Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Vận dụng tư tưởng dân chủ của hồ chí minh vào nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân tỉnh ninh bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***------------

NGUYỄN THU HIỀN
\

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀO NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***------------

NGUYỄN THU HIỀN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH
VÀO NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.02.04

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đoàn Thị Minh Oanh


Hà Nội – 2014


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp "Vận dụng tƣ tƣởng dân chủ của
Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh Ninh Bình hiện nay "tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy,
cô giáo, cán bộ Khoa Khoa học Chính trị – Đại học Khoa học Xã hội &
Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đoàn Thị Minh Oanh đã
trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã động
viên và nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cám ơn!
Ninh Bình, ngày 22 tháng 04 năm 2014
Học viên

Nguyễn Thu Hiền


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của PGS, TS. Đoàn Thị Minh Oanh. Các
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công
bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào.
Ninh Bình, ngày 22 tháng 04 năm 2014
Tác giả

NGUYỄN THU HIỀN



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

TAND

Tòa án nhân dân

CNH,HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBHC

Ủy ban hành chính

UBND


Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG - BẢN ĐỒ
Trang

2.1. Bản đồ hành chính Ninh Bình………………………………………

37


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài........................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn................................................. 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.................................................. 5
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu: ............................. 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................................ 6
7. Kết cấu của luận văn................................................................................................ 7
Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ QUY ĐỊNH
CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP TỈNH .................................................................................................................... 8
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ .................................................................... 8
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ ...................................................... 8
1.1.2. Một số nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng dân chủ của Hồ Chí Minh ........ 10
1.2. Quy định cơ bản về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
– thiết chế nhà nƣớc tại địa phƣơng. ....................................................................... 21

1.2.1. Quy định cơ bản về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh dƣới ánh sáng tƣ tƣởng dân chủ của Hồ Chí Minh...................................... 21
1.2.2. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá chất lƣợng hoạt động của HĐND cấp
tỉnh. ............................................................................................................................... 31
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................. 35
Chƣơng 2...................................................................................................................... 36
HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH .............. 36
HIỆN NAY– THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ......................................... 36
2.1. Thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình từ 2004 đến
7/2013. ........................................................................................................................... 37
2.1.1. Tổ chức của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình hiện nay ......................... 37


2.1.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình.
........................................................................................................................................ 54
2.2. Nguyên nhân của thực trạng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh
Bình từ 2004 đến 7/2013. ........................................................................................... 63
2.2.1. Ƣu điểm và những nguyên nhân .................................................................... 63
2.2.2. Hạn chế và những nguyên nhân..................................................................... 66
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ........................................................................................... 71
Chƣơng 3...................................................................................................................... 72
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY..................... 72
DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG DÂN CHỦ CỦA HỒ CHÍ MINH ............... 72
3.1. Quan điểm nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh
Ninh Bình hiện nay..................................................................................................... 72
3.1.1. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình
phải bám sát yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN trong giai đoạn
hiện nay. ....................................................................................................................... 72
3.1.2. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình

phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ đại biểu Hội đồng nhân dân. .............. 73
3.1.3. Nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình
phải đƣợc tiến hành có kế hoạch và thƣờng xuyên, liên tục. .............................. 74
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lƣợng hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh Ninh Bình hiện nay. ......................................................................... 75
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội
đồng nhân dân cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. ............................................. 75
3.2.2. Xây dựng đội ngũ đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình phải chặt
chẽ, đồng bộ ở tất cả các khâu từ xây dựng tiêu chuẩn, bầu chọn, đào tạo bồi
dƣỡng và đảm bảo hợp lý trong cơ cấu .................................................................. 77
3.2.3. Tăng cƣờng tuyên truyền nâng cao văn hóa dân chủ cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân, đặc biệt luật về tổ chức và hoạt động của HĐND................. 83


3.2.4. Nâng cao chất lƣợng và đảm bảo tính dân chủ trong các kỳ họp Hội
đồng nhân dân tỉnh .................................................................................................... 84
3.2.5. Nâng cao chất lƣợng và các điều kiện để đảm bảo tính dân chủ trong
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh................................................... 88
3.2.6. Đảm bảo chính sách đãi ngộ và tăng cƣờng cơ sở vật chất kỹ thuật và
hiện đại hóa trang bị làm việc của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh .............................................................................................................. 90
3.2.7. Tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh . ............................................................................................................ 93
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 97


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là nhà tư tưởng, vừa là nhà thực hành dân

chủ vĩ đại của thế kỷ XX. Người không chỉ đề xuất các quan điểm về dân chủ
mà Người còn khai sinh, xây dựng nền dân chủ mới ở nước ta và là tấm
gương mẫu mực về thực hiện dân chủ. Người khẳng định: dân chủ là bản chất
của nước ta, dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước phải lấy dân làm
gốc, nhân dân làm chủ Nhà nước và nhân dân thực hiện quyền lực của mình
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND). Người nhấn mạnh:
“Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương” [36, tr.591].
Sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói
chung và HĐND nói riêng gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, Đảng và Nhà nước ta
đã quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển HĐND. Sắc lệnh tổ chức và hoạt
động của HĐND và Ủy ban Hành chính (UBHC) (Số 63/SL ngày 22-111945) do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký là văn bản pháp luật đầu tiên đặt nền
móng cho việc tổ chức, hoạt động của HĐND các cấp. Trải qua các giai đoạn
lịch sử, thiết chế HĐND đã không ngừng được hoàn thiện, đóng một vai trò
quan trọng trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong bộ máy nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất ở cơ sở. Tuy nhiên
trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của HĐND hiện nay do nhiều nguyên
nhân vẫn còn những hạn chế nhất định, thực chất chưa tương xứng với vị trí,
vai trò của HĐND trong hệ thống quyền lực nhà nước cũng như với nhiệm vụ
mà nhân dân giao phó. Nhiều nơi hoạt động của HĐND chỉ mang tính hình
1


thức, thậm chí vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, cản trở quá trình dân
chủ hoá đời sống xã hội. HĐND tỉnh Ninh Bình cùng với Đảng bộ và chính
quyền tỉnh trong những năm vừa qua đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành

với những chủ trương sát đúng, phù hợp cùng với sự nỗ lực của quân và nhân,
các cấp các ngành vượt qua các thách thức khó khăn. Tuy nhiên để đáp ứng
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng như nguyện vọng của nhân dân địa
phương thì việc đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nói chung
và HĐND tỉnh Ninh Bình hiện nay là hết sức cần thiết góp phần đẩy mạnh sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, việc nâng cao chấ t lượng thực hiê ̣n dân chủ trong hoạt động của
HĐND các cấp càng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong quá trình dân chủ hóa XHCN ở nước ta hiện nay. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là nền tảng cho việc tổ chức và hoạt động của
HĐND các cấp từ khi ra đời cho đến nay. Tuy nhiên, trong những năm qua
việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vận dụng
vào tổ chức và hoạt động của HĐND ở nhiều địa phương, trong đó có Ninh
Bình còn nhiều bất cập, hạn chế.
Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề
tài "Vận dụng tƣ tƣởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào nâng cao chất lƣợng
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình hiện nay" làm luận văn
Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về vấn đề dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và thực
hành dân chủ trong hoạt động của Hội đồng nhân dân và hệ thống các cơ quan
quyền lực nhà nước nói chung trên thực tế đã thu hút được sự chú ý của nhiều
nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: Luật
học, Lý luận và lịch sử của nhà nước và pháp luật, Hành chính học, Chính trị
học... cho nên có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này đã được
công bố. Căn cứ vào nội dung có thể chia thành các nhóm sau:
2


Nhóm thứ nhất gồm các công trình nghiên cứu về dân chủ, thực hiện

dân chủ trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Có thể nêu ra một số công trình tiêu
biểu nhƣ:
- Nguyễn Đình Lộc: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1997.
- Phạm Ngọc Anh, Ngô Vương Anh, Nguyễn Khánh Bật...; Phạm Văn Bính
(chủ biên): Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, NXb. Chính trị Quốc gia, 2007.
- Phạm Thành, Nguyễn Khắc Mai: Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh, Nxb. Sự thật, 1991.
- Phạm Văn Bính: Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ của Hồ
Chí Minh trong quá trình thực hiện dân chủ XHCN ở Việt Nam: Luận văn tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
- Đặng Thị Nhiệt Thư : Tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về dân
chủ Tạp chí Lịch sử Đảng , số 3/2005 - tr.40-43.
- Lê Xuân Đình: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện
dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 20/2004 – tr.34-38.
- Đoàn Thị Minh Oanh: Kiểm soát quyền lực Nhà nước đảm bảo dân
chủ ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 12/2013.
Trong các công trình trên, các tác giả đã phân tích rõ các nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ như quan niệm Hồ Chí Minh về
dân chủ, các quan điểm của Người về dân chủ trong các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội; phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, đánh giá được
giá trị thực tiễn và lý luận của nó. Từ đó đề xuất các giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới, phát huy dân chủ trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Song vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh vào hoạt động của HĐND thì chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu.
Nhóm thứ hai bao gồm các công trình nghiên cứu về hoạt động của
Hội đồng nhân dân và hệ thống các cơ quan quyền lực Nhà nƣớc bao gồm
một số công trình nhƣ sau:
3



- Nguyễn Đăng Dung: Hội đồng Nhân dân trong hệ thống các cơ quan
quyền lực nhà nước, Nxb Pháp Lý, 1988.
- Vũ Thị Loan: Một số vấn đề về hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2010.
- Bùi Huyền Mai: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện
Nhà nước và pháp luật, 2004.
- Vũ Mạnh Thông: Nâng cao hiệu lực giám sát của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998.
- Nguyễn Thị Hồi: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở nước ta
hiện nay, tạp chí Luật học, số 1/2004.
- Trương Đắc Linh: Tổ chức và hoạt động của các ban của Hội đồng
nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2/2003.
- Đinh Ngọc Quang: Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005
- Đinh Xuân Thảo: Tăng cường thực hành dân chủ trong hoạt động của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạp chí: Nghiên cứu Pháp luật, số
4/2010.
- Nguyễn Quốc Tuấn: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà
nước, số 6/2002.
Các công trình trên đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản
của HĐND về vai trò, vị trí, chức năng trong hệ thống chính trị nước ta.
Trong đó có các công trình nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức, hoạt động của
HĐND cụ thể như: vấn đề bầu cử của HĐND, hoạt động các ban của HĐND,
hoạt động giám sát của HĐND…Tuy nhiên chưa có đề tài đề cập đến việc
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh trên cơ sở vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh.

4


Nhìn chung, các công trình trên đã phản ánh được nhiều khía cạnh của
tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và về tổ chức và hoạt động cũng như vị trí
và vai trò của HĐND trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Các công trình góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận của Hồ Chí
Minh về dân chủ, đề xuất hướng vận dụng tư tưởng trên vào việc xây dựng và
phát huy dân chủ trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Song, chưa có công trình
chuyên khảo nào nghiên cứu tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh vào việc nâng cao
hiệu quả hoạt động của HĐND cấp tỉnh. Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những
thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, tác giả luận văn cố gắng đi sâu
nghiên cứu vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vào một địa phương cụ
thể đó là nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh Ninh Bình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, việc thực
hiện dân chủ trong hoạt động của HĐND tỉnh Ninh Bình thời gian vừa qua để
đề ra những giải pháp đảm bảo phát huy dân chủ cao độ trong hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Khái quát hóa, phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ,
thực hành dân chủ của Nhà nước thể hiện trong hoạt động của Hội đồng nhân dân.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ trong hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình hiện nay trên cơ sở vận dụng một cách
triệt để, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5


Luận văn nghiên cứu về tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh và sự vận
dụng tư tưởng ấy trong hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình giai
đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong các HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật.
Ở cấp này, hoạt động của HĐND được thể hiện một cách bao quát và đầy đủ
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương. Do đó, luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của tư tưởng dân chủ của Hồ Chí
Minh và khảo sát việc vận dụng tư tưởng đó trong hoạt động của HĐND tỉnh
ở Ninh Bình qua nhiệm kỳ 2004-2011 và 2011-2016 (tính đến tháng 7 năm 2013).
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, các quan
điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về đổi mới bộ máy nhà
nước nói chung trong đó có Hội đồng nhân dân nói riêng và kế thừa các quan
niệm của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài này.
- Cơ sở thực tiễn: các số liệu được điều tra, khảo sát về hoạt động của
HĐND tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay của các công trình khoa học đã
công bố, trong các báo cáo của HĐND tỉnh Ninh Bình, UBND tỉnh Ninh Bình
từ 2004 tính đến 7/2013, của tác giả trong quá trình nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và những
phương pháp nghiên cứu cụ thể như điều tra xã hội học, phỏng vấn sâu, phân
tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, tổng kết thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Thông qua việc tìm hiểu thực tế những người trực tiếp hoạt động trong

HĐND tỉnh Ninh Bình - đại diện cho tiếng nói, ý chí của nhân dân và từ phía
6


nhân dân đối với cơ quan đại diện cho họ, phân tích đánh giá thực trạng thực
hiện dân chủ trong hoạt động của HĐND tỉnh Ninh Bình, luận văn xác định hệ
thống giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND tỉnh Ninh Bình để
đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương hiện nay dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
về Tư tưởng Hồ Chí Minh, về quyền lực nhà nước và các cơ quan quyền lực nhà
nước, về hệ thống chính trị cơ sở... ở các trường cao đẳng, đại học và các trường
đào tạo cán bộ của Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn: Phần mở đầu; nội dung; kết luận; danh mục tài
liệu tham khảo. Phần nội dung của luận văn gồm ba chương, sáu tiết.

7


Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ VÀ QUY ĐỊNH CƠ BẢN VỀ
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân chủ
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Hồ Chí Minh không có tác phẩm chuyên khảo bàn sâu về dân chủ.
Song theo thống kê trong Hồ Chí Minh toàn tập (12 tập) thuật ngữ “dân chủ”
được Người dùng trên 1600 lần1 với những ý nghĩa sâu xa khác nhau, tùy theo
hướng tiếp cận và sự phát triển tư duy về dân chủ của Người. Vậy quan niệm
của Hồ Chí Minh về dân chủ như thế nào?

Bằng cách hỏi và đáp là cách diễn đạt mà người dân ít học hoặc có học
đều dễ nhớ, dễ hiểu, Hồ Chí Minh đặt câu hỏi trước hàng vạn quần chúng Hải
Phòng: “Dân chủ là thế nào?” và Người tự trả lời: “Là dân làm chủ” [35
,tr.375]. Rõ ràng theo văn cảnh Hồ Chí Minh nói thì dân chủ là dân làm chủ
khi nhân dân Việt Nam đã là chủ đất nước của mình. Do vậy, dân chủ nghĩa là
dân là chủ và dân làm chủ. Trong đó, dân làm chủ mới có giá trị thực tế, quyết
định song chỉ khi vị trí là chủ của dân được xác định, thì vai trò làm chủ của
dân mới được xác lập, tức là dân chủ qua các hoạt động thực tiễn. Trong thực
tế không phải không có trường hợp dân là chủ đất nước, là chủ nhà nước
nhưng không biết làm chủ, thậm chí không được làm chủ. Ngay ở nước Pháp,
nước Mỹ những cái nôi của cách mạng dân chủ tư sản, nhưng Hồ Chí Minh
vẫn phát hiện ra: “Tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mạng đã 4 lần rồi, mà nay
công nông Pháp hãy còn phải mưu cách mạng lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng
áp bức” [29, tr.274].
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh quyết tâm đưa “nước ta phải đi đến dân chủ
thực sự” [34, tr.25] nghĩa là “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” [30, tr.698]
1

Luận án tiến sĩ triết học :”Vận dụng tư tưởng và phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trong quá trình dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của Phạm Văn Bính

8


“Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm” [39, tr.223].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có người dân trừu tượng, bao giờ
Người cũng nói đến người dân cụ thể, lịch sử. Tùy theo từng thời điểm lịch
sử, gắn với hoàn cảnh cụ thể, Người dùng những cụm từ khác nhau để chỉ con

người, người dân và xem xét nó trong những bình diện, những chiều khác nhau
của mối quan hệ xã hội. Song, bao giờ Người cũng tâm niệm “Nhân nghĩa là
nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” [35, tr.276]
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân sâu sắc như vậy, nên mọi suy nghĩ,
hành động của Người đều hướng về dân, đều nhằm đem lại lợi ích cho nhân
dân lao động. Người thường xuyên thực hiện và yêu cầu cán bộ, đảng viên
cũng luôn thực hiện “việc gì có lợi cho dân, thì làm cho kỳ được. Việc gì hại
cho dân cần hết sức tránh”, “phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước
hết”, “phải gần dân, hiểu dân, học dân, thương yêu, kính trọng dân”, phải tin
ở dân, tin ở sức mạnh của dân là vô địch. Đó là những điều căn bản nhất trong
quan niệm về dân – chủ thể của dân chủ - theo Hồ Chí Minh.
Cái đặc sắc, cái đã đưa tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh vượt lên trên
tư tưởng dân chủ của các nhà Nho duy tân cùng thời, mang tầm thời đại chính
là ở quan điểm dân vừa là chủ, dân vừa làm chủ.
Với Hồ Chí Minh dân không chỉ là gốc mà Đảng và Nhà nước phải
“lấy dân làm gốc”. Bởi vì, dân là gốc của nước đó là quy luật mang tính
khách quan dù người dân có cầm quyền hay không. Do vậy, Hồ Chí Minh cho
rằng: “gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Phải
chăm sóc cho cái gốc ấy bền vững. Để gốc dân vững Người yêu cầu phải
chăm lo, ưu tiên cho các tầng lớp nhân dân lao động. Họ là số đông lực lượng,
có khả năng và giữ vị trí chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
9


Do vậy, “mọi lợi ích là vì dân”, “giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào
cho hợp lý, cho lợi dân” [33, tr.175], để thu phục, tập hợp, đoàn kết dân. Bởi
vì “trong thế giới – theo Hồ Chí Minh – không có gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân” [35, tr.276]. Có thể nói, quan điểm lấy dân làm gốc
của Hồ Chí Minh từ ý thức đạo đức đã phát triển thành ý thức chính trị, thành
nguyên tắc pháp trị. Đã là nguyên tắc pháp trị thì mọi thành viên xã hội, từ

dân thường đến người cầm quyền, lãnh đạo phải tuân theo, phải lấy dân làm
gốc. Nghĩa là phải “đem tài dân, sức dân, của dân mà làm lợi cho dân”. Xét
trên phương diện lợi ích thì dân làm gốc cũng thống nhất với dân làm chủ.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ là một quan niệm hiện đại.
Ngày nay, người ta cũng nói về dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân
và quyền lực được hiểu rộng rãi gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Hồ Chí Minh không nói dân chủ là dân nắm quyền mà nói dân làm chủ và lý
giải nội dung làm chủ một cách toàn diện và sâu sắc: làm chủ nhà nước, làm
chủ ruộng đồng, nhà máy xí nghiệp (tư liệu sản xuất)… đến làm chủ về văn
hóa, tinh thần, nghĩa là dân chủ trong hiện thực cho mọi người và trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Một số nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng dân chủ của Hồ Chí Minh
Có thể khái quát nội dung cơ bản của dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh bao quát trong 3 lĩnh vực chủ yếu: chính trị, kinh tế, văn hóa – tinh thần
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Dân chủ trong lĩnh vực chính trị biểu hiện ở mức độ tham gia của nhân
dân lao động vào hoạt động quản lý, vào đời sống chính trị - xã hội, vào các
công việc của nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội mà mình là thành
viên phù hợp với mục tiêu, bản chất của thể chế, phù hợp với những quy định
pháp luật. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị là một trong những nội dung quan
10


trọng trong tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, được Người đề cập qua nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ, song đáng chú ý là tính chất của nhà nước, địa vị và vai trò
của dân trong quản lý xã hội, quan hệ giữa dân và công chức nhà nước.
Khẳng định địa vị của nhân dân và thể hiện nó trong thực tiễn là hòn đá
thử về một nền dân chủ, một thiết chế dân chủ đích thực hay giả dối. Với Hồ
Chí Minh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ” [34,
tr.499]. Theo Người, địa vị là chủ được quyết định bởi mọi quyền hành và lực

lượng là của dân, mọi công việc là do dân và do đó thành quả của nền dân
chủ với địa vị cao nhất là nhân dân thì mọi lợi ích của dân chứ không phải
một thiểu số nào. Vị thế chính trị của nhân dân – là chủ và với hành động của
người làm chủ - không phải chỉ nêu trên những khẩu hiệu mà đã được Hồ Chí
Minh thực hiện đầy đủ trong thực tiễn.
Ngay từ năm 1941, khi xây dựng Chương trình của Mặt trận Việt Minh,
Hồ Chí Minh đã thiết kế chế độ dân chủ cộng hòa tương lai cho nước ta sau
khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Chương trình cách mạng
nhằm thực hiện những mục tiêu dân chủ đã thức tỉnh vai trò làm chủ đất nước
của mỗi người dân, làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945.
Đồng thời, quyền lực của nhân dân trong quan điểm của Hồ Chí Minh
về dân chủ trong lĩnh vực chính trị cũng đã được khẳng định bằng Hiến pháp
và pháp luật, nó mang tính pháp lý cao chứ không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu.
Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện
quyền lực của nhân dân trong điều kiện hết sức khó khăn lúc đó. Ngay ở
chương I, Điều 1 của Hiến pháp 1946, đã khẳng định một cách rõ ràng quyền
lực của nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân
Việt Nam, không biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Hiến pháp năm 1946 tuyên bố: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có
quyền cao nhất nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa” (Điều 22), “giải quyết mọi
11


vấn đề chung cho toàn quốc” (Điều 23). Tuyên bố đó đã thể hiện rõ rệt vai trò
chủ thể của nhân dân đối với chế độ.
Đến Hiến pháp 1959, là người đứng đầu ban soạn thảo, Hồ Chí Minh
một lần nữa khẳng định quan điểm quyền lực thuộc về nhân dân một cách cụ
thể với những chế định đảm bảo thực hiện quyền lực của nhân dân trong thực
tiễn. Điều 4 Hiến pháp 1959 ghi rõ:
Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về

nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân
[54, tr.29].
Khẳng định vị trí là chủ và làm chủ của nhân dân trong Hiến pháp và
pháp luật là sự đảm bảo đầu tiên cho việc thực hành dân chủ trong lĩnh vực
chính trị ở nước ta – một nước chưa trải qua nền dân chủ tư sản, quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Để đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, Hồ Chí Minh đã thiết lập
trong thực tiễn nền dân chủ qua việc từng bước xây dựng hệ thống chính trị
của chế độ dân chủ nhân dân, trong đó căn bản là thiết lập nhà nước dân chủ
nhân dân và vận hành nó trong thực tiễn. Theo Người, dân chủ trong chính trị
là xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân có nhiệm vụ thực hiện và phát
triển nền dân chủ, tạo ra những điều kiện đảm bảo quyền lực của nhân dân đối
với cơ quan và cán bộ viên chức nhà nước, mặt khác nó có chức năng thực
hiện chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Trên đại thể là xác định 3 mặt cơ
bản của vấn đề nhà nước: Về tính chất nhà nước đó là của dân. Về tổ chức
nhà nước đó do dân tổ chức ra. Về mục tiêu và phương thức hoạt động của
nhà nước đó là vì dân. Điều này cũng đồng nghĩa với luận điểm “chính quyền
dân chủ là chính quyền do người dân làm chủ” [33, tr.365] mà Người đã nhiều
lần đưa ra để so sánh nhà nước dân chủ của ta với nhà nước dân chủ tư sản.
12


Dân làm chủ nhà nước còn thể hiện ở chỗ giám sát, kiểm tra hoạt động
của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do dân bầu ra và cả các công chức nhà
nước. Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan nhà nước “định kỳ báo cáo công việc
trước dân” vì “nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính Phủ”. Nhân dân
lại có nhiệm vụ “giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm
đúng chính sách của Chính phủ để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân
giao phó” [34, tr.368]. Qua kiểm tra, giám sát nếu dân thấy: “Từ Chủ tịch

nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân
không cần đến nữa” [33, tr.365]. Thậm chí: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì
dân có quyền đuổi Chính phủ” [32, tr.60]. Vì “nhân dân có quyền bãi miễn
đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân” [36, tr.59]. Làm như thế là để
xác định “địa vị cao nhất là dân”, “tất cả quyền lực đều là của nhân dân”,
đồng thời để đảm bảo sự trong sạch cho những đại biểu của dân trong các cơ
quan nhà nước.
Trong chế độ dân chủ, Hồ Chí Minh cho rằng cán bộ là làm đầy tớ để
gánh vác việc chung cho dân. “Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền không phải
làm qua cách mạng ăn trên ngồi trốc. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính
quyền ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân” [35, tr.513], “lo trước thiên hạ” và “vui sau
thiên hạ”. Làm đầy tớ của dân phải biết chăm lo cho dân, chăm lo cho chiến
sĩ, cho bộ đội. Bộ đội chưa có ăn cán bộ không được kêu đói, bộ đội chưa
được nghỉ cán bộ không được kêu mệt vv… làm đầy tớ phải “khổ cán, hạnh
cán, thực cán” [31, tr.153] tức là làm việc hết sức mình, làm việc có chất
lượng, làm việc có hiệu quả, có năng suất. Hồ Chí Minh coi việc từ Chủ tịch
nước đến giao thông viên đều ăn lương của dân, dân đóng thuế để trả lương
cho cán bộ là một biểu hiện cụ thể của dân là chủ, cán bộ là công bộc của dân.
Để địa vị làm chủ của nhân dân được thực hiện và xây dựng được nhà
nước của dân, do dân, vì dân, thực thi quyền lực nhân dân, phục vụ lợi ích của
13


nhân dân, phát triển quyền dân chủ và động viên nhân dân tích cực tham gia
vào các công việc quản lý đất nước, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới tầm quan
trọng của việc xây dựng một nhà nước pháp quyền mà điều trọng yếu là phải
xây dựng Hiến pháp, pháp luật thích hợp với sự phát triển của đất nước và
tăng cường giáo dục việc thực hiện pháp luật trong toàn xã hội.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với

nhau, nương tựa vào nhau mới đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Vì
vậy xây dựng một nền pháp chế XHCN, đảm bảo được việc thực hiện quyền
lực của nhân dân là mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở
cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo Hiến
pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc
lệnh và nhiều văn bản dưới luật khác.
Một mặt chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nước
ta mặt khác, Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế
đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành
đó trong các cơ quan Nhà nước và trong nhân dân.
Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải tuân thủ pháp luật nhưng cũng
đòi hỏi phải trừng trị rất nghiêm minh những kẻ phạm tội. Chính Người đã ký
Quốc lệnh năm 1946 gồm 10 điều thưởng và 10 điều phạt, thể hiện tính
nghiêm túc của kỷ cương, phép nước, không trừ một ai, người có công được
thưởng, người có tội bị phạt.
Trong quan điểm về dân chủ trong lĩnh vực chính trị, Hồ Chí Minh
không chỉ chú trọng việc xây dựng nhà nước pháp quyền mà còn xây dựng
Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội vững mạnh, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với toàn bộ
đời sống xã hội và vai trò trọng yếu của Đảng trong hệ thống chính trị nước
ta. Theo Người, để lãnh đạo chế độ dân chủ ở nước ta Đảng phải tuân thủ các
14


nguyên tắc tổ chức và xây dựng đảng kiểu mới của Lênin, Đảng phải chú ý
thực hành dân chủ rộng rãi và phải là tấm gương thực hành dân chủ. Để thực
hiện nhiệm vụ đó, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tới vấn đề tư cách, phẩm chất
của đảng viên và cán bộ của Đảng mà trước hết là phải có đạo đức cách mạng
để xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Cùng với việc chú trọng nâng cao phẩm chất và năng lực của Đảng

trong vai trò lãnh đạo nền dân chủ, Hồ Chí Minh còn quan tâm đến việc xây
dựng các tổ chức chính trị - xã hội khác nhau của nhân dân và coi đó là những
lực lượng xây dựng và thúc đẩy sự phát triển nền dân chủ.
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế.
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế theo quan điểm của Hồ Chí Minh có nội
dung rất phong phú. Đó là một hệ thống những luận điểm về quyền dân chủ
trong sở hữu tư liệu sản xuất, về quyền quản lý sản xuất, quản lý vật tư, ngân
hàng, tài chính tín dụng... và về quyền phân phối sản xuất. Trong đó, Người
đặc biệt chú ý đến quyền làm chủ trực tiếp về kinh tế của người lao động.
Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực
kinh tế là nghiên cứu tư tưởng của Người về quyền làm chủ trực tiếp về kinh
tế của nhân dân đối với quá trình sản xuất kinh doanh và phân phối sản phẩm
xã hội mà trước hết là quyền sở hữu, quyền làm chủ của nhân dân đối với tư
liệu sản xuất.
Đối với nước nông nghiệp, hơn 90% là nông dân như Việt Nam, dân
chủ trong lĩnh vực kinh tế, theo Hồ Chí Minh trước hết là dân cày có ruộng.
“Làm cho hàng chục triệu dân cày thanh tư hữu, đều có ruộng, đều có quyền
sở hữu ruộng đất” [34, tr.210]. Thực hiện mục đích người cày có ruộng là nội
dung dân chủ kinh tế quan trọng. Song, Hồ Chí Minh khẳng định “dân cày có
ruộng chỉ là một chính sách dân chủ” [34, tr.210] trong hệ thống các chính
sách dân chủ kinh tế khác. Như sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, việc bảo
15


hộ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của các nhà tư sản. Điều này thể hiện rõ khi
Hồ Chí Minh giải thích về đặc điểm của chế độ dân chủ mới mà nước ta xây dựng:
Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau:
A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân)
B - Các hợp tác xã ( nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ
nghĩa xã hội)

C - Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần
vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội)
D - Tư bản của tư nhân
E- Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để
kinh doanh) [27, tr.247-248].
Nội dung dân chủ trong lĩnh vực kinh tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh
được biểu hiện ở tư tưởng về quyền sở hữu của dân, sự tồn tại nhiều thành
phần kinh tế trong xã hội Việt Nam, sự bình đẳng, sự đối xử ngang nhau giữa
các thành phần kinh tế, các chủ thể kinh tế đã được luật hóa, được thể hiện
ngay trong Hiến pháp Việt Nam năm 1959. Hiến pháp thừa nhận tồn tại nhiều
thành phần kinh tế là sự đảm bảo về mặt pháp lý cho sự bình đẳng trong sản
xuất của các thành phần kinh tế. Tôn trọng quyền sở hữu tư liệu sản xuất và
bảo đảm sự bình đẳng trong sản xuất để cho mọi công dân “dám làm” và thực
hiện “quyền làm” là nội dung dân chủ kinh tế cơ bản của Hồ Chí Minh.
Về nội dung dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, Hồ Chí Minh không chỉ
chú ý đến sự bình đẳng trong sản xuất, quyền làm chủ tư liệu sản xuất của các
chủ thể xã hội, mà còn quan tâm, thực hiện công bằng trong phân phối sản
phẩm xã hội và công khai trong quản lý kinh tế. Ba mặt trên liên quan với
nhau tạo thành chỉnh thể logic của dân chủ trong kinh tế. Hồ Chí Minh từng
nói “công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp…từ làm chủ tư liệu sản
16


xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản
phẩm lao động” [34, tr.568]. Dù nói về quyền làm chủ kinh tế của giai cấp
công nhân, nhưng trong đó hàm chứa logic tự nhiên của dân chủ trong lĩnh
vực kinh tế của xã hội.
Mượn lời người xưa để nói rõ quan điểm của mình về phân phối sản
phẩm trước Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh nói: “Không sợ thiếu, chỉ sợ
không công bằng. Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên” [39, tr.185].

Rõ ràng, Người có cùng quan điểm với người xưa ở mục đích của công bằng
trong phân phối là để “yên lòng dân”. Song, Hồ Chí Minh quan niệm, phân
phối theo kết quả lao động là công bằng, hợp lý, đó là nguyên tắc phân phối
của chủ nghĩa xã hội. Nếu xã hội chưa phải là cộng sản chủ nghĩa thì phân
phối theo lao động là dân chủ. Cử tri Hà Nội có lần hỏi Hồ Chí Minh (ngày
10 – 5 – 1958): phải chăng trong xã hội xã hội chủ nghĩa ai không lao động
cũng có ăn! Lại có người nói rằng không lao động thì không được ăn! Vậy thì
những người già yếu sẽ thế nào? Hồ Chí Minh trả lời và nói rõ quan điểm của
mình là: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít, không làm không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ
được nhà nước giúp đỡ chăm lo” [36, tr.175].
Một quan điểm của Hồ Chí Minh cần quán triệt để thực hiện dân chủ
trong kinh tế là: “Muốn phân phối cho công bằng cán bộ phải chí công vô tư,
thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt một phần nào. Chớ
không nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác” [36, tr.537].
Trong quản lý nền kinh tế Hồ Chí Minh rất chú ý đến việc tham gia ý
kiến của nhân dân, đến việc công khai tài chính thu chi. Người yêu cầu làm kế
hoạch nhà nước theo cách “kế hoạch làm từ trên xuống và làm từ dưới lên”.
Dân được tham gia kiểm tra, kiểm soát. Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn quản
lý tốt hợp tác xã, cán bộ quản trị phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh, làm
17


×