đại hội IX và X của Đảng nhưng việc cụ thể hoá thành các chính sách còn
chậm. Nhiều chính sách ban hành mang tính tình thế, chắp vá. Yêu cầu xây
dựng một lộ trình cụ thể với những chính sách phù hợp hiện là yêu cầu bức
xúc. Một số chính sách hiện nay không còn phù hợp với thực tiễn phát triển
kinh tế của đất nước và các nguyên tắc, quy định của các tổ chức kinh tế khu
vực và thế giới nhưng ta đã không điều chỉnh kịp thời gây cản trở, khó khăn,
lúng túng cho các giới doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chưa kể đến có
những chính sách ban hành nhưng các quy định lại không chi tiết tạo ra sơ hở
hoặc việc thực hiện tuỳ tiện, không thống nhất (chính sách đất đai, chính sách
giá, chính sách xuất khẩu lao động...). Đổi mới chính sách kinh tế một cách
đồng bộ và toàn diện phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phù hợp nguyên
tắc, quy chế của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế tạo điều kiện thuận lợi
để hội nhập kinh tế hiệu quả là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Thứ hai, thường xuyên, kịp thời rà soát, sửa đổi, điều chỉnh, xóa bỏ quy
định không phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ trong các điều ước quốc tế song phương, khu vực và đa phương mà Việt
Nam là thành viên; đồng thời, xem xét nới lỏng các điều kiện đầu tư, kinh
doanh trong một số ngành, lĩnh vực tuy không cam kết mở cửa, hoặc cam kết
chặt chẽ hơn quy định pháp luật hiện hành nhưng phù hợp với nhu cầu phát

triển và định hướng thu hút đầu tư của nước ta trong thời gian tới.
Thứ ba, đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng chủ
yếu theo chiều sâu. Chủ trương đã có nhưng có thể thấy quá trình tái cấu trúc,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong những năm qua còn chậm. Việc tái cấu
trúc qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế sẽ gia tăng sức cạnh tranh, tạo lợi thế
trong hội nhập. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 1/2011) đã thông qua chủ trương đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế theo hướng “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát
triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa
mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
20


Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất,
dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh
chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh
tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri
thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh”.
Trong giai đoạn 2013-2015, ưu tiên chính của Chính phủ Việt Nam là thực
hiện Đề án tổng thể về tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng
trưởng.
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành để tận dụng tối đa
những lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế. Cần tiến hành đánh giá mức độ
cạnh tranh của các ngành, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch nâng cao khả năng
cạnh tranh cho những ngành có lợi thế cạnh tranh và định hướng điều chỉnh sản
xuất cho các ngành, doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh. Đối với các
ngành xuất khẩu chủ lực, cần có chính sách để chuyển dần từ gia công sang tự
xuất khẩu. Cần có chính sách thúc đẩy tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong tất
cả các ngành của nền kinh tế thông qua nâng cấp nhân lực, công nghệ, tiếp cận
công nghệ nguồn tốt hơn, hợp tác dài hạn với các đối tác mạnh trong lĩnh vực

tương ứng, đa dạng hóa, đổi mới sản phẩm.
Thứ tư, phát triển các ngành quan trọng đối với nền kinh tế. Cần có chính
sách phát triển các ngành công nghiệp chế biến mà Việt Nam có tiềm năng và
lợi thế, nhất là chế biến nông sản. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp
hỗ trợ để tránh phụ thuộc quá lớn vào nguyên vật liệu nhập khẩu và những cú
sốc khi giá nguyên vật liệu trên thị trường quốc tế tăng, đồng thời tiết kiệm
được một nguồn ngoại tệ lớn. Thúc đẩy các ngành dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
như tài chính, tín dụng, khoa học, công nghệ, ngành chế biến nông sản, có
chính sách thu hút đầu tư vào các ngành này.
Thứ năm, tăng cường nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó đặc
biệt coi trọng năng lực cán bộ, phân bổ hiệu quả nguồn nhân lực, tăng cường
nâng cao nhận thức cho các nhà hoạch định chính sách, cán bộ cơ quan quản lý
nhà nước và các doanh nhân về quyền lợi và nghĩa vụ của Việt Nam khi hội
nhập kinh tế quốc tế. Song song với việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế, một nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách
là phải xây dựng chính sách theo hướng tự do hóa thương mại đồng thời thúc
đẩy sản xuất kinh doanh trong nước, tạo điều kiện phát triển các ngành công
nghiệp non trẻ. Về phía doanh nghiệp, nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế
quốc tế, cụ thể là các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, các nguyên tắc, quy định cơ bản của WTO và diễn đàn thương
21


mại khu vực nhằm giúp doanh nghiệp hiểu và vận dụng tối đa lợi ích của hội
nhập kinh tế quốc tế trong kinh doanh, tự bảo vệ mình trong các tranh chấp
thương mại quốc tế.
Thứ sáu, Xây dựng, phát triển hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng kinh tế,
kỹ thuật đồng bộ, tiên tiến Một tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ phát triển
của toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới của một quốc gia, vùng
lãnh thổ là mức độ lưu chuyển của các yếu tố sản xuất bao gồm tài nguyên, sức

lao động, kỹ thuật, hàng hoá và tiền vốn giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ và
trên toàn thế giới. Phương tiện, điều kiện thực hiện sự luân chuyển này là giao
thông, cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật...
Việt Nam là nước đang phát triển, tiến hành hội nhập kinh tế thế giới và
khu vực trong bối cảnh vừa thoát khỏi các cuộc chiến tranh ác liệt và lâu dài,
do đó hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật rất yếu kém. Trong
khi thu nhập quốc dân còn thấp, điều kiện đầu tư cho tái sản xuất và tích luỹ từ
nội bộ nền kinh tế còn ít thì yêu cầu xây dựng , phát triển hệ thống giao thông,
cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật lại rất lớn để đáp ứng yêu cầu phát triển sản
xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện hội nhập, mở cửa thị trường, tiếp
nhận đầu tư và lưu chuyển các yếu tố sản xuất trong nước, khu vực và thế giới.
13 Như vậy, để giải quyết mâu thuẫn này tạo điều kiện cho hội nhập kinh tế thế
giới và khu vực, trong thời gian đầu cần tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật, trong đó hệ thống giao thông cần được ưu tiên xây dựng, phát
triển cùng với hệ thống năng lượng và mạng lưới thông tin.
Thứ bảy, thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo an
sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bần vững; xây dựng hoàn thiện các
cơ chế, chính sách an sinh xã hội, giảm khoảng cách giàu-nghèo trong quá tình
hội nhập quốc tế.

22


C.TỔNG KẾT
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập quốc tế
nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng là một quá trình phát triển phù
hợp với những quy luật khách quan của thời đại. Thực tiễn đó, đã và đang đặt
ra cho các quốc gia dân, tộc những vấn đề lớn cần phải giải quyết. Trong đó,
vấn đề: nhà nước cần khẳng định và phát huy vai trò của mình như thế nào
trong hội nhập kinh tế quốc tế để đưa đất nước “hòa nhập” nhưng không bị

“hòa tan”, tận dụng tốt mọi cơ hội, vượt qua mọi khó khăn, thách thức do toàn
cầu hóa mang lại v.v…..Thực tế bằng các bước đi vững chắc chúng ta đang
từng bước tiến vào thị trường thế giới, và đang trở thành một bộ phận không
thể thiếu của nền kinh tế thế giới. Qua thực tiễn 30 năm đổi mới đã chứng minh
con đường đổi mới theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước
ta là hoàn toàn đúng. Tuy còn một số hạn chế trong khi thực hiện, nhưng về
căn bản đã đưa nước ta từ một nền kinh tế tập trung bao cấp kém phát triển, trở
thành một nền kinh tế thị trường đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

23


Tài liệu tham khảo:
1.Giáo trình kinh tế quốc tế - ĐH Kinh Tế Quốc Dân
2.Tổng cục thống kê
3. Bài viết:”Độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế”- PGS, TS. Vũ Văn
Hà.Tạp chí Cộng sản
4.Văn kiện Đại hội Đảng thứ VI; VII; IX; X; XI; XII
5. Bài viết “Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam”- Lâm Quỳnh Anh (Văn phòng UBQG – HTKTQT). Vụ Thông Tin Báo
Chí - Bộ Ngoại Giao
6.Bài viết “Hội nhập kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra cho giai đoạn tới”Báo điện tử của Chính Phủ nước CHXH Chủ Nghĩa Việt Nam.
7. Bài viết “Toàn cầu hóa hiện nay và quá trình dân chủ hóa xã hội”- GS.TS.
Nguyễn Trọng Chuẩn. Đại Học Văn Hóa Hà Nội.

24




×