Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền trong công tác xây dựng đảng tại đảng bộ thành phố mỹ tho, tỉnh tiền giang thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến 2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.15 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

BÙI THỊ LỆ TRINH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐẢNG TẠI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ MỸ THO,
TỈNH TIỀN GIANG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (TỪ 1986 ĐẾN 2011)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Hồ Chí Minh học

HÀ NỘI – 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

BÙI THỊ LỆ TRINH

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG CÔNG TÁC
XÂY DỰNG ĐẢNG TẠI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ MỸ THO,
TỈNH TIỀN GIANG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (TỪ 1986 ĐẾN 2011)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 02 04


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Vƣợng

HÀ NỘI – 2013

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không trùng với các công trình khác.
Tác giả

Bùi Thị Lệ Trinh

LỜI CÁM ƠN

3


Luận văn này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Vượng. Thầy đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành luận văn
này. Xin chân thành cám ơn !
Xin chân thành cám ơn quý thầy, cô trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội và trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
hoàn thành khoá học cũng như làm luận văn./Tác giả

Bùi Thị Lệ Trinh

MỤC LỤC


4


Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

7

6. Đóng góp của luận văn


7

7. Kết cấu của luận văn

7

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG CẦM

8

QUYỀN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1 Lý luận chung về đảng cầm quyền

8

1.1.1. Khái niệm về đảng cầm quyền

8

1.1.2. Bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cầm quyền

11

1.1.2.1. Bản chất giai cấp của đảng trong mối quan hệ với tính dân

11

tộc và tính nhân dân
1.1.2.2. Nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của đảng


13

1.1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đảng cầm quyền

19

1.1.3.1. Lý luận chung của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng Cộng sản

19

cầm quyền
1.1.3.2. Nội dung đảng cầm quyền theo quan điểm của chủ nghĩa

20

Mác-Lênin
1.1.3.3. Phương thức cầm quyền của đảng theo quan điểm của chủ

21

nghĩa Mác-Lênin
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền

25

1.2.1. Đảng cầm quyền phải thực sự là tổ chức chính trị trong sạch,

25


vững mạnh của giai cấp và dân tộc
1.2.2. Đảng cầm quyền có nghĩa đảng phải lãnh đạo, xây dựng được
một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân

5

28


1.2.3. Tư cách của đảng cầm quyền

29

1.2.4. Đảng cầm quyền có nghĩa đảng phải biết hoàn thiện mình để

33

đủ năng lực và có phương thức đúng để định ra đường lối và các
quyết sách chiến lược đúng đắn, lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi
khó khăn, giành thắng lợi
1.2.5. Đảng phải có chính sách dùng người đúng đắn

34

1.3. Những vấn đề đặt ra đối với phương thức cầm quyền của đảng

36

1.3.1. Phương thức cầm quyền trong điều kiện một đảng duy nhất


36

cầm quyền
1.3.2. Phương thức cầm quyền của đảng hiện nay được đặt ra trong

40

bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
1.3.3. Phương thức cầm quyền của đảng được đặt ra trong điều kiện

41

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân
*Tiểu kết chƣơng 1

42

Chƣơng 2: VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG

45

CẦM QUYỀN TẠI ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH
TIỀN GIANG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ( TỪ 1986 ĐẾN
2011)
2.1. Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang vận dụng tư tưởng

45


Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền trong công tác xây dựng Đảng thời
kỳ đổi mới (từ 1986 đến 2011)
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội thành phố Mỹ Tho, tỉnh

45

Tiền Giang hiện nay
2.1.2. Đặc điểm Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

47

2.1.3. Những thành tựu và hạn chế trong công tác xây dựng Đảng tại

48

Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới (từ

6


1986 đến 2011)
2.1.3.1 Những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ

48

thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới
2.1.3.2. Những hạn chế trong công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ

51


thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới
2.1.4. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng

53

Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi
mới (từ 1986 đến 2011)
2.1.4.1. Nguyên nhân của những thành tựu trong công tác xây dựng

53

Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới
(từ 1986 đến 2011)
2.1.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác xây dựng

55

Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới
(từ 1986 đến 2011)
2.1.4.3. Bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng tại Đảng

57

bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến
2011)
2.2. Một số khiến nghị về nâng cao chất lượng công tác xây dựng

58

Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang theo tư tưởng

Hồ Chí Minh
2.2.1. Nhận thức đúng về vai trò hạt nhân lãnh dạo chính trị trong

58

điều kiện duy nhất một Đảng cầm quyền ở Đảng bộ thành phố Mỹ
Tho theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.2. Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng đối với chính

59

quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong Đảng
bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
2.2.3. Đổi mới công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang

7

61


2.2.4. Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng

64

đội ngũ đảng viên trong Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.2.5. Tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng,

72


ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức
lối sống trong Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
*Tiểu kết chƣơng 2

75

KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

8


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Người
đã dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và của nhân
dân Việt Nam. Con người, cuộc đời và sự nghiệp cáchmạng của Người đều là tấm
gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập suốt đời.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm vấn đề xây dựng đảng cầm quyền - Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh; đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư là công bộc của nhân dân. Trước khi qua đời, Người còn căn dặn:

“Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân” [39,tr.622]. Thấm nhuần những tư tưởng ấy của Chủ Tịch Hồ
Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo của mình Đảng luôn xác định vai trò cầm quyền
không phải để giành đặc quyền, đặc lợi mà trái lại, xác định trách nhiệm nặng nề
của Đảng trước dân tộc, vì nhân dân mà phục vụ.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn giữ vai trò lãnh đạo độc
tôn, không một lực lượng chính trị nào có thể thay thế, bởi lẽ Đảng thường xuyên
đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ mà thực tiễn phát triển đất nước đặt ra. Sau mỗi lần chỉnh đốn, xây
dựng, đặc biệt là trong những thời kỳ lịch sử có tính chất bước ngoặt, càng thể hiện
rõ bản lĩnh chính trị tiên phong, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng ta đã đề ra những nghị
quyết, những biện pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài và đã đạt được nhiều thành tựu

1


đáng kể, đồng thời cũng rút ra nhiều bài học quan trọng. Tuy nhiên, giai đoạn hiện
nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa, quốc tế hóa trên hầu khắp mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội; trong bối cảnh mà thế giới có nhiều biến động, đổi thay trong đời
sống chính trị - xã hội; bối cảnh mà toàn xã hội đang bị tác động của nền kinh tế thị
trường, đang phải đối mặt với những nguy cơ trong đó có âm mưu “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn,
dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẽo, nội bộ mất đoàn kết, chất lượng sinh
hoạt đảng giảm sút. Công tác tư tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập; công
tác tổ chức, cán bộ còn nhiều biểu hiện trì trệ. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng còn lúng túng, chưa đi sâu làm rõ đặc điểm và yêu cầu về sự lãnh đạo của

Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, chưa phát huy hiệu lực quản lý của các cơ
quan nhà nước, tính tích cực của các đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân. Việc
tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật
nhà nước còn yếu. Đồng thời những mặt trái của những yếu tố đó cũng tác động,
làm suy thoái tư cách, phẩm chất đạo đức lên một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên. Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí
Minh, có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, hữu khuynh, né tránh trong đấu tranh, ý
thức tổ chức kỷ luật kém, đạo đức, lối sống sa sút; vì những cám dỗ vật chất đã có
hành vi tham ô, tham nhũng, nhận hối lộ; có thái độ cửa quyền, hách dịch, gây
phiền hà nhân dân. Những khuyết điểm, yếu kém đó, tuy chỉ là số ít nhưng luôn là
vấn đề gây bức xúc trong dư luận nhân dân, gây ảnh hưởng đến uy tín và lòng tin
của nhân dân đối với Đảng. Tình hình đó đặt ra một yêu cầu cấp thiết là cần phải
xây dựng và đổi mới phương thức hoạt động của Đảng theo tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh để làm cho Đảng ngày càng trong sa ̣ch , vững mạnh.
Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, là Đảng bộ trực thuộc và đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Tỉnh uỷ Tiền Giang, trong suốt chặng đường phát triển của mình đã
lãnh đạo nhân dân thành phố Mỹ Tho vượt qua mọi khó khăn để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị, chăm lo công tác xây dựng Đảng gắn với xây dựng chính quyền
2


và các đoàn thể chính trị-xã hội trong sạch, vững mạnh, góp phần quan trọng đưa
tỉnh Tiền Giang phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Bên cạnh đó, Đảng bộ thành phố Mỹ Tho không tránh khỏi những hạn chế
nhất định trong phương thức lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng
bộ. Đặc biệt, tổ chức cơ sở đảng nhiều nơi còn yếu kém, phương thức lãnh đạo và
sinh hoạt còn lúng túng bị động, có tình trạng vừa thiếu dân chủ vừa thiếu kỷ luật,
kỷ cương. Một số cán bộ và cấp ủy chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, bệnh quan liêu hách dịch, độc đoán chuyên quyền, kèn cựa địa vị, cá
nhân chủ nghĩa còn nặng nề; một số nơi còn mất đoàn kết nghiêm trọng. Sức chiến

đấu, năng lực lãnh đạo của một bộ phận tổ chức cơ sở đảng chưa theo kịp đòi hỏi
của tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở. Tình hình đó đòi hỏi cần phải
nghiên cứu nghiêm túc, đánh giá đúng thực trạng để đề xuất các giải pháp góp phần
khắc phục những tồn tại, yếu kém, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tạo ra
những chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng qua đó góp phần xây dựng
Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, để xứng đáng là một Đảng cầm quyền.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đảng cầm quyền trong công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ
Tho, tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới ( từ 1986 đến 2011)” làm đề tài luận văn tốt
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và công tác xây dựng đảng là
vấn đề cốt lõi trong công tác lý luận của Đảng ta. Vì thế, nó đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Nhiều công trình, tài
liệu nghiên cứu có liên quan đến đề tài đã được công bố có giá trị cả về lý luận và
thực tiễn, trong đó có thể kể đến một số công trình, tài liệu sau:
- Đảng Cộng sản cầm quyền nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng,
tác giả GS.TS. Nguyễn Văn Huyên [24];
3


- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, tác giả Trần Đình Huỳnh Ngô Kim Ngân [25];
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
trong điều kiện Đảng cầm quyền, tác giả Lê Văn Lý [42];
- Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới,
tác giả Vũ Oanh [46];
- Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất
nước, tác giả PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc [48];
- Thể chế Đảng cầm quyền, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả TS. Đặng Đình Tân
[63];

- Xây dựng Đảng về tổ chức, tác giả Ngô Đức Tính [68], và một số công trình, tài liệu
khác.
Những công trình, tài liệu này đã tổng kết về lý luận và thực tiễn vai trò lãnh
đạo của đảng cầm quyền, đặc biệt là vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng làm rõ nội dung,
phương thức cầm quyết của Đảng, cũng như công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ
đổi mới, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Một số đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết của các vị
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài,
như:
- Nâng cao sức chiến đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối
quan hệ máu thịt với nhân dân, Đảng - dân một ý chí, bài của Tổng bí thư Lê Khả
Phiêu đăng trên Tạp chí Cộng sản, 4/2000 [49];
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
4


phát triển, bài của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đăng trên Tạp chí Xây dựng Đảng,
5/2006 [43];
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, tác giả Lê Đức Bình (2000), Tạp
chí xây dựng Đảng (9), Hà Nội [5];
- Vận dụng tư tưởng của Lê-nin về Đảng cầm quyền vào công cuộc xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, của GS.TS. Dương Xuân Ngọc, Tạp chí
Lý luận chính trị, 6/2006 [45];
- Đảng cầm quyền trong thời đại ngày nay và những vấn đề rút ra cho công
cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta, của GS. Đậu Thế Biểu, đề tài cấp Bộ, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội [6];
- Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, của PGS. Trần Đình Huỳnh, Đề tài
cấp Bộ, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội [26];

- Vị trí vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính
trị Việt Nam, của Nguyễn Văn Giang, luận văn thạc sĩ, chuyên ngành chính trị học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [20].
Ngoài ra còn có hệ thống giáo trình, tài liệu giáo khoa, sách chuyên khảo,
tham khảo, nhiều bài viết, bài nói liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm
quyền và công tác xây dựng đảng.
Phần lớn các công trình, đề tài, bài viết này có liên quan đến lĩnh vực nghiên
cứu của đề tài đề cập các nội dung dưới nhiều góc độ và phương diện tiếp cận khác
nhau, qua đó cung cấp cho tác giả nguồn tư liệu rất bổ ích, làm cơ sở lý luận cho
việc triển khai nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đảng cầm quyền với tư cách là một nội dung khoa học, có tính hệ thống và việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền trong công tác xây dựng Đảng tại
Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thời kỳ đổi mới cho đến nay chưa có

5


tác giả nào đề cập. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài này với mong muốn góp phần
luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn cấp bách đang đặt ra đối với công tác
xây dựng Đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn là làm rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về đảng cầm quyền; đánh giá đúng thực trạng và đưa ra các kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả công tác xây dựng Đảng tại Đảng bộ TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền
Giang.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung
giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về đảng cầm quyền theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.

+ Làm rõ thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm
quyền tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
+ Đề xuất một số kiến nghị về nâng cao chất lượng công tác xây dựng đảng
tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Các nhân tố bảo đảm sự lãnh đạo của của đảng; hệ
thống tổ chức đảng trong Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác xây dựng đảng tại Đảng bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền
Giang từ năm 1986 đến năm 2011.

6


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng cầm quyền và công tác xây dựng
đảng.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
liên ngành như: Điều tra, khảo sát, phân tích và tổng hợp; lôgíc và lịch sử, khai thác
và xử lý số liệu, tổng kết thực tiễn…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm rõ nội dung lý luận về đảng cầm
quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Làm rõ thực trạng công tác xây dựng đảng và đưa ra một số kiến nghị có
tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng đảng tại Đảng bộ thành
phố Mỹ Tho, góp phần xây dựng Đảng bộ tỉnh Tiền Giang vững mạnh.
- Ngoài ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy ở các trường Chính trị tỉnh, góp phần xây dựng chỉnh đốn Đảng ở nước ta
hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, phần nội dung luận văn được kết cấu thành 02 chương.
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đảng cầm quyền trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền tại Đảng
bộ thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến 2011).

7


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đảng cầm quyền
1.1.1. Khái niệm về đảng cầm quyền
Theo cách hiểu phổ biến trên thế giới hiện nay, đảng cầm quyền là đảng
giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử dân chủ và cạnh tranh. Trên cơ sở đó, đảng
đứng ra thành lập chính phủ và đưa ra các quyết định chính sách dưới danh nghĩa
quyền lực nhà nước, đại diện cho nhân dân.
Trong hệ thống nghị viện, đảng cầm quyền là đảng chính trị hoặc liên minh
chính trị chiếm đa số ghế trong nghị viện. Trong hệ thống này, đảng chiếm đa số
ghế trong cơ quan lập pháp cũng đồng thời là đảng kiểm soát nhánh hành pháp của
chính phủ. Các đảng còn lại sẽ trở thành đảng đối lập. Trong trường hợp không có
đảng nào chiếm đa số ghế, một số đảng sẽ hợp tác với nhau để hình thành chính phủ
liên minh. Do vậy, hiếm khi diễn ra tình trạng tranh chấp giữa đa số ghế trong quốc
hội với nhánh hành pháp, bởi vì đảng chiếm đa số ghế trong cơ quan lập pháp cũng
đồng thời là đảng của thủ tướng, hoặc nằm trong liên minh với đảng của thủ tướng.
Trong hệ thống tổng thống, ứng cử viên tổng thống của đảng nào được người
dân lựa chọn thông qua cuộc bầu cử, thì đảng đó được gọi là đảng cầm quyền. Như

vậy đảng cầm quyền là đảng của tổng thống, của người đứng đầu cơ quan hành
pháp, chứ không phải đảng chiếm đa số trong quốc hội. Hai chủ thể quyền lực này
được bầu ra theo những cách thức khác nhau. Trong tương quan quyền lực đó thì
quyền lực của tổng thống trội hơn so với quyền lực của quốc hội. Đảng của tổng
thống có thể chiếm đa số trong quốc hội, nhưng cũng có thể không.
Đảng cầm quyền cũng là thuật ngữ dùng để chỉ các Đảng Cộng sản ở những
nước có duy nhất một đảng cầm quyền, đang nắm chính quyền để lãnh đạo cách

8


mạng của các nước đó, như Đảng cộng sản Trung Quốc (dù nhiều đảng nhưng thực
chất là một đảng cầm quyền), Đảng Cộng sản Việt Nam.
Như vậy, khái niệm đảng cầm quyền được hiểu theo các nghĩa sau:
Một là, nói tới đảng cầm quyền tức là nói tới vị thế của đảng trong sự so sánh
với các đảng chính trị khác - những đảng không cầm quyền. Khi cuộc bầu cử kết
thúc, đảng chiếm đa số ghế trong quốc hội (trong hệ thống đại nghị), hoặc ứng cử
viên trúng cử chức tổng thống (là thủ lĩnh của đảng trong hệ thống tổng thống) sẽ
đứng ra thành lập chính phủ; còn các đảng thiểu số (trong hệ thống đại nghị), hoặc
đảng thất cử (trong hệ thống tổng thống) sẽ trở thành những đảng đối lập.
Ở Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ
“đảng cầm quyền”. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền là do:
Đảng đi tiên phong trong sự nghiệp đấu tranh của nhân dân và dân tộc, đưa đến
cách mạng thành công, giành chính quyền; Đảng có đựơc sự tín nhiệm, ủng hộ của
quần chúng nhân dân, mà nòng cốt là liên minh giữa công nhân, nông dân và trí
thức.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trong thực chất cũng là nhân dân nắm
quyền. Khi có chính quyền, nhân dân lao động từ địa vị làm thuê trở thành người
chủ xã hội. Mọi quyền lực lúc này đều thuộc về nhân dân. Đảng Cộng sản được
nhân dân tín nhiệm giao trách nhiệm lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội, Đảng trở

thành người chịu trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc. Mục đích cầm quyền của
đảng là lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập của Tổ quốc,
đem lại tự do, hạnh phúc, dân chủ cho nhân dân, bảo đảm cho nhân dân làm chủ,
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đảng
cầm quyền là để đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân; Đảng không có mục đích nào khác ngoài mục đích phục vụ Tổ quốc
và nhân dân.

9


Hai là, đảng cầm quyền là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt của bộ máy
nhà nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi chính sách quốc gia. Thủ
lĩnh của đảng sẽ trở thành thủ tướng chính phủ (hoặc tổng thống), các nhân vật cao
cấp trong đảng sẽ trở thành các bộ trưởng trong chính phủ.
Ba là, đảng cầm quyền là lãnh đạo người của chính mình trong bộ máy nhà
nước thực hiện các mục tiêu phát triển của đảng thông qua các chính sách của nhà
nước. Nắm giữ quyền lực nhà nước nhưng các đảng cầm quyền không bao giờ làm
thay công việc nhà nước , hay can thiệp một cách trực tiếp vào công việc của nhà
nước. Điều đó là bất hợp pháp, vì thế bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ có quyền lực
chính trị, chứ không có quyền lực nhà nước. Các đảng chỉ có quyền lực nhà nước khi
nó trở thành đảng cầm quyền, và khi đó các quyết định của đảng phái được đưa ra
dưới danh nghĩa quyền lực nhà nước (quyền lực do người dân uỷ nhiệm), thông qua
các thủ tục, các quá trình đã được pháp luật quy định, chứ không phải đưa ra các
quyết định nhân danh đảng.
Như vậy, khái niệm đảng cầm quyền được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
nhưng có thể hiểu theo một cách tổng quát như sau: “Đảng cầm quyền” là một khái
niệm của khoa học chính trị, có nội dung xác định, cho biết đảng chính trị nào là
lực lượng nắm chính quyền, quản lý nhà nước, điều hành mọi hoạt động của xã hội
phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.

Khái niệm “đảng cầm quyền” chứa dựng trong nó cả “đảng lãnh đạo” – đảng
lãnh đạo thuận lợi hơn, có công cụ mạnh mẽ hơn trong điều kiện cầm quyền; đảng
cầm quyền để lãnh đạo, và chính sự cầm quyền như đã nêu trên, thực chất đã mang
nghĩa lãnh đạo. Đồng thời được dùng như là “đảng lãnh đạo”; và “nội dung và
phương thức cầm quyền của đảng”, vì vậy, cũng được dùng như là nội dung và
phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội.

10


1.1.2. Bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng cầm quyền
1.1.2.1. Bản chất giai cấp của đảng trong mối quan hệ với tính dân tộc và tính nhân
dân
Bất cứ một đảng chính trị nào cũng là sản phẩm của đấu tranh gia cấp và
mang bản chất của một giai cấp, bênh vực và bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất
định. Bản chất giai cấp của đảng là nguyên lý cơ bản nhất trong học thuyết Mác Lênin về Đảng Cộng sản, là vấn đề cốt lõi trong xây dựng đảng, nhất là đối với
những đảng ra đời ở các nước chậm phát triển, giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ
bé như Việt Nam.
Về vấn đề bản chất giai cấp, Đảng ta đã khẳng định: Đảng mang bản chất của
giai cấp công nhân, đồng thời Đảng đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của
cả dân tộc, chứ không riêng của giai cấp công nhân. Ở nước ta, lợi ích giai cấp công
nhân thống nhất với lợi ích của dân tộc. Cương lĩnh năm 1991 và điều lệ Đảng ghi:
Đảng “ là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi
ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc” [17, tr.21] hoàn
toàn là đúng.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, bản chất giai cấp công nhân không loại
trừ, đối lập với tinh thần dân tộc, trái lại nó quyện chặt nhuần nhuyễn với tính dân
tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ: Giai cấp công nhân có quan hệ máu
thịt với giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc; lợi ích của gia cấp công nhân thống
nhất với lợi ích nhân dân lao động và của toàn dân tộc; từng cá nhân và cả cộng

đồng xã hội đều được giải phóng, phát triển. Đấu tranh giai cấp và đấu tranh giải
phóng dân tộc gắn chặt với nhau. Đảng ta không những đại biểu cho lợi ích giai cấp,
mà còn đại biểu lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc, thực tế là Đảng đã
và đang đấu tranh vì lợi ích giai cấp, của nhân dân lao động và cả dân tộc. Đảng
chẳng những thường xuyên giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân, mà
còn chú ý phát huy tinh hoa truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc dân
11


tộc Việt Nam, Đảng không ngừng vươn lên một tầm cao mới cả về trí tuệ và đạo
đức, xứng đáng với vị trí tiên phong, là trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thấm sâu vào tất cả các mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức, tức là cả trong nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ
chức và mọi hoạt động của Đảng. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân, Đảng có thể và cần phải kết nạp vào hàng ngũ
của mình nhưng người ưu tú thuộc các tầng lớp nhân dân lao động khác nếu họ từ bỏ
quan điểm thành phần giai cấp xuất thân, giác ngộ và tự nguyện đứng trên lập trường
giai cấp công nhân, tuân thủ Điều lệ Đảng và phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Đảng
giao.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Đảng phải thật sự là đội tiên phong dũng cảm và
bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc” [38, tr.608]. Theo Hồ Chí Minh tính tiên phong của Đảng phải thể hiện trên cả
ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tính tiên phong của Đảng thể hiện ở những
điểm sau:
- Có lý luận cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là những sáng tạo lý luận bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ tổng kết hoạt động thực tiễn của Đảng và nhân
dân. Lý luận cách mạng và khoa học là cở sở cho việc đề ra và hoàn thiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, thâm nhập vào phong trào cách mạng, hướng
dẫn cuộc sống hằng ngày của quần chúng.
- Các đảng viên phải là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp

công nhân, mẫu mực trong tư tưởng, đạo đức, lối sống, luôn luôn hăng hái đi đầu
thực hiện đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên
lợi ích cá nhân, từ đó ra sức cổ vũ và tổ chức nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ
cách mạng.
12


- Các tổ chức Đảng được tổ chức chặt chẽ, tập hợp và phát huy được trí tuệ của
đảng viên và nhân dân, hành động theo một ý chí thống nhất, có tác dụng rèn luyện
đảng viên, cổ vũ và lôi cuốn toàn thể địa phương, đơn vị hoàn thành mọi nhiệm vụ
chính trị.
1.1.2.2. Nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng
Nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng chính là những nguyên tắc áp dụng trong nội
bộ Đảng, cũng là nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng tồn tại là để lãnh đạo cách mạng, do
vậy nguyên tắc xây dựng Đảng bao hàm cả nguyên tắc trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, những nguyên tắc cơ
bản nhất trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng đó là:
Thứ nhất, nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng, là nguyên tắc cơ bản nhất có ý nghĩa sống còn của Đảng. Quá trình hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về khái niệm tập trung dân chủ không tách rời quá
trình hình thành và phát triển tư tưởng về Đảng và xây dựng Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ nghĩa là “có đảng chương
thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục
tùng toàn thể, số ít phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng Trung ương”[33, tr.275]. Bên cạnh đó tập trung trên nền
tảng dân chủ. Cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có uy tín và quyền lực chân chính.
Mọi đảng viên nhất định phải chấp hành các phương châm, chính sách, nghị quyết

của Đảng, phải tuân theo kỹ luật Đảng. Thế là tập trung nhưng tập trung ấy không
phải là cá nhân độc đoán; nó là xây dựng trên nền dân chủ. Nghĩa là:
- Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu cử lên.

13


- Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng đều do quần chúng, đảng
viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến lại mà thành. Rồi lại do các cuộc hội nghị của
Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai được tự ý độc đoán.
- Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó cho,
chứ không phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người lãnh đạo phải gần gũi và học
hỏi quần chúng, đảng viên lắng nghe ý kiến của họ. Nếu lên mặt với quần chúng,
lạm dụng quyền lực - thế là sai lầm.
- Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số
nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên, các địa phương phải phục tùng Trung
ương.
Còn đối với dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: Ở trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải
quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái
nghị quyết và trái kỹ luật của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một kiên trì thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ. Trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền nguyên tắc này
càng được chú trọng thực hiện nghiêm túc hơn bao giờ hết. Để Đảng thực sự là biểu
tượng về dân chủ, đoàn kết thống nhất cần phải:
- Đẩy mạnh nghiên cứu thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm: Để khắc phục quan
liêu, mở rộng dân chủ, đoàn kết nội bộ, trước hết mọi cán bộ, nhất là người lãnh đạo,
cần đi sâu đi sát thực tế, hiểu thấu tâm trạng nhân dân, tổng kết thực tiễn, xây dựng và
hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với đòi hỏi khách quan của
cuộc sống.

- Mở rộng sinh hoạt dân chủ và nâng cao chất lượng lãnh đạo tập thể, từ hội
nghị cấp ủy cho tới đại hội Đảng ở các cấp: Các hội nghị cấp ủy từ Trung ương đến

14


cơ sở phải là mẫu mực về sinh hoạt dân chủ nội bộ và về chất lượng lãnh đạo tập
thể. Khắc phục triệt để tình trạng lãnh đạo tập thể một cách hình thức.
- Tăng cường kiểm tra và xử lý triệt để nếu có dấu hiệu vi phạm tránh tình
trạng nể nang, dĩ hòa di qúy. Trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền
đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra phát huy dân chủ trong Đảng.
- Dân chủ hóa trong công tác quản lý cán bộ mới có thể tìm hiểu, đánh giá
cán bộ đúng, mới có thể phát hiện và sử dụng nhân tài, tránh được kẻ cơ hội chui
luồn vào Đảng cầm quyền. Đồng thời tăng cường đoàn kết nội bộ, tạo không khí
tích cực và tin cậy của đội ngũ cán bộ với cấp lãnh đạo, cần khắc phục quan niệm
không đúng khi coi công tác cán bộ là việc bí mật chỉ một ít người lãnh đạo được
biết, được bàn.
Như vậy, toàn Đảng phải nhận thức sâu sắc và thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc thuộc về bản chất của Đảng Cộng sản chân
chính; là nguyên tắc tổ chức cơ bản nhất, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng; là
thước đo của mỗi tổ chức Đảng và đảng viên. Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ
đạo việc xây dựng tổ chức và mọi hoạt động của Đảng chứ không chỉ là nguyên tắc
sinh hoạt Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ đảm sự thống nhất ý chí và hành
động, tập hợp được trí tuệ, sức mạnh của tập thể, đoàn kết được nội bộ. Khi trở
thành Đảng cầm quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ còn trở thành nguyên tắc
trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Kinh nghiệm thực tiễn cũng
khẳng định sự thành công hay thất bại của các Đảng cộng sản trên thế giới đều có
nguyên nhân từ nhận thức việc thực hiện đúng hay sai nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vì vậy, phải thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; xa rời nguyên tắc này
Đảng sẽ mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái vô chính phủ phát triển. Nội bộ

Đảng sẽ chia rẽ, cuối cùng đưa đến Đảng tan rã.

15


Thứ hai, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Chủ Tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén để Đảng
thường xuyên trở nên trong sạch, vững mạnh. Đây được coi là “quy luật” phát triển
của Đảng, cũng có khi được coi là nguyên tắc, là một chế độ trong sinh hoạt Đảng.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập toàn diện
về vấn đề tự phê bình và phê bình. Người nhấn mạnh vai trò, tác dụng nhiều mặt
của tự phê bình và phê bình, coi đó là vũ khí sắc bén để làm cho Đảng luôn trong
sạch, vững mạnh. Về mục đích tự phê bình và phê bình, Hồ Chí minh chỉ rõ: cốt
để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiếu bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt
hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên
ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải tự rửa mặt.
Được như thế thì trong Đảng sẽ không còn bệnh tật nên Đảng sẽ mạnh khỏe vô
cùng. Để đạt mục đích đó, thái độ tự phê bình và phê bình phải triệt để thật thà,
không nể nang.
Người luôn quan tâm đến việc duy trì thành nề nếp tự phê bình và phê bình
như việc mỗi người phải rửa mặt hàng ngày, đó là yếu tố quan trọng để Đảng phát
triển, để cách mạng thu được thắng lợi. Người dạy “Một Đảng mà dấu diếm khuyết
điểm của mình là một đảng hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của
mình, vạch rõ những cái sai đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh
ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là
một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[30, tr.301].
Tự phê bình và phê bình là quy luật tất yếu để xây dựng và phát triển Đảng ta.
Nhận thức đúng về ý nghĩa, vai trò của tự phê bình và phê bình, đồng thời vận dụng
vào xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; xây dựng và phát triển Đảng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đảng ta cần phải tập trung làm tốt các vấn

đề sau:

16


- Các tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng tiếp tục quán
triệt sâu sắc quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình. Từng cán
bộ, đảng viên thường xuyên, nghiêm túc kiểm điểm, bản thân mình nhận thức về các
vấn đề trong cuộc sống, học tập, công tác với mục tiêu vì sự hoàn thiện của cá nhân
và tổ chức.
- Các tổ chức đảng đổi mới, nâng cao chất lượng việc thực hiện các chế độ
sinh hoạt và hoạt động. Thực hiện sinh hoạt và hoạt động theo nguyên tắc dân chủ,
công khai, minh bạch, đoàn kết, thống nhất trên cơ sở giải quyết hài hòa các mối quan
hệ lợi ích. Giải quyết các mâu thuẫn nội bộ thông qua phương thức tự phê bình và
phê bình. Gắn chặt việc thực hiện tự phê bình và phê bình với thực hiện các chế độ
khác. Mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên phải xây dựng phương hướng, kế
hoạch, nội dung, biện pháp khắc phục, sữa chữa những hạn chế, khuyết điểm, yếu
kém theo lộ trình rõ ràng.
- Coi trọng việc nêu gương, biểu dương, khen thưởng người tốt, việc tốt. Cán
bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải tự giác, gương mẫu tự phê bình và phê bình trước
thái độ nghiêm túc, trung thực, chân thành tiếp thu ý kiến đóng góp, phê bình của cấp
dưới. Tự phê bình và phê bình phải kết hợp hai chiều từ trên xuống và từ dưới lên.
- Tự phê bình và phê bình nhằm xây dựng, củng cố, hoàn thiện con người và
tổ chức; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Phê bình là một
nghệ thuật và khoa học, đòi hỏi người phê bình phải có kiến thức, phương pháp, phê
bình đúng cách, phù hợp với tâm lý, cá tính, trình độ tiếp thu của người được phê
bình. Phê bình phải đúng lúc, đúng người, đúng việc, thẳng thắn, chân tình khách
quan. Người được phê bình phải cầu thị, khiêm tốn, chân thành tiếp thu sự phê bình.
Cần phê phán việc lợi dụng phê bình để mưu cầu lợi ích cá nhân.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp trong thực hiện tự phê bình và phê bình. Kết

hợp cá nhân với gia đình, đơn vị, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân. Tự phê
bình không chỉ dừng lại là huấn thị, diễn thuyết mà còn cần được gắn với công tác
kiểm tra, kỷ luật Đảng, phải xử lý nghiêm minh kịp thời những trường hợp vi phạm.
17


×