Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT đại CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.87 KB, 75 trang )

bé tµi nguyªn vµ m«i trêng

trêng ®¹i häc tµi nguyªn vµ m«i trêng hµ néi
khoa KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN

––––––––

BÀI GIẢNG
PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

Hà Nội - 2015
1


2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
a. Một số quan niệm phi macxit về sự xuất hiện Nhà nước
Lịch sử loài người đã có thời kỳ không có Nhà nước và pháp luật. Nhưng từ
khi Nhà nước và pháp luật xuất hiện thì đó là một hiện tượng phức tạp và liên
quan chặt chẽ đến lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp và các dân tộc trong xã
hội. Giải thích về hiện tượng này có nhiều quan điểm học thuyết khác nhau,
như:
- Thuyết thần học: những người theo thuyết này cho rằng: Thượng đế là
người sắp đặt mọi trật tự xã hội, nhà nước là do thượng đế sáng tạo để bảo vệ
trật tự chung. Do vậy, nhà nước là lực lượng siêu nhiên; quyền lực của nhà nước
là vĩnh cửu và sự tuân theo quyền lực nhà nước là cần thiết và tất yếu.


- Thuyết gia trưởng: cho rằng, Nhà nước ra đời là kết quả phát triển của gia
đình và quyền gia trưởng, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con
người; vì vậy cũng như gia đình, nhà nước tồn tại trong mọi xã hội, quyền lực
nhà nước giống như quyền lực gia trưởng của người đứng đầu gia đình.
- Thuyết khế ước xã hội (hợp đồng): nhằm chống lại sự chuyên quyền độc
đoán của nhà nước phong kiến, đòi hỏi sự bình đẳng cho giai cấp tư sản trong
việc tham gia nắm giữ quyền lực nhà nước, đa số các học giả đều tán thành quan
điểm cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước được kí
trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà
nước.
- Thuyết bạo lực: cho rằng, nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo
lực của thị tộc này với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng "nghĩ ra"
một hệ thống cơ quan đặc biệt (nhà nước) để nô dịch kẻ chiến bại.
- Thuyết tâm lý: cho rằng, nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lí của con
người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ…vì vậy, nhà
nước là tổ chức của những siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội.
3


Do nhiều nguyên nhân khác nhau, những học thuyết và quan điểm trên chưa
giải thích được đúng nguồn gốc của nhà nước và pháp luật.
b. Quan niệm của macxit về sự ra đời của Nhà nước
Xem xét quá trình hình thành nhà nước phải bắt đầu từ việc xem xét xã hội
cộng sản nguyên thủy.
* Chế độ cộng sản nguyên thủy và tổ chức thị tộc, bộ lạc
Chế độ cộng sản nguyên thủy là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của xã hội
loài người. Ở đó không có giai cấp, nhà nước và pháp luật, nhưng xã hội cộng
sản nguyên thủy đã chứa đựng những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà
nước.
+ Cơ sở kinh tế:

Sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất và phân phối bình đẳng của cải. Điều
đó dẫn tới trong xã hội không có giai cấp , không có áp bức bóc lột.
Sở hữu tập thể đối với tư liệu sản xuất được quy định bởi trình độ thấp kém
của lực lượng sản xuất, công cụ lao động thô sơ và năng suất lao động thấp kém.
+ Tổ chức xã hội:
Hình thức tổ chức xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy là thị tộc và bộ
lạc.
- Thị tộc: được tổ chức theo huyết thống, nền tảng là sở hữu tập thể và
quyền sở hữu công cộng. Thị tộc là hình thức tự quản đầu tiên ở mức độ thấp để
tổ chức và điều hành hoạt động xã hội thị tộc cũng cần đến quyền lực và một hệ
thống quản lý thực hiện quyền lực, tuy còn đơn giản. Hệ thống đó bao gồm:
→ Hội đồng thị tộc: là tổ chức quyền lực cao nhất của thị tộc bao gồm tất cả
các thành viên đã trưởng thành của thị tộc. Hội đồng thị tộc có quyền bàn bạc
dân chủ và đưa ra những quyết định tập thể về tất cả các vấn đề quan trọng liên
quan đến thị tộc.
→ Tù trưởng, thủ lĩnh quân sự: là người đứng đầu thị tộc để thực hiện quyền
lực chung. Những người này có quyền lực rất lớn, quyền lực này được tạo trên
cơ sở uy tín cá nhân, họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu không còn uy tín
và không được tập thể cộng đồng ủng hộ nữa.
4


- Bào tộc: các thị tộc liên kết với nhau.
- Bộ lạc: các bào tộc liên kết với nhau.
Tóm lại, chế độ cộng sản nguyên thủy là chế độ không có nhà nước, lúc đó
các quan hệ xã hội và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao động đều duy trì
được là nhờ có sức mạnh của phong tục tập quán, nhờ có uy tín và sự kính trọng
đối với những bô lão của thị tộc, nhờ hoạt động có uy tín và hiệu quả của hội
đồng thị tộc.
* Sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy và sự xuất hiện của Nhà nước

Vào thời kỳ cuối, xã hội cộng sản nguyên thủy đã trải qua ba lần phân công
lao động xã hội, đó là:
+ Lần thứ nhất: Chăn nuôi phát triển mạnh và tách ra khỏi trồng trọt.
- Con người thuần dưỡng được động vật đã hình thành nên đàn gia súc và
trở thành nguồn tích lũy quan trọng, là mầm mống của chế độ tư hữu.
- Xuất hiện tầng lớp nô lệ là các tù binh chiến tranh tham gia vào quán trình
sản xuất.
- Chế độ tư hữu xuất hiện làm cho kết cấu xã hội phân chia thành giai cấp
chủ nô và nô lệ, tác động và làm thay đổi quan hệ hôn nhân: hôn nhân một vợ
một chồng, chế độ mẫu hệ dần dần chuyển sang chế độ phụ hệ.
+ Lần thứ hai: Thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp.
- Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ lao động bằng kim loại đã nâng
cao năng suất lao động; nghề chế tạo đồ kim loại, nghề dệt, làm đồ gốm phát
triền.
- Nô lệ ngày càng phát triển, trở thành lực lượng lao động phổ biến.
- Sự phân hóa xã hội, sự phân biệt giàu nghèo khiến cho mâu thuẫn giữa giai
cấp chủ nô và nô lệ ngày càng sâu sắc.
+ Lần thứ 3: Buôn bán và thương nghiệp xuất xuất hiện.
- Nhu cầu trao đổi hàng hóa đã làm xuất hiện tầng lớp thương nhân không
tham gia vào sản xuất nhưng lại nắm quyền lãnh đạo sản xuất, bắt những người
sản xuất phải phụ thuộc vào mình về kinh tế.

5


- Sự ra đời và phát triển của thương mại cũng dẫn đến sự xuất hiện đồng
tiền; nạn cho vay lãi, quyền tư hữu ruộng đất, chế độ cầm cố phát triển đã tăng
cường sự tích tụ tập trung của cải vào tay thiểu số người trong xã hội, từ đó sự
phân hóa giữa chủ nô và nô lệ càng thêm sâu sắc.
Kết quả của 3 lần phân công lao động là:

- Các ngành kinh tế phát triển sản phẩm làm ra ngày càng nhiều và việc
phân công lao động đã tạo khả năng chiếm đoạt sản phẩm dư thừa làm của riêng,
đây là nguồn gốc nảy sinh chế độ tư hữu.
- Chế độ hôn nhân một vợ một chồng làm cho gia đình tách khỏi gia đình
lớn hình thành các đơn vị kinh tế độc lập.
- Thương nghiệp xuất hiện, với sự ra đời của tầng lớp thương nhân mặc dù
họ là những người không trực tiếp tiến hành lao động sản xuất nhưng lại chi
phối toàn bộ đời sống sản xuất của xã hội, bắt những người lao động, sản xuất lệ
thuộc vào mình.
- Trong xã hội hình thành giai cấp, mâu thuẫn giữa hai giai cấp thống trị và
bị trị ngày càng quyết liệt làm phá vỡ sự tồn tại của thị tộc. Để điều hành và
quản lý xã hội mới đòi hỏi phải có một tổ chức mới khác trước về chất. Giai cấp
thống trị về kinh tế lập ra một tổ chức để duy trì trật tự và bảo vệ lợi ích của
mình, đó chính là Nhà nước.
Từ việc xem xét nguồn gốc của Nhà nước có thể đi đến một định nghĩa
chung về Nhà nước như sau: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các
chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích
bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị.
* Đặc trưng cơ bản của Nhà nước:
- Nhà nước phân chia và quản lí dân cư theo lãnh thổ. Nhà nước phân chia
dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ không phụ thuộc vào huyết thống,
nghề nghiệp và giới tính. Việc phân chia này dẫn đến việc hình thành các cơ
quan nhà nước trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ, đảm bảo thực thi quyền lực
trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ.
6


- Nhà nước thiết lập một quyền lực công cộng đặc biệt, không hòa nhập với
xã hội. Quyền lực này mang tính chính trị, để thực hiện quyền lực này nhà nước

có một tầng lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lí và được tổ chức
thành cơ quan nhà nước.
- Nhà nước là tổ chức duy nhất có chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia
mang nội dung chính trị - pháp lí, thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc
gia với nhau. Thể hiện quyền tự quyết của nhà nước về mọi chính sách đối nội,
đối ngoại, không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố bên ngoài nào. Chủ quyền quốc
gia có tính tối cao – quyền lực nhà nước có hiệu lực trên toàn bộ đất nước, đối
với tất cả dân cư và tổ chức xã hội.
- Nhà nước ban hành pháp luật và buộc mọi thành viên xã hội phải thực
hiện. Pháp luật là phương tiện quan trọng để tổ chức và quản lí xã hội. Với tư
cách là người đại diện cho mọi thành viên trong xã hội, nhà nước là tổ chức duy
nhất có quyền ban hành pháp luật để quản lý đối với các thành viên trong xã hội.
Việc quản lý được bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế.
- Nhà nước quy định và tiến hành thu các loại thuế dưới các hình thức bắt
buộc. Mọi nhà nước đều quy định và tiến hành thu các loại thuế bắt buộc đối
với các dân cư của mình để duy trì bộ máy nhà nước và tiến hành các hoạt động
quản lý đất nước.
1.1.2. Bản chất của nhà nước
a. Tính giai cấp của Nhà nước
- Nhà nước ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp, nó là công cụ bảo vệ
quyền lợi chủ yếu cho giai cấp thống trị xã hội, do đó Nhà nước mang trong nó
bản chất giai cấp sâu sắc.
- Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay giai cấp thống trị, là
công cụ sắc bén để duy trì sự thống trị giai cấp về kinh tế, chính trị và tư tưởng.
- Trong các xã hội bóc lột, các Nhà nước của giai cấp bóc lột ( Nhà nước
chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản) đều có bản chất chung là bộ
máy thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột là giai cấp chiếm thiểu số
với giai cấp bị bóc lột chiếm đa số trong xã hội.
7



- Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ máy củng cố địa vị lãnh đạo và bảo vệ lợi
ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lực lượng chiếm đa số trong xã
hội, trấn áp những lực lượng thống trị cũ đã bị lật đổ và những phần tử chống
đối, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng.
b. Tính xã hội của Nhà nước
Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, Nhà nước cũng phải
quan tâm đến việc bảo đảm, giải quyết lợi ích ở mức độ nhất định cho các tầng
lớp, giai cấp khác trong xã hội và các vấn đề chung của toàn xã hội.
Nhà nước một mặt là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, mặt
khác còn là tổ chức quyền lực công đại diện cho lợi ích chung của xã hội nhằm
duy trì và phát triển xã hội.
1.1.3. Hình thức nhà nước
Hình thức nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài của việc tổ chức quyền lực
nhà nước ở mỗi kiểu nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
a. Hình thức chính thể
Hình thức chính thể là hình thức tổ chức, cơ cấu tổ chức các cơ quan quyền
lực tối cao, trình tự thành lập, các mối quan hệ giữa chúng, và mức độ tham gia
của nhân dân vào việc thành lập ra các cơ quan đó.
Hình thức chính thể có hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể
cộng hòa.
* Chính thể quân chủ: quyền lực nhà nước tập trung toàn bộ hay một
phần trong tay người đứng đầu nhà nước theo nguyên tắc thế tập (vua, hoàng đế,
quốc vương, nữ hoàng).
Hình thức chính thể quân chủ chia làm 2 loại:
- Hình thức quân chủ tuyệt đối: là hình thức chính thể quân chủ trong đó
nhà vua có quyền lực vô hạn ( quyền lực tuyệt đối). Dạng chính thể này tồn tại
chủ yếu trong kiểu nhà nước phong kiến.
- Hình thức quân chủ hạn chế: là chính thể quân chủ mà nhà vua chỉ nắm
giữ một phần quyền lực nhà nước. Trong các nhà nước này, quyền lực của nhà

vua bị hạn chế bởi hiến pháp, vì hình thức chính thể quân chỉ hạn chế còn được
8


gọi là chính thể quân chủ lập hiến( bên cạnh nhà vua còn có hiến pháp). Dựa vào
đặc điểm nhà vua có nắm giữ một phần quyền lực nhà nước hay không mà loại
chính thể này lại phân chia thành hai biến dạng là quân chủ nhị nguyên và quân
chủ đại nghị.
+ Chính thể quân chủ nhị nguyên: nghị viện nắm quyền lập pháp, nhà vua
nắm quyền hành pháp. Chính thể này đã từng xuất hiện ở Nhật và Đức vào cuối
thế kỷ 19. Hiện nay chính thể này không còn tồn tại nữa.
+ Chính thể quân chủ đại nghị: quyền lực thực tế của nhà vua không tác
động tới hoạt động lập pháp, và rất hạn chế trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp.
Còn tồn tại ở một số nước như: Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Bỉ, Thuỵ Điển,
Campuchia, v.v. . .
* Chính thể cộng hòa: Là hình thức chính thể, trong đó quyền lực tối cao
của nhà nước thuộc về các cơ quan nhà nước do nhân dan trực tiếp hoặc gián
tiếp bầu ra và làm việc trong một thời hạn nhất định.
Có 2 hình thức chính thể cộng hòa là:
- Chính thể cộng hòa dân chủ: nhân dân lao động được tham gia bầu cử để
lập ra cơ quan đại diện của nhân dân (Quốc hội, Nghị viện)
Riêng đối với nhà nước tư sản, chính thể cộng hòa còn có hai dạng là:
→ Chính thể cộng hòa tổng thống: Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, có
vai trò rất quan trọng (Mỹ, Nga...)
→ Chính thể cộng hòa đại nghị (còn gọi là cộng hòa nghị viện): Nghị viện
là thiết chế có quyền lực trung tâm, có vị trí vai trò rất lớn trong bộ máy nhà
nước (Việt Nam, Trung Quốc,....).
- Chính thể cộng hòa quý tộc: chỉ có tầng lớp quý tộc có quyền bầu cử ra
các cơ quan tối cao của nhà nước. Chính thể này chỉ phổ biến trong kiểu Nhà
nước chủ nô, kiểu Nhà nước phong kiến xưa kia, hiện nay không còn tồn tại

nữa.
b. Hình thức cấu trúc nhà nước
Hình thức cấu trúc nhà nước là sự cấu tạo nhà nước thành các đơn vị hành
chính lãnh thổ và sự xác lập mối quan hệ giữa các đơn vị ấy với nhau cũng như
9


giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với các cơ quan nhà nước ở địa
phương.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất
và hình thức nhà nước liên bang.
- Nhà nước đơn nhất: là nhà nước có chủ quyền chung, có một hệ thống cơ
quan quyền lực, quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương và một hệ
thống pháp luật chung. Ví dụ: ở Việt Nam, Lào, Pháp, Hà Lan, .Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản…….
- Nhà nước liên bang: là nhà nước do hai hay nhiều nước thành viên hợp lại
với nhau. Trong nhà nước liên bang có hai hệ thống cơ quan quyền lực và cơ
quan quản lí nhà nước. Một hệ thống cho toàn liên bang và một hệ thống riêng
cho mỗi nước thành viên, vừa có chủ quyền quốc gia chung cho cả liên bang vừa
có chủ quyền của mỗi nước thành viên. Tuy nhiên, pháp luật của các nước thành
viên có giá trị pháp lý thấp hơn pháp luật liên bang. Ví dụ: Cộng hòa liên bang
Đức, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa liên bang Nga, . . . .
- Nhà nước liên minh: là sự liên kết tạm thời của các nhà nước với nhau
nhằm thực hiện những mục đích nhất định, sau khi đã đạt được những mục đích
của mình có thể giải tán cũng có thể chuyển thành nhà nước liên bang. Ví dụ:
Hoa kỳ từ năm 1776 đến 1787 là nhà nước liên minh, sau chuyển thành nhà
nước liên bang.
c. Chế độ chính trị
Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp, cách thức, phương tiện mà
cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.

Chế độ chính trị là tổng thể các phương pháp và thủ đoạn mà các cơ quan
nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Có rất nhiều phương pháp, thủ đoạn để thực hiện quyền lực nhà nước từ
tinh vi, nham hiểm đến công khai hợp pháp... có thể chia thành hai loại: phương
pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ.

10


- Phương pháp dân chủ cũng có nhiều loại, thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau như phương pháp dân chủ thật và giả hiệu, dân chủ rộng rãi và hạn
chế, dân chủ trực tiếp và gián tiếp...
- Phương pháp phản dân chủ thể hiện tính chất độc tài cũng có nhiều loại,
đáng chú ý nhất là những phương pháp này đã phát triển đến mức độ cao nó trở
thành những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
1.1.4. Chức năng nhà nước
Chức năng nhà nước được hiểu là những phương diện, loại hoạt động cơ
bản của nhà nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
* Chức năng đối nội: là những hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong nội
bộ của đất nước.
Gồm các chức năng chủ yếu sau:
- Chức năng chính trị: thiết lập hệ thống các thiết chế quyền lực nhà nước
thống nhất, đồng bộ, hiệu quả; tiến hành các hoạt động bảo vệ chủ quyền quốc
gia; bảo đảm an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội....
- Chức năng kinh tế: thể hiện ở vai trò tổ chức và quản lý kinh tế; tạo lập và
bảo đảm môi trường chính trị, luật pháp; đảm bảo cho tất cả các thành phần kinh
tế hoạt động theo định hướng của nhà nước.
- Chức năng xã hội: đảm bảo và phát triển các vấn đề xã hội như: văn hoá,
giáo dục, khoa học và công nghệ, xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội…
- Chức năng đảm bảo trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền tự do dân chủ

của công dân: xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển
của xã hội, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
* Chức năng đối ngoại: là những hoạt động chủ yếu thể hiện trong mối
quan hệ với các Nhà nước và các dân tộc khác.
Gồm các chức năng cơ bản sau:
- Bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, ngăn ngừa mọi nguy cơ xâm lăng từ các
quốc gia bên ngoài.
- Thiết lập, củng cố và phát triển các mối quan hệ và sự hợp tác với tất cả
các nước có chế độ chính trị - xã hôi khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa
11


bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
- Thiết lập và tăng cường các nỗ lực chung trong cuộc đấu tranh vì một trật
tự thế giới mới, vì sự hợp tác bình đẳng và dân chủ, vì hòa bình và tiến bộ xã hội
trên toàn thế giới.
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Chức
năng đối ngoại được xác định trên cơ sở tình hình thực hiện chức năng đối nội
và kết quả thực hiện chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ đến việc tiến
hành các chức năng đối nội.
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, Nhà nước sử dụng nhiều
hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau. Có ba hình thức hoạt động
chính của Nhà nước là:
- Hoạt động lập pháp: xây dựng, ban hành pháp luật.
- Hoạt động hành pháp: tổ chức thực hiện, thi hành pháp luật.
- Hoạt động tư pháp: bảo vệ pháp luật.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
1.2.1. Nguồn gốc của pháp luật
* Theo học giả phương Tây: gồm pháp luật tự nhiên và pháp luật nhân tạo
+ Pháp luật tự nhiên được hình thành một cách hoàn toàn tự nhiên, tất yếu

trong cuộc sống chung của con người, nó hình thành và tồn tại cùng với sự ra
đời của xã hội loài người
+ Còn pháp luật nhân tạo hay pháp luật thực định thì sẽ do nhà nước ban
hành ra và bảo đảm thực hiện.
* Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin pháp luật ra đời cùng với sự ra
đời của nhà nước nên các nguyên nhân hình thành cũng chính là những nguyên
nhân hình thành pháp luật.
Pháp luật được hình thành bằng hai con đường:
- Thứ nhất, nhà nước thừa nhận các quy phạm xã hội - phong tục, tập quán
chuyển chúng thành pháp luật tức là thành các quy tắc xử sự chung được nhà
nước đảm bảo thực hiện.

12


Ví dụ, việc Nhà nước ta thừa nhận phong tục ăn Tết Nguyên Đán, phong tục
Giỗ Tổ Hùng Vương đã dẫn đến việc hình thành nên các quy định trong Bộ Luật
Lao Động cho phép người lao động được nghỉ làm việc để ăn Tết cổ truyền và
ăn giỗ trong ngày Quốc giỗ.
- Thứ hai, bằng hoạt động xây dựng pháp luật định ra những quy phạm mới
để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới xuất hiện hoặc để thay thế các quy tắc xử
sự cũ khi chúng không còn phù hợp với ý chí của nhà nước.
Ví dụ, Nhà nước ta đặt ra quy định cấm cưỡng ép kết hôn, tảo hôn để xóa bỏ
thủ tục tảo hôn, tục "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" trong hôn nhân…
Định nghĩa pháp luật: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội, là
nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1.2.2. Bản chất pháp luật
a. Tính giai cấp của pháp luật

- Pháp luật chỉ tồn tại trong xã hội có giai cấp.
- Thể chế hóa ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của nhà nước.
b. Giá trị xã hội của pháp luật
- Trong xã hội các hành vi của con người được số đông chấp nhận phù hợp
với số đông trong xã hội, cách xử sự này được thể chế hóa thành các quy phạm
pháp luật.
- Pháp luật là thước đo hành vi của con người. Pháp luật điều chỉnh hành vi,
ứng xử của con người sao cho những hành vi đó trở lên hợp pháp.
- Pháp luật còn thể hiện ý chí của giai cấp khác trong xã hội, bảo vệ quyền
và lợi ích cho giai cấp khác trong xã hội.
c.Tính dân tộc
Pháp luật được người dân chấp nhận là của mình thì nó phải được xây dựng
trên nền tảng dân tộc, thấm nhuần tính dân tộc. Nó phải phản ánh được những
phong tục, tập quán, đặc điểm lịch sử, điều kiện địa lý và trình độ văn minh, văn
hóa của dân tộc.
13


d. Tính mở
Pháp luật phải là hệ thống pháp luật mở, sẵn sàng tiếp nhận những thành tưu
của nền văn minh, văn hóa pháp lý của nhân loại làm giàu cho mình.
1.2.3. Thuộc tính pháp luật
a. Tính quy phạm phổ biến của pháp luật ( hay tính bắt buộc chung):
- Là khuôn mẫu chung cho mọi người không phụ thuộc vào những yếu tố
dân cư, địa lý. Được áp dụng nhiều lần và trong một thời gian dài.
- Tính quy phạm phổ biến chính là cái để phân biệt quy phạm pháp luật với
các quy phạm xã hội khác.
b. Tính xác định chặt chẽ về mặt nội dung và hình thức:
- Nội dung xác định rõ ràng chặt chẽ khái quát trong từng điều khoản của
luật. Nếu các quy phạm pháp luật quy định không đủ, không rõ, không chính xác

sẽ tạo ra những kẽ hở cho sự chuyên quyền, lạm dụng,những hành vi vi phạm
pháp luật như: tham ô, lãng phí, tham nhũng…..
- Hình thức: văn bản quy phạm pháp luật chặt chẽ, khái quát, cụ thể, rõ ràng.
c. Tính cưỡng chế của pháp luật:
- Cưỡng chế là thuộc tính thể hiện bản chất của pháp luật. Bất cứ một chế
độ pháp luật nào cũng có tính cưỡng chế.
- Cưỡng chế buộc mọi người phải thi hành nghiêm chỉnh pháp luật của nhà
nước. Việc tuân theo của pháp luật không phụ thuộc vào ý thích chủ quan của
bất kỳ người nào; Nếu ai không tuân theo pháp luật thì tùy vào mức độ mà bị xử
lý.
1.2.4. Chức năng pháp luật
Chức năng của pháp luật là những phương diện, mặt tác động chủ yếu của
pháp luật phản ánh bản chất giai cấp và giá trị xã hội của pháp luật.
a. Chức năng điều chỉnh của pháp luật:
- Một mặt, pháp luật vừa làm nhiệm vụ “ trật tự hóa” các quan hệ xã hội,
đưa chúng vào những phạm vi, khuôn mẫu nhất định.

14


- Mặt khác tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển theo chiều hướng
nhất định phù hợp với ý chí giai cấp thống trị, phù hợp với quy luật vận động
khách quan của các quan hệ xã hội.
Chức năng điều chỉnh của pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức
quy định, cho phép, ngăn cấm, quy định quyền và nghĩa vụ qua lại giữa các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật.
b. Chức năng bảo vệ của pháp luật:
Những quy tắc là phương tiện để bảo vệ các quan hệ xã hội, nền tảng của xã
hội trước các vi phạm. Khi có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ bị áp dụng các
biện pháp cưỡng chế trong phần chế tài.

c. Chức năng giáo dục của pháp luật:
Pháp luật tác động vào ý thức của con người làm cho con người hành động
phù hợp với cách xử sự ghi trong quy phạm pháp luật phù hợp với đạo đức tiến
bộ của xã hội, hướng hành vi của con người phù hợp với lợi ích chung của toàn
xã hội.
1.2.5. Hình thức pháp luật
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí
của giai cấp mình lên thành pháp luật.
Hình thức pháp luật bao gồm: hình thức bên trong và hình thức bên ngoài.
* Hình thức bên trong của pháp luật: bao gồm quy phạm pháp luật, chế định
pháp luật và ngành luật
- Quy phạm pháp luật: là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước đặt ra hoặc thừa nhận để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
- Chế định pháp luật: là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một
nhóm các quan hệ xã hội cùng loại.
- Ngành luật: là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực
quan hệ xã hội bằng những phương pháp điều chỉnh đặc thù riêng. Ngành luật
phân biệt với nhau bởi 2 tiêu chí: đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh.

15


* Hình thức bên ngoài của pháp luật: bao gồm tập quán pháp, tiền lệ pháp,
văn bản quy phạm pháp luật
- Tập quán pháp: là hình thức nhà nước thừa nhận một số tập quán đã lưu
truyền trong xã hội, phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, nâng chúng thành
những quy tắc những xử sự được những nhà nước bảo đảm thực hiện.
- Tiền lệ pháp: là hình thức nhà nước thừa nhận các quyết định của cơ quan
hành chính hoặc xét xử trong khi giải quyết những vụ việc cụ thể để áp dụng đối

với các vụ việc tương tự.
- Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành trong đó quy định những quy tắc xử sự được áp dụng nhiều lần
trong đời sống xã hội.
* Đặc điểm của văn bản pháp luật:
+ Văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành.
+ Văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng những quy tắc xử sự mang tính
bắt buộc. Điều này để phân biệt với những văn bản có ý nghĩa pháp lý nhưng
không chứa đựng quy tắc xử sự chung như lời kêu gọi, thông báo, tuyên bố...của
nhà nước.
+ Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng nhiều lần trong đời sống, trong
mọi trường hợp.
+ Tên gọi, nội dung và trình tự ban hành các loại văn bản quy phạm pháp
luật được quy định cụ thể trong pháp luật.
* Các loại văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam:
- Văn bản luật: là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành. Văn
bản này có giá trị pháp lý cao nhất, bao gồm:
+ Hiến pháp
+ Luật (luật, bộ luật), nghị quyết của Quốc hội
- Văn bản dưới luật: văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban
hành theo trình tự, thủ tục và hình thức được pháp luật quy định. Văn bản này có

16


giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản luật nên khi ban hành thì nội dung phải phù
hợp với Hiến pháp và luật.
+ Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội
+ Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội

+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
+ Nghị định của Chính phủ; quyết định của Thủ tướng Chính phủ
+ Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Thông tư
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao
+ Thông tư của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ

17


CHƯƠNG 2
QUY PHẠM PHÁP LUẬT - QUAN HỆ PHÁP LUẬT – VI PHẠM
PHÁP LUẬT – TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
2.1. Quy phạm pháp luật
2.1.1. Khái niệm
Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do nhà
nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị và nhu cầu tồn tại của xã hội, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo điều
kiện cho xã hội ổn định và phát triển.
2.1.2. Cơ cấu của quy phạm pháp luật
Cấu trúc của quy phạm pháp luật là cơ cấu ( bộ phận) bên trong của quy
phạm hay các yếu tố cấu thành của quy phạm pháp luật.
a. Giả định
Giả định là bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu lên những điều
kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra trong cuộc sống và những cá nhân, tổ chức trong
những điều kiện, hoàn cảnh đó phải chịu sự tác động của quy phạm pháp luật.
Giả định trả lời cho các câu hỏi: Tổ chức, cá nhân nào? Khi nào? Trong
những điều kiện, hoàn cảnh nào?
Giả định bao gồm:
- Giả định giản đơn: là giả định chỉ nêu lên một hoàn cảnh, điều kiện có thể

xảy ra trong cuộc sống và chủ thể ở những điều kiện, hoàn cảnh đó phải chịu sự
tác động của quy phạm pháp luật.
- Giả định phức tạp: là giả định nêu lên nhiều hoàn cảnh, điều kiện có thể
xảy ra trong cuộc sống và chỉ khi nào các điều kiện, hoàn cảnh đó đồng thời xảy
ra thì chủ thể mới chịu sự tác động của quy phạm pháp luật.
b. Quy định
Quy định là bộ phận trung tâm của quy phạm pháp luật, trong đó nêu lên
cách thức xử sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã xác định
ở phần giả định của quy phạm pháp luật phải tuân theo.

18


Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì? Được
làm gì? Không được làm gì? Hay làm như thế nào?.
Bộ phận quy định bao gồm:
- Quy định mệnh lệnh: là dạng quy định nêu lên một cách dứt khoát, rõ
ràng điều không được làm hoặc bắt buộc phái làm.
- Quy định tùy nghi: là dạng quy định không nêu dứt khoát, rõ ràng cách xử
sự nhất định mà để cho các bên tự thỏa thuận, quyết định trong phạm vi xác định
c. Chế tài
Chế tài là bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác
động mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với chủ thể không thực hiện đúng mệnh
lệnh đã nêu ở phần qui định của quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp
luật được thực hiện nghiêm minh.
Bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Hậu quả sẽ như
thế nào nếu vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước
đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Bộ phận chế tài bao gồm:
- Chế tài xác định: là loại chế tài trong đó quy định chính xác, cụ thể biện

pháp tác động cần phải áp dụng đối với chủ thể vi phạm quy phạm pháp luật đó.
- Chế tài xác định tương đối: là loại chế tài đưa ra nhiều biện pháp tác động
khác nhau, hoặc chỉ qui định giới hạn mức thấp nhất và mức cao nhất của biện
pháp tác động.
Lưu ý: Quy phạm pháp luật bao gồm ba bộ phận cấu thành như trên. Tuy
nhiên, trong thực tế một quy phạm pháp luật không đủ ba bộ phận cấu thành,
thường là khuyết bộ phận quy định hoặc phần chế tài. Phần quy định của quy
phạm pháp luật mặc dù thường không quy định trong quy phạm pháp luật nhưng
các chủ thể đều hiểu như nhau. Phần chế tài của quy phạm pháp luật thường quy
định ở một văn bản pháp lý khác mà các chủ thể không được phép tự hiểu như
phần quy định.
2.2. QUAN HỆ PHÁP LUẬT
2.2.1. Khái niệm
19


Quan hệ pháp luật là hình thức pháp lý của quan hệ xã hội, xuất hiện trên cơ sở
sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật; trong đó các bên tham gia quan hệ pháp luật
đó mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý được quy phạm pháp luật nói trên quy
định và được nhà nước bảo đảm thực hiện.
2.2.2. Cấu trúc của quan hệ pháp luật
a. Chủ thể quan hệ pháp luật
- Khái niệm: Chủ thể của quan hệ pháp luật là các bên tham gia quan hệ
pháp luật và có những điều kiện nhất định do pháp luật qui định.
- Điều kiện: Chủ thể phải có năng lực chủ thể. Bao gồm
Năng lực pháp luật là khả năng có được các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
chủ thể được nhà nước thừa nhận.
Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể được nhà nước thừa nhận bằng
hành vi của mình thực có thể xác lập, thực hiện các quao yền chủ thể và nghĩa
vụ pháp lý khi tham gia các quan hệ pháp luật.

Chủ thể của quan hệ pháp luật bao gồm cá nhân và tổ chức:
* Cá nhân: gồm có công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.
+ Công dân là loại chủ thể cá nhân phổ biến và chủ yếu của quan hệ pháp
luật.
Năng lực pháp luật của công dân do nhà nước quy định. Nó xuất hiện kể từ
khi cá nhân đó sinh ra và chỉ mất đi khi người đó chết.
Năng lực hành vi chỉ xuất hiện khi cá nhân đã đạt đến độ tuổi nhất định và
đạt được những điều kiện nhất định.
+ Người nước ngoài và người không quốc tịch có thể trở thành chủ thể quan
hệ pháp luật theo các điều kiện áp dụng đối với công dân Việt Nam. Về nguyên
tắc họ được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân. Tuy nhiên, vì lợi ích, an ninh
quốc gia họ sẽ bị hạn chế không được tham gia vào những quan hệ pháp luật
nhất định.
* Tổ chức: bao gồm pháp nhân, nhà nước và các tổ chức khác.
+ Pháp nhân là tổ chức được cá nhân hoặc nhà nước tạo dựng lên vì lợi ích
chung của các thành viên hoặc lợi ích của xã hội. Khác với cá nhân năng lực
20


pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân xuất hiện cùng một lúc, vào thời
điểm tổ chức được thành lập và thực hiện thông qua người đứng đầu cơ quan
hoặc người đại diện. Pháp nhân chỉ xuất hiện khi được nhà nước thành lập hoặc
thừa nhận. Để được công nhận là pháp nhân tổ chức phải có những điều kiện
sau:
- Phải là một tổ chức hợp pháp.
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
- Phải có tài sản riêng, và bằng chính tài sản của mình pháp nhân thực hiện
các quyền và nghĩa vụ về tài sản của mình.
- Nhân danh chính bản thân mình tiến hành các hoạt động và phải chịu trách
nhiệm về hậu quả phát sinh từ những hành động đó.

+ Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật vì nhà nước tự quyết
định loại quan hệ pháp luật sẽ tham gia và tự quy định cho mình các quyền trong
đó với mục đích bảo vệ lợi ích nhà nước và xã hội.
+ Các tổ chức khác bao gồm tổ hợp tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân,
… đây là những tổ chức không có tư cách pháp nhân nên khi tham gia vào các
quan hệ pháp luật năng lực của các chủ thể này sẽ hạn chế hơn.
b. Nội dung của quan hệ pháp luật
Nội dung của quan hệ pháp luật bao gồm quyền và nghĩa vụ pháp lí mà chủ
thể tạo ra thông qua việc tham gia các quan hệ pháp luật cụ thể.
* Quyền chủ thể:
Là khả năng của chủ thể được xử sự theo cách thức nhất định được pháp luật
cho phép. Quyền chủ thể có những đặc tính (khả năng) sau:
- Chủ thể có thể tự xử sự theo cách thức nhất định mà pháp luật cho phép.
Có nghĩa là bằng chính hành động của mình chủ thể thực hiện xử sự theo cách
mà pháp luật cho phép để đạt được lợi ích của của mình.
- Yêu cầu các chủ thể khác chấm dứt các hành vi cản trở mình thực hiện các
quyền và nghĩa vụ hoặc phải thực hiện hành vi nào đó để đáp ứng việc thực hiện
quyền chủ thể của mình.

21


- Chủ thể có thể yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ lợi ích
của mình.
* Nghĩa vụ pháp lý của chủ thể:
Là cách xử sự mà nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành theo quy định
của pháp luật nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác. Nghĩa vụ
pháp lý của chủ thể có những đặc điểm sau:
- Cần phải tiến hành những hành vi bắt buộc nhất định nhằm đáp ứng quyền
chủ thể của bên kia.

- Cần kiềm chế không thực hiện những hành vi nhất định nhằm đáp ứng
quyền chủ thể của bên kia.
- Phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không xử sự theo qui định của pháp luật.
Có nghĩa trong trường hợp cần thiết, nghĩa vụ pháp lý sẽ được đảm bảo thực
hiện bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước
c. Khách thể của quan hệ pháp luật
Khách thể quan hệ pháp luật là lợi ích vật chất, tinh thần và những lợi ích xã
hội khác có thể thoả mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá nhân
mà vì chúng các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Khách thể quan hệ pháp luật có thể là những lợi ích về vật chất như tiền,
vàng, hàng hóa,… hoặc là những lợi ích về tinh thần như sức khỏe, danh dự,
quyền tác giả,… hay là các dịch vụ như: vận chuyển, mít tinh, hội họp,… tuy
nhiên, các lợi ích này phải phù hợp với lợi ích của nhà nước, của xã hội.
2.3. VI PHẠM PHÁP LUẬT
2.3.1. Khái niệm và dấu hiệu
* Khái niệm :
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) trái pháp
luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại tới các
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
* Dấu hiệu :

22


- Vi phạm pháp luật luôn là hành vi xác định của con người. Tư tưởng, suy
nghĩ có nguy hiểm đến đâu nhưng nếu không được thể hiện dưới dạng hành vi
thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.
Tính trái pháp luật thể hiện ở chỗ :

+ làm những điều mà pháp luật cấm. Ví dụ : buôn bán trẻ em, vượt đèn đỏ,
trộm cắp tài sản...
+ không thực hiện những điều phải làm theo quy định của pháp luật. Ví dụ :
không thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đến độ tuổi luật định, không đội mũ bảo
hiểm khi tham gia giao thông...
+ sử dụng vượt quá giới hạn cho phép
- Vi phạm pháp luật là hành vi có lỗi của chủ thể. Lỗi là trạng thái tâm lí của
chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi mình gây ra. Lỗi thể hiện dưới
hai dạng : lỗi cố ý và lỗi vô ý.
- Chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải có năng lực trách nhiệm pháp
lý. Năng lực trách nhiệm pháp lí của chủ thể được quy định trong pháp luật, đó
là khả năng gánh chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể. Năng lực trách nhiệm
pháp lí của cá nhân được thể hiện qua độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý và khả
năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi ; năng lực trách nhiệm pháp lí của
tổ chức xuất hiện và mất đi kể từ khi tổ chức đó được thành lập đến khi nó chấm
dứt hoạt động.
2.3.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật
a. Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ các dấu hiệu biểu hiện ra
bên ngoài của vi phạm pháp luật, gồm có:
- Hành vi trái pháp luật: Vi phạm pháp luật trước hết phải là hành vi thể hiện
bằng hành động hoặc không hành động.
- Hậu quả thiệt hại cho xã hội : là những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần
mà xã hội phải gánh chịu do hành vi trái pháp luật gây ra.
23


- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả thiệt hại cho
xã hội: được biểu hiện: giữa hành vi trái pháp luật với hậu quả thiệt hại cho xã
hội bao giờ cũng có mối quan hệ nhân quả, nó biểu hiện ở chỗ sự thiệt hại cho

xã hội phải do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây ra.
Ngoài ra, trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật còn có các yếu tố
khác như: thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ vi phạm pháp luật...
b. Khách thể của vi phạm pháp luật
Khách thể của hành vi vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới.
c. Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là thái độ tâm lý của chủ thể, là diễn
biến bên trong của con người, bao gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến
lỗi là động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật.
- Lỗi: lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ của chủ thể đối với hành vi
trái pháp luật của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. Nếu một hành vi trái
pháp luật mà không có lỗi thì không phải vi phạm pháp luật thì chủ thể thực hiện
hành vi đó không phải chịu trách nhiệm về hậu quả do mình gây ra. Ví dụ:
trường hợp phòng vệ chính đáng trong luật hình sự
Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý có thể là
cố ý trực tiếp có thể là cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin cũng
có thể là vô ý do cẩu thả.
Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm pháp luật nhìn thấy trước hậu quả thiệt
hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm pháp luật nhận thấy trước hậu quả thiệt
hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, tuy không mong muốn nhưng để mặc
cho hậu quả xảy ra.
Lỗi vô ý vì quá tự tin: chủ thể vi phạm nhìn thấy trước hậu quả thiệt hại cho
xã hội do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng, tin tưởng điều đó không xảy
ra hoặc nếu xảy ra có thể ngăn chặn được.

24



Lỗi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm không nhận thấy trước hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể thấy hoặc cần phải
nhận thấy trước.
- Động cơ vi phạm pháp luật: động cơ chính là động lực thúc đẩy chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Mục đích vi phạm pháp luật: mục đích là kết quả mà chủ thể muốn đạt
được khi thực hiện hành vi vi phạm. Cần lưu ý là không phải khi nào kết quả đạt
được cũng là mục đích của chủ thể vi phạm pháp luật mong muốn. Ví dụ như
trường hợp phạm tội chưa đạt trong Luật hình sự.
d. Chủ thể vi phạm pháp luật
Chủ thể vi phạm pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
2.3.3. Phân loại vi phạm pháp luật
Trong đời sống xã hội tồn tại nhiều những vi phạm. Căn cứ vào tính chất,
đặc điểm của chủ thể, khách thể vi phạm pháp luật, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi, vi phạm pháp luật được chia thành:
Tiêu chí

Chủ thể

Vi phạm hình sự

Cá nhân

Vi phạm

Vi phạm

Vi phạm kỷ


hành

dân sự

luật Nhà nước

chính
Cá nhân

Cá nhân

Cá nhân

Tổ chức

Tổ chức

Tổ

chức

(có

mối quan hệ
Khách thể

Xâm phạm độc lập, chủ quyền, Xâm

Xâm


thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ phạm các tới
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, quy

tắc quan

chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc quản

lý tài

với Nhà nước)
hại Xâm phạm đến
các nội qui, qui chế
hệ thuộc nội bộ cơ
sản, quan, tổ chức

phòng, an ninh, trật tự an toàn xã nhà nước

quan

hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

nhân thân.

chức, xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do,
25

hệ Nhà nước



×