Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng thương mại tác động của khủng hoảng tài chính đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.92 KB, 11 trang )

Bộ môn: Ngân hàng thương mại
Chuyên đề thảo luận

Tác động của Khủng hoảng tài chính đến
Khả năng sinh lợi của các ngân hàng ở Việt Nam
The impact of the financial crisis on
the Vietnam Banks’ Profitability
Giảng viên hướng dẫn:
PGS.TS Trầm Thị Xuân Hương, Khoa Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.
Nhóm nghiên cứu
Nguyễn Xuân Hiền, Trần Hoa Nhã Trúc, Trần Thị Kim Cúc, Trần Thị Kim Xuyến, Định Thị Hồng
Thanh, Nguyễn Phạm Anh Thi - Cao học Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM.
I.-

Khái quát (Abstract).

Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ (2007-2009) được xem là cuộc khủng hoảng có tác động quy mơ
tồn cầu như cuộc đại khủng hoảng (1929-1933). Tuy nhiên, dưới tác động của cuộc khủng hoảng
này, thì con đường dẫn đến sự khủng hoảng và hệ quả của nó ở mỗi quốc gia sẽ khơng giống nhau
bởi tính đặc thù của nền kinh tế.
Các nhà kinh tế học đã phân chia các nền kinh tế chịu sự tác động của cuộc khủng hoảng này theo
hai nhóm, đó là: Các nền kinh tế phát triển (Advanced Economies) và các nền kinh tế mới nổi
(Emerging Market Economies).
Bài nghiên cứu này chỉ đề cập đến tác động của cuộc khủng hoảng này tại Việt Nam, một quốc gia
thuộc các nền kinh tế mới nổi. Và đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các tác động này chính là
hệ thống ngân hàng thương mại.
II.-

Khung lý thuyết (Theorical Framework).

1.- Khái quát về khủng hoảng tài chính ở các nền kinh tế thị trường mới nổi.


Khủng hoảng tài chính là một biến cố mà khi đó các khu vực tài chính và các tổ chức kinh tế có sự
vỡ nợ với số lượng lớn, các tập đoàn và định chế tài chính phải đối mắt với rất nhiều khó khăn với
những hợp đồng đến hạn thanh tốn. Do đó những khoản nợ mất khả năng thanh toán tăng vọt và tất
cả hoặc hầu hết nguồn vốn của hệ thống ngân hàng bị rút cạn.(1)
Khủng hoảng tài chính xuất hiện khi có sự phá vỡ (disruption) trong hệ thống tài chính dẫn đến một
sự gia tăng mạnh trong lựa chọn đối nghịch và vấn đề rủi ro đạo đức trong thị trường tài chính dẫn
đến thị trường tài chính khơng thể chuyển tải nguồn vốn hiệu quả từ người tiết kiệm đến những
người với những cơ hội đầu tư hiệu quả.(2)
Khủng hoảng tài chính ở các quốc gia phát triển có thể phát sinh bởi nhiều yếu tố. Nhưng đối với
các quốc gia thị trường mới nổi thì khủng hoảng tài chính hoặc là do thiếu sự quản lý trong tự do
hố và tồn cầu hố tài chính hoặc là do mất cân bằng tài khoá trầm trọng. Lý do thứ nhất phổ biến
và có thể thấy rõ từ cuộc khủng hoảng của Mexico năm 1994 và cuộc khủng hoảng tài chính các
quốc gia Đơng Á năm 1997.
Các cuộc khủng hoảng tài chính ở các nền kinh tế thị trường mới nổi thường gồm ba giai đoạn:(3)

(1)

Theo giáo trình “Tài chính Quốc tế” (2011) trang 289.
Theo giáo trình “The Economics of Money, Banking, and Financial Markets” tái bản lần 8, Chương 8 “An Economic Analysis of
Financial Structure”.
(3)
Theo giáo trình “The Economics of Money, Banking, and Financial Markets” tái bản lần 10, Chương 10 “Financial crises in
emerging market economies”.
(2)

Trang 1/11


Bộ môn: Ngân hàng thương mại
Giai đoạn thứ nhất - Bùng nổ tín dụng.

Nguyên nhân thứ nhất: Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính ở các quốc gia mới nổi
thường xuất phát từ chính sách tự do hố hệ thống tài chính trong nước bằng cách xố bỏ các quy
định hạn chế đối với các tổ chức và thị trường tài chính (được hiểu là tự do hố tài chính) và việc
mở cửa đón nhận các dịng vốn và các tổ chức tài chính từ các quốc gia khác (được hiểu là tồn cầu
hố tài chính).
Hệ thống tài chính của các quốc gia mới nổi có một “văn hố tín dụng” yếu (weak “credit culture”)
do việc kiểm tra và giám sát người đi vay không hiệu quả và cơ chế giám sát ngân hàng của chính
phủ lại rất lỏng lẻo. Chính sách tự do hố tài chính đã góp phần tạo nên các khoản cho vay rủi ro có
nguy cơ gây tổn thất cho hệ thống ngân hàng. Chính sách tồn cầu hố tài chính lại càng làm tăng
thêm rủi ro khi nó cho phép các ngân hàng nội địa vay ở các tổ chức nước ngoài.
Nguyên nhân thứ hai: Mất cân đối ngân sách trầm trọng (trường hợp điển hình tại Arhentina 20012002, Nga 1998, Ecuador 1999 và Thổ Nhĩ Kỳ 2001).
Việc mất cân đối ngân sách trầm trọng đã dẫn đến việc chính phủ khơng thể tiếp tục sử dụng nguồn
tài trợ từ các khoản vay nước ngồi, mà thay vào đó là buộc các ngân hàng phải mua (absorbing)
các khoản vay chính phủ. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khả năng thanh tốn của chính phủ
đối với các khoản nợ thì giá của các khoản nợ cũng sụt giảm. Các Ngân hàng nắm giữ các khoản nợ
này và sau đó phải đối diện với một lỗ hổng lớn trong bảng cân đối do sự sụt giảm của tài sản ròng.
Khi vốn ít đi, các ngân hàng buộc phải cắt giảm hoạt động cho vay. Tình trạng này có thể trở nên
xấu đi nếu việc cắt giảm này dẫn đến sự hoang mang trong hệ thống ngân hàng, dẫn đến hàng loạt
các ngân hàng khác rơi vào tình trạng tương tự. Hậu quả của việc mất cân đối ngân sách là có thể
làm hệ thống ngân hàng của một quốc gia trở nên yếu đi.
Những nguyên nhân khác:
Lãi suất tăng do chịu tác động của nước ngoài cũng là một trong các nguyên nhân gây khủng hoảng
tài chính. Chẳng hạn như việc thắt chặt chính sách tiền tệ của Mỹ, khi lãi suất tăng, các doanh
nghiệp rủi ro cao hầu hết đều phải trả lãi suất cao cho các khoản vay, dẫn dến vấn đề lựa chọn đối
nghịch trở nên trầm trọng hơn. Bên cạnh đó, lãi suất cao làm giảm dịng tiền của doanh nghiệp,
buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm thêm nguồn vốn từ các thị trường vốn bên ngoài. Nguyên
nhân khác có thể là do thị trường tài sản của các quốc gia mới nổi khơng có quy mơ như các nước
phát triển, thị trường tài sản giữ vai trị hời hợt trong khủng hoảng tài chính. Giá tài sản giảm trên
thị trường chứng khoán làm giảm tài sản ròng của doanh nghiệp và gia tăng vấn đề lựa chọn đối
nghịch. Ít tài sản thế chấp làm phát sinh, gia tăng các vấn đề lựa chọn đối nghịch vì trước tình trạng

giảm tài sản rịng người chủ doanh nghiệp ít cái để mất hơn nếu họ lựa chọn các hoạt động rủi ro
hơn so với trước khi khủng hoảng tài chính.
Cũng như các nước phát triển, khi nền kinh tế các nước mới nổi rơi vào suy thoái, sự không chắc
chắn về lợi nhuận của các dự án đầu tư phát sinh. Riêng ở các quốc gia mới nổi, hệ thống chính trị
bất ổn cũng là nguyên nhân dẫn đến sự không chắc chắn. Khi sự không chắc chắn gia tăng dẫn đến
khó khăn cho các tổ chức tài chính trong việc giám sát rủi ro tín dụng, làm gia tăng các vấn đề về
lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Giai đoạn 2 - Khủng hoảng tiền tệ.
Sự sụt giảm trong bảng cân đối của ngân hàng và sự mất mất cân đối ngân sách trầm trọng là 2 yếu
tố chính dẫn đến sự tấn cơng tiền tệ và làm cho nền kinh tế sụp đổ.
Sự sụt giảm trong bảng cân đối của ngân hàng
Khi các ngân hàng và các tổ chức tài chính gặp khó khăn, chính phủ phải đối diện với số ít các lựa
chọn. Để giữ nguyên giá trị đồng nội tệ, chính phủ sẽ gia tăng lãi suất để thúc đẩy dòng vốn chảy
vào, nhưng việc tăng lãi suất đồng thời cũng sẽ khiến các ngân hàng phải chi trả nhiều hơn khi cần
huy động nguồn vốn, dẫn đến lợi nhuận giảm, có nguy cơ khiến các ngân hàng rơi vào tình trạng
mất khả năng chi trả. Các nhà đầu cơ trong thị trường ngoại hối nhận ra những khó khăn trong khu

Trang 2/11


Bộ mơn: Ngân hàng thương mại
vực tài chính của các quốc gia mới nổi và phán đốn việc chính phủ của quốc gia đó tăng lãi suất để
giữ nguyên giá trị đồng nội tệ là quá tốn chi phí nên chính phủ sẽ từ bỏ mục tiêu giữ nguyên giá trị
đồng nội tệ, mà thay vào đó sẽ để đồng nội tệ giảm giá. Các nhà đầu cơ sẽ nắm giữ đồng nội tệ và
sẽ bán đi trong động thái làm giảm giá trị đồng nội tệ. Chính phủ buộc phải bán dự trữ ngoại hối để
mua đồng nội tệ trên thị trường nhằm giữa cho đồng nội tệ không bị mất giá. Cho đến khi nguồn dự
trữ ngoại hối cạn kiệt thì chu trình này mới kết thúc, sẽ khơng cịn Nguồn dự trữ để can thiệp vào
thị trường ngoại hối và chính phủ buộc phải để cho đồng tiền mất giá.
Sự mất mất cân đối ngân sách trầm trọng.
Tình trạng mất cân đối ngân sách có thể là nhân tố trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng tiền tệ. Khi

ngân sách chính phủ thâm hụt vượt quá kiểm sốt, nhà đầu tư trong và ngồi nước sẽ nghi ngờ về
quốc gia đó sẽ khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ của chính phủ và sẽ ồ ạt rút tiền ra khỏi
quốc gia đó, đồng thời bán tháo đồng nội tệ.
Giai đoạn 3 - Khủng hoảng tài chính.
Trái ngược với các quốc gia phát triển với các khoản nợ được định danh bằng đồng nội tệ thì ở các
quốc gia thị trường mới nổi, các hợp đồng nợ hầu hết được định danh bằng đồng ngoại tệ (thường là
đồng đô la Mỹ). Việc giảm giá trị đồng nội tệ một cách bất ngờ ở các quốc gia thị trường mới nổi
làm gia tăng gánh nặng nợ và làm giảm giá trị tài sản ròng của các doanh nghiệp nội địa. Việc giảm
giá trị tài sản ròng sau đó gia tăng vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Sau đó là tình trạng
sụt giảm đầu tư và sụt giảm các hoạt động của nền kinh tế.
Sự mất giá của đồng nội tệ có thể dẫn đến tình trạng lạm phát tăng cao hơn. Khơng như các quốc
gia phát triển, ngân hàng trung ương ở các quốc gia thị trường mới nổi dường như độ tín nhiệm
trong việc kiểm sốt lạm phát là khơng tốt. Do đó, một sự sụt giảm nghiêm trọng trong giá trị đồng
nội tệ theo sau bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ tạo áp lực tăng giá hàng nhập khẩu. Sự gia tăng nhanh
trong cả tỷ lệ lạm phát thực tế và tỷ lệ lạm phát kỳ vọng sẽ dẫn đến sự gia tăng trong lãi suất. Kết
quả là các doanh nghiệp phải gia tăng chi phí thanh tốn lãi và nợ vay, dẫn đến sự sụt giảm trong
dòng tiền của doanh nghiệp phát sinh vấn đề bất cân xứng thông tin do các doanh nghiệp phụ thuộc
hơn vào các nguồn vốn bên ngoài để tài trợ cho các khoản đầu tư. Các nghiên cứu về bất cân xứng
thông tin chỉ ra rằng việc gia tăng trong các vấn đề về lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức dẫn đến
sự sụt giảm trong đầu tư và các hoạt động của nền kinh tế.
Sự sụp đổ trong các hoạt động của nền kinh tế và sự sụt giảm của dòng tiền, sụt giảm trong bảng
cân đối của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh có nghĩa là có khả năng mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn, và hậu quả là gây ra các tổn thất nghiêm trọng cho các ngân hàng. Việc gia tăng
lãi suất cũng đồng thời có tác động tiêu cực lên lợi nhuận và bảng cân đối của ngân hàng. Cùng với
tình trạng khơng chắc chắn của các ngân hàng cũng gia tăng do giá trị các nghĩa vụ nợ định danh
bằng đồng ngoại tệ gia tăng. Do đó, bảng cân đối của ngân hàng bị siết lại từ nhiều phía: giá trị của
tài sản sụt giảm trong khi giá trị các khoản nợ gia tăng.
Hệ thống ngân hàng đối diện với tình trạng khủng hoảng ngân hàng trong trường hợp các ngân hàng
cùng bị sụp đổ. Khủng hoảng ngân hàng và các yếu tố cấu thành thị trường nợ giải thích tình trạng
xấu hơn của vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức, đồng thời cho thấy hậu quả của cuộc

khủng hoảng tài chính gây ra sự sụt giảm trong hoạt động tín dụng nói riêng và hoạt động của nền
kinh tế nói chung.
Từ những nghiên cứu trên cho thấy khủng hoảng tài chính diễn ra ở các thị trường mới nổi được
phản ánh rõ nét qua các chỉ số vĩ mô như: thâm hụt ngân sách, lãi suất, dự trữ ngoại hối, tỷ giá.

Trang 3/11


Bộ mơn: Ngân hàng thương mại
Mơ hình khủng hoảng tại các nền kinh tế thị trường mới nổi.
Giai đoạn I: Sự khởi đầu của khủng hoảng.
Bất ổn trên Bảng cân đối kế
tốn của các Định chế tài chính.

Lãi suất tăng

Giá tài sản giảm

Sự gia tăng yếu tố
không bền vững

Lựa chọn bất lợi và Khủng hoảng đạo
đức xấu đi và Các hợp đồng cho vay
Giai đoạn II: Khủng hoảng tiền tệ.
Mất cân đối tài khoá

Khủng hoảng ngoại hối

Lựa chọn bất lợi và Khủng hoảng đạo
đức xấu đi và Các hợp đồng cho vay

Giai đoạn III: Khủng hoảng tài chính tồn diện.
Hoạt động kinh tế suy giảm

Sự suy giảm đột ngột ở các mức giá

Lựa chọn bất lợi và Khủng hoảng đạo
đức xấu đi và Các hợp đồng cho vay
Hoạt động kinh tế suy giảm

2.- Lý thuyết về Lạm phát:
2.1.- Nền tảng cơ bản: Sai lệch lãi suất thực sẽ làm dịch chuyển dòng vốn quốc tế.
2.2.- Các giả định:
- Thị trường hàng hóa và thị trường tài chính đều cạnh tranh hoàn hảo.
- Tất cả các quốc gia đều tiêu dùng cùng một rổ hàng hóa.
- Rủi ro của các chứng khốn trong nước và nước ngồi là như nhau.
- Lưu chuyển vốn quốc tế là hồn hảo.
Phương trình Fisher:
i = r + πe
Ký hiệu:
r: lãi suất thực; i: lãi suất danh nghĩa. πe: lạm phát kỳ vọng.

Trang 4/11


Bộ môn: Ngân hàng thương mại
2.3.- Ý nghĩa:
- Trong điều kiện thị trường hiệu quả, đồng tiền của quốc gia có lãi suất danh nghĩa cao hơn (thấp
hơn) sẽ phải giảm giá (lên giá) bằng đúng chênh lệch lãi suất danh nghĩa giữa hai đồng tiền nhằm
duy trì trạng thái cân bằng của lãi suất thực.
- Dòng vốn sẽ dịch chuyển khi có sự chênh lệch lãi suất thực giữa hai đồng tiền.

Hiệu ứng Fisher nói rằng khi lạm phát kỳ vọng πe và lãi suất danh nghĩa có mối quan hệ đồng biến
(cùng chiều).
3.- Lý thuyết về xác định tỷ giá hối đoái dựa trên cách tiếp cận cán cân thanh toán quốc tế.(3)
Mối quan hệ giữa cán cân thanh tốn quốc tế và tỷ giá hối đối có thể được biểu diễn bằng công
thức đơn giản sau:
Cán cân
Cán cân
Cán cân tài khoản
Dự trữ
Cán cân thanh toán
+
+
+
=
Tài khoản vãng lai
Tài khoản vốn
Tài chính
ngoại hối
quốc tế
(X – M)
(CI – CO)
(FI – FO)
FXR
BOP
Ký hiệu:
X : xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. M: nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ.
CI: dịng vốn chảy vào. CO: dòng vốn chảy ra.
FI : dòng tài chính chảy vào. FO: dịng tài chính chảy ra.
Tác động của khoản thâm hụt hay thặng dư từ cán cân thanh toán quốc tế lên tỷ giá hối đoái phụ
thuộc vào cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái (cố định, thả nổi hay thả nổi có quản lý) ở mỗi quốc gia.

3.1.- Quốc gia áp dụng cơ chế tỷ giá cố định: ngân hàng trung ương phải đảm bảo cho cán cân
thanh toán quốc tế cân bằng bằng cách mua hoặc bán dự trữ ngoại hối.
- Nếu cán cân thanh tốn thặng dư (ngoại tệ) thì để cân bằng ngân hàng trung ương sẽ can thiệp trên
thị trường ngoại hối bằng cách bán đồng nội tệ để mua nguồn ngoại tệ thặng dư.
- Ngược lại, nếu cán cân thanh tốn thâm hụt (ngoại tệ) thì để cân bằng ngân hàng trung ương sẽ
can thiệp bằng cách dùng nguồn dự trữ ngoại hối để bù đắp. Điều này, sẽ tạo nên sự mất cân đối về
nguồn cung ngoại hối trong nước. Đồng thời; ngân hàng trung ương luôn phải nắm giữ một lượng
dự trữ ngoại hối cần thiết để có thể sẵn sàng can thiệp kịp thời vào thị trường.
Nếu một quốc gia sử dụng chế độ tỷ giá cố định có thâm hụt cán cân thanh tốn quốc tế lớn và dự
trữ ngoại hối yếu sẽ rất dễ bị các nhà đầu cơ tiền tệ tấn công và rơi vào khủng hoảng tiền tệ (giai
đoạn 2).
3.2.- Quốc gia sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hồn tồn: ngân hàng trung ương khơng phải
neo giữ tỷ giá của đồng nội tệ. Tài khoản vãng lai và tài khoản tài chính khơng cân bằng sẽ tự động
điều chỉnh lên tỷ giá hối đoái theo hướng làm cho cán cân thanh toán quốc tế trở lại bằng 0.
3.3.- Quốc gia sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý: can thiệp của ngân hàng trung
ương thường dựa trên các yếu tố thị trường như lãi suất lên thị trường ngoại hối. Khi có sự thay đổi
lãi suất của đồng nội tệ sẽ làm thay đổi khoản mục (CI – CO), đặc biệt là đối với dịng vốn đầu tư
gián tiếp ngắn hạn.

(4)

Theo Giáo trình “Tài chính Quốc Tế” (2012).
Trang 5/11


Bộ môn: Ngân hàng thương mại
III.- Các nghiên cứu thực nghiệm (Empirical Framework).
1.- Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa các nhân tố nội tại (Internal Factors)
và khả năng sinh lợi (Profitability) của các Ngân hàng.
Bourke (1989) đã nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của 90 ngân hàng ở 12

nước được chọn ra từ các khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngân
hàng có tài sản có tính thanh khoản cao (liquid assets) thì khả năng lợi nhuận càng cao (quan hệ
cùng chiều); đồng thời, tối thiểu hố rủi ro về tính thanh khoản và khủng hoảng tài chính.
Molyneux và Thornton (1992) với mẫu nghiên cứu diện rộng tại Châu Âu với 671 ngân hàng
(1986), 1.063 ngân hàng (1987), 1.371 ngân hàng (1988), 1.108 ngân hàng (1989) đã chỉ ra mối
quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ vốn và nguồn dự trữ (capital and reserves) và khả năng sinh lợi.
Nghĩa là, ngân hàng sử dụng địn bẫy thấp sẽ có khả năng sinh lợi thấp.
Ngoài ra, Pasiouras, Kosmidous (2007) và Sufian, Chong (2008) cũng đã chỉ ra mối quan hệ ngược
chiều giữa quy mô và khả năng sinh lợi của các ngân hàng.
2.- Các nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố bên ngoài (External Factors) tác động đến
khả năng sinh lợi của Ngân hàng.
Levine, Boyd và Smith (2000) cho rằng lạm phát có thể ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các ngân
hàng. Nếu họ có thể dự đốn chính xác nhất về lạm phát, khi đó họ sẽ điều chỉnh tăng/giảm lãi suất
cho vay. Vì vậy, lạm phát có ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận nhưng phụ thuộc vào dự đoán của các
ngân hàng.
Nghiên cứu của Abreu và Mendes (2001) về các ngân hàng tại Ukraina đã xác nhận rằng: tỷ giá hối
đối khơng có tác động vào tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu của Ali, Zakaria, và Husni (2011) chỉ ra rằng khả năng sinh lợi có mối tương
quan ngược chiều với các biến GDP, lạm phát và tỉ giá hối đoái.
Gul, Irshad và Zaman (2011) cho rằng, lạm phát khơng có tác động tiêu cực đến tỷ suất lợi nhuận
của các ngân hàng ở Pakistan.
Alper và Anbar (2011) đã tiến hành một nghiên cứu với mơ hình CAMELS để tìm ra các nhân tố
ảnh hưởng đến lợi nhuận của các ngân hàng trong giai đoạn 2002-2010. Họ sử dụng phương pháp
phân tích dữ liệu bảng. Kết quả, ROA có mối tương quan cùng chiều với Quy mô tài sản, lãi suất
thực. Các yếu tố khác như tỷ lệ vốn/Tổng tài sản, tiền gửi/tổng tài sản và đặc biệt là lạm phát không
ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận của ngân hàng.
Ayadi và Boujelbene (2012) nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận của khu
vực ngân hàng Tunisian. Các yếu tố bên ngoài như GDP và lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến khả
năng sinh lời của các ngân hàng.
Safarli và Gumush (2012) đã tiến hành một mơ hình nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng để xác định

các nhân tố bên ngoài và bên trong ảnh hưởng đến khu vực ngân hàng Azerbaijan. Họ kết luận rằng
lạm phát và GDP có mối quan hệ ngược chiều với hiệu suất của các ngân hàng.
Atif, Shafique, và Razi (2012) sử dụng mơ hình nghiên cứu gồm 05 biến, bao gồm: lạm phát, GDP,
chỉ số sản xuất công nghiệp, tỉ lệ thất nghiệp và lãi suất. Kết quả, chỉ có lãi suất là có tác động đáng
kể và lạm phát khơng ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận của ngân hàng.
Muhammad et al. (2013) nghiên cứu 03 nhân tố bên ngoài tác động đến tỷ suất lợi nhuận (GDP, lạm
phát và chỉ số sản xuất công nghiệp) của các ngân hàng tại Pakistan. Kết quả, tỷ suất lợi nhuận có
mối quan hệ ngược chiều với tỉ lệ lạm phát.

Trang 6/11


Bộ môn: Ngân hàng thương mại
Acaravci và Calim (2013) cho rằng tỷ giá hối đoái biến động sẽ đe dọa đến thu nhập và vốn của các
ngân hàng. Kết quả của mơ hình cho biết, tỷ giá có tác động mạnh và tích cực đối với tỷ suất lợi
nhuận của các ngân hàng tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Ling và Alex (2014) đã thực hiện nghiên cứu về sự gia tăng của đồng nội tệ sẽ làm tăng cường lợi
nhuận (khả năng lợi nhuận) của các ngân hàng hoạt động trong nước. Vi dụ, nếu USD tăng giá, tỷ
suất lợi nhuận của các Ngân hàng hoạt động tại Mỹ sẽ gia tăng và ngược lại --> Tích cực.
Eze, Simpson, Osuagwu (2014) cho rằng, tỷ giá hối đối khơng có tác động mạnh đến tỷ suất lợi
nhuận của các ngân hàng.
3.- Các nghiên cứu thực nghiệm hỗn hợp các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến
khả năng sinh lợi của Ngân hàng.
Bashir, A (2000) đã phân tích đặc tính của ngân hàng và mơi trường tài chính tổng thể ảnh hưởng
như thế nào đến hiệu suất của các ngân hàng Hồi giáo. Bằng cách sử dụng dữ liệu cấp độ ngân
hàng, nghiên cứu xem xét các chỉ số hoạt động của các ngân hàng Hồi giáo qua 8 nước Trung Đông
trong giai đoạn từ năm 1993 đến năm 1998. Một loạt các ngân hàng trong và ngoài nước đã được sử
dụng để dự đốn lợi nhuận và hiệu quả. Mơ hình nghiên cứu có dạng:
Iijt = α0 + αi*Bit + β*Xjt+ γt*Mjt + δj*Cj + εijt
Trong đó:

Iijt là Thước đo lợi nhuận (như: lợi nhuận biên, ROA, hoặc ROE) của ngân hàng i ở nước j tại thời
gian t;
X,M,C là vector của các biến khác nhau;
Bit là biến ngân hàng i tại nước j vào thời gian t;
Xjt là biến quốc gia j vào thời gian t;
Mjt là biến thị trường chứng khoán biến ở quốc gia j vào thời gian t;
Kết quả nghiên cứu:
Từ kết quả kiểm định đối với môi trường kinh tế vĩ mô, cơ cấu thị trường tài chính và thuế, kết quả
cho thấy những ngân hàng có nhiều vốn trên tài sản và cho vay nhiều thì khả năng sinh lời cao hơn.
Thuế tiềm ẩn làm giảm hiệu quả hoạt động ngân hàng và lợi nhuận trong khi điều kiện kinh tế vĩ mô
thuận lợi.
Ben, N., S., và Omran, M (2011) đã kiểm tra ảnh hưởng của quy định ngân hàng, mức độ tập trung
lên lợi nhuận ngân hàng thông qua nghiên cứu trên các nước Trung Đơng và Bắc Phi. Với mơ hình:
Perfit = β1*Perfit−1 + β2*Bik,t + β3*Ri,t + β4*Mi,t + β5*Fi,t + β6*Ii,t + β7*Ci,t + ηi + εit.
Trong đó:
Perfit là hiệu suất của k ngân hàng trong nước tôi trong thời gian t và được đo bằng ba biện pháp
thay thế (chi phí trung gian, hiệu suất hoạt động và khả năng sinh lời của ngân hàng);
Ci,t là mức độ tập trung ngân hàng tại nước i trong khoảng thời gian t;
Bik,t là một vector của các đặc tính của ngân hàng cụ thể của ngân hàng k ở nước i trong giai đoạn t;
Ri,t là một vector của các trở ngại pháp lý về ngân hàng ở nước i trong thời gian t;
Mi,t là một vector của các biến kinh tế vĩ mô tại nước i trong khoảng thời gian t;
Fi,t là một vector kiểm sốt phát triển tài chính biến ở nước i trong thời gian t;
Ii,t là một vector của các chỉ số phát triển thể chế ở nước i trong thời gian t.
Kết quả nghiên cứu:
Đặc tính cụ thể ngân hàng, vốn hóa ngân hàng và rủi ro tín dụng có tác động cùng chiều và ảnh
hưởng lớn đến lợi nhuận và hiệu quả ngân hàng.
Kinh tế vĩ mơ và chỉ số phát triển tài chính khơng có ảnh hưởng lớn đến biên lợi nhuận rịng, ngoại
trừ lạm phát.
Trang 7/11



Bộ môn: Ngân hàng thương mại
A.Dietrich và G.Wanzenried (2011) đã phân tích lợi nhuận của 453 ngân hàng thương mại tại Thụy
Sỹ từ 1999-2008. Bổ sung xem xét các giai đoạn trước khủng hoảng và riêng những năm khủng
hoảng 2007-2008: Yếu tố quyết định lợi nhuận bao gồm các đặc tính cụ thể của ngân hàng cũng
như ngành cơng nghiệp cụ thể và yếu tố kinh tế vĩ mô, một số trong đó đã khơng được xem xét
trong các nghiên cứu trước đó. Cụ thể là:
PERFi,t = γ*Xi,t + εi,t
PERFi,t: thước đo lợi nhuận ngân hàng cho ngân hàng i tại thời điểm t.
Xi,t: một ma trận của các ngân hàng cụ thể như cũng như đặc điểm kinh tế vĩ mô và ngành công
nghiệp cụ thể.
Kết quả nghiên cứu:
Nếu lượng cho vay của ngân hàng phát triển nhanh hơn so với thị trường thì chỉ tác động tích cực
đến lợi nhuận của ngân hàng trước khi khủng hoảng xảy ra.
Muhammad Bilal, Asif Saeed, Ammar Ali Gull và Toquer Akram (2013) cho rằng Quy mô của
ngân hàng, tỷ lệ lãi cận biên (NIM) và tốc độ tăng trưởng sản xuất cơng nghiệp có quan hệ cùng
chiều và tác động đáng kể đến chỉ số ROA và ROE. Nợ xấu và lạm phát lại có tác động ngược
chiều với lợi nhuận trên tài sản. Tổng sản phẩm quốc nội có tác động cùng chiều với ROA.
Mohammad, Morshedur và Rahman (2015) đã thực hiện một nghiên cứu tổng quát ở Bangladesh
gồm nhiều nhân tố như:
PROFITit = α + β1*CAPit + β2*RISKit + β3*SIZEit + β4*OWNDit + β5*NIITAit + β6*COSTINCit +
β7*OFBSTAit + β8*LIQUIDITYit + β9*GGDPit + β10*INFLit + εi
Trong đó:
CAP: vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản;
OWND: Biến giả quyền sở hữu: bằng 1 nếu ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân và bằng 0 cho các
trường hợp khác;
NIITA: Thu nhập ngồi lãi trên tổng tài sản;
COSTINC: Tỷ lệ chi phí/thu nhập;
GGDP: Tăng trưởng trong tổng sản phẩm quốc nội hàng năm;
INFL: tỷ lệ lạm phát hàng năm.

Kết quả nghiên cứu:
- Sức mạnh vốn và tần suất cho vay có tác động cùng chiều với lợi nhuận.
- Chi phí để hoạt động hiệu quả và khoản mục ngoại bảng có tác động ngược chiều và ảnh hưởng
lớn đến lợi nhuận ngân hàng.
- Thu nhập ngồi lãi, rủi ro tín dụng và GGDP là yếu tố quyết định quan trọng của NIM.
- Quy mơ ngân hàng có tác động cùng chiều và ảnh hưởng lớn đến ROA.
- Cơ cấu sở hữu có một ảnh hưởng đáng kể đến ROE.
- Lạm phát có tác động ngược chiều và ảnh hưởng lớn đến các chỉ số ROA và ROE.
IV.- Phương pháp nghiên cứu (Methodology).
1.- Mơ hình nghiên cứu.
Từ các mơ hình nghiên cứu trước đây và những đặc trưng riêng biệt của hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt Nam, nhóm nghiên cứu đề xuất mơ hình có dạng như sau:
Pit =  + 1*FCt + 2*IFit + 3*EFt + it

Trang 8/11


Bộ mơn: Ngân hàng thương mại
Trong đó:
Ký hiệu Các thành phần
Pit
ROA
NIM
ROE
FC
IF
LA
LOR
SoA
EF

INF
ER

Diễn giải
Profitability: Khả năng sinh lời của ngân hàng (i) tại năm (t).
Return on Assets: Tỷ suất sinh lợi của Tổng tài sản.
Net Interest Margin: Thu nhập từ lãi biên.
Return on Equity: Tỷ suất sinh lợi của Vốn chủ sở hữu.
Financial Crisis Existence (Dummy): Sự tồn tại khủng hoảng.
Internal Factors: Các yếu tố nội tại của ngân hàng (i) tại năm (t).
Liquid Assets: Tài sản thanh khoản tốt trên tổng tài sản.
Lendings to Assets: Tổng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản.
Scale of Assets: Quy mô tổng tài sản.
External Factors: Các yếu tố bên ngồi (kinh tế vĩ mơ) tại năm (t).
Inflation: Lạm phát.
Exchange Rate: Tỷ giá hối đoái USD/VND.

Nhóm nghiên cứu sử dụng chỉ số Tỷ lệ lãi cận biên (NIM) làm thước đo khả năng sinh lợi vì hệ
thống Ngân hàng thương mại Việt Nam nguồn thu nhập chủ yếu đến từ hoạt động tín dụng. Đồng
thời, biến LOR được dùng để giải thích cho khả năng sinh lợi từ hoạt động tín dụng.
Bên cạnh đó, để đo lường khả năng thích ứng với khủng hoảng tài chính, nhóm nghiên cứu đã sử
dụng biến LA và SoA.
Đối với các tác bên ngồi (từ khủng hoảng), nhóm nghiên cứu sử dụng biến lạm phát thay cho lãi
suất dựa theo phương trình của Fisher, bởi rất khó xác định được lãi suất danh nghĩa ở Việt Nam.
Và biến tỷ giá được dùng để phản ánh tác động của khủng hoảng thơng qua đường dẫn “thâm hụt
tài khố”. Bởi vì, việc thực thi chính sách tài khố của Chính phủ được tài trợ chủ yếu từ hệ thống
ngân hàng thương mại.
2.- Dữ liệu nghiên cứu.
Dữ liệu được dùng trong mô hình bao gồm dữ liệu của 40 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 2006 đến 2011. Nguồn dữ liệu được trích từ Báo cáo tài chính đã được kiểm tốn.

Đối với dữ liệu về kinh tế vĩ mơ, nhóm nghiên cứu sử dụng nguồn dữ liệu do Ngân hàng thế giới
(Worldbank) cung cấp.
3.- Quan hệ kỳ vọng giữa các biến.
NIM
LA
LoR
SoA
Inf
ER

+

Trang 9/11

ROA
+
+

ROE
+
+

-

-


Bộ môn: Ngân hàng thương mại

Tài liệu tham khảo

1.- Frederic S. Mishkin, 2011, “The Economics of Money, Banking, and Financial Markets” (Tái
bản lần 8).
2.- Frederic S. Mishkin, 2013, “The Economics of Money, Banking, and Financial Markets” (Tái
bản lần 10).
3.- Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, 2011, “Tài chính Quốc Tế”.
4.- Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, 2012, “Tài chính Quốc Tế”.
5.- Bourke, P., 1989, "Concentration and other Determinants of Bank Profitability in Europe",
Journal of Banking and Finance 13.
6.- Molyneux, P., Thornton, J, 1992, “Determinants of European Bank Profi tability: A Note”,
Journal of Banking and Finance, 16(6).
7.- Levine, Boyd, Smith, 2000, “The Impact of Inflation on Financial Sector Performance”.
8.- Abreu, Mendes, 2001, “Determinants of Bank Profitability in Ukraine”.
9.- Ali, Zakaria, Husni, 2011, “Determinants of Islamic Bank Profitability: Evidence from Jordan”.
10.- Gul, Irshad và Zaman, 2011, “Factors Affecting Bank Profitability in Pakistan”.
11.- Alper và Anbar, 2011, “Bank Specific and Macroeconomic Determinants of Commercial
Bank Profitability: Empirical Evidence from Turkey”.
12.- Ayadi và Boujelbene, 2012, “The Determinants of the Profitability of the Tunisian Deposit
Banks”.
13.- Safarli và Gumush, 2012, “The effect of macroeconomic factors on the performance of
Azerbaijan banking system”.
14.- Atif, Shafique và Razi, 2012, “Determinants of profitability of Islamic banks, A case study of
Pakistan”.
15.- Muhammad et al, 2013, “Influence of Bank Specific and Macroeconomic Factors on
Profitability of Commercial Banks: A Case Study of Pakistan”.
16.- Acaravci và Calim, 2013, “Turkish Banking Sector’s Profitability Factors”.
17.- Ling và Alex, 2014, “Bank Profitability: The Impact of Foreign Currency Fluctuations”.
18.- Eze, Simpson, Osuagwu, 2014, “Assessing the Impact of Exchange Rate Risk on Banks
Performance in Nigeria”.
19.- Bashir A, 2000, “Yếu tố quyết định lợi nhuận của các ngân hàng Islamic: Một số bằng chứng
từ Trung Đông”.

20.- Ben, N., S., và Omran, M, 2011, “Những tác động của các quy định của ngân hàng, cạnh tranh
và cải cách tài chính trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng”.
21.- A.Dietrich và G.Wanzenried, 2011, “Yếu tố quyết định lợi nhuận của ngân hàng trước và trong
thời khủng hoảng: Bằng chứng từ Thụy Sĩ”.
22.- Muhammad Bilal, Asif Saeed, Ammar Ali Gull, Toquer Akram, 2013, “Ảnh hưởng của các
yếu tố cụ thể của Ngân hàng và kinh tế vĩ mô lên Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương
mại: Một nghiên cứu của Pakistan”.
23.- Mohammad, Morshedur, Rahman, 2015, “Yếu tố quyết định của lợi nhuận của Ngân hàng:
Bằng chứng thực nghiệm từ Bangladesh”.

Trang 10/11


Bộ môn: Ngân hàng thương mại

Nguyễn Xuân Hiền
Nguyễn Phạm Anh Thi
Đinh Thị Hồng Thanh

Danh sách thành viên nhóm:
Trần Hoa Nhã Trúc
Trần Thị Kim Cúc
Trần Thị Kim Xuyến
Phân công:

Phần I:
Phần II.1:
Phần II.2 và II.3:
Phần III.1:
Phần III.2:

Phần III.3:
Phần IV:

Nguyễn Xuân Hiền
Đinh Thị Hồng Thanh
Nguyễn Phạm Anh Thi
Trần Thị Kim Cúc
Trần Hoa Nhã Trúc
Trần Thị Kim Xuyến
Nguyễn Xuân Hiền

Trang 11/11



×