Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC Mối quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng và mối quan hệ kinh tế - chính trị ở Việt Nam trong thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.96 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là lý luận nền tảng của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Nhờ có lí luận này mà các hiện tượng xã hội được nhận thức
một cách khoa học. Thông qua việc phân tích các mối quan hệ cơ bản trong
mỗi hình thái kinh tế - xã hội mà Mác đã tìm ra quy luật vận động của lịch sử
loài người, và trên cơ sở đó, khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong các mối quan hệ đa dạng và phức tạp của mỗi hình thái kinh tế xã hội, Mác không những đã chỉ ra quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mà ông còn đặc biệt
chú ý phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự
tác động qua lại giữa hai nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận động
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Trong quá trình phát triển của bất kì chế độ xã hội nào từ xưa đến nay,
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũng đóng một vai
trò vô cùng quan trọng. Đây là một trong những nội dung cơ bản của học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử, là cơ sở thế
giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và cải tạo xã hội. Chính vì
vậy nên việc nghiên cứu tìm hiểu và giải quyết mối quan hệ này là rất cần
thiết, nó giúp chúng ta tìm hiểu và xác định những định hướng đúng đắn để
khắc phục những mâu thuẫn nội tại trong xã hội nhằm duy trì và củng cố sự
ổn định của chế độ xã hội hiện thời. Đây là vấn đề quan trọng đối với tất cả
mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi chế độ chính trị trên toàn thế giới. Việt Nam
cũng không là một ngoại lệ, trong công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay,
chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng, từ đó dựa trên cơ sở điều kiện thực tiễn của nước ta nhằm
mục đích vận dụng và quán triệt mối quan hệ này vào việc định hướng phát
triển nền kinh tế kết hợp với củng cố hệ thống chính trị, đổi mới một cách
toàn diện và triệt để sâu sắc, tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Trong khuôn khổ nhỏ của tập tiểu luận này em xin trình bày một cách
ngắn gọn về Mối quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng


tầng và mối quan hệ kinh tế - chính trị ở Việt Nam trong thời kì đổi mới,
cùng một số giải pháp, ý kiến đề xuất của cá nhân em.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Ngọc Anh đã hướng dẫn
giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.

2


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
2
MỤC LỤC

3

CHƯƠNG I: BẢN CHẤT MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG LÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
4
1.1.Các khái niệm
1.1.1.Cơ sở hạ tầng
4
1.1.2.Kiến trúc thượng tầng
4
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
4
1.2.1.Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng
tầng
4
1.2.2.Kiến trúc thượng tầng mang tính độc lập tương đối và tác động

trở lại cơ sở hạ tầng
5
CHƯƠNG II: GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
LÀ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
7
2.1.Xây dựng kiến trúc thượng tầng chính trị phù hợp với cơ sở hạ tầng là
yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới ở Việt Nam
7
2.2.Vai trò định hướng của nhà nước trong thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
10
CHƯƠNG III: VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THỜI KÌ ĐỔI MỚI ĐÃ ĐẠT
ĐƯỢC NHIỀU THÀNH TỰU KHẢ QUAN, TUY NHIÊN VẪN CÒN MỘT SỐ
THIẾU SÓT TỒN TẠI. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
12
3.1.Thực trạng nền kinh tế trước khi tiến hành đổi mới - Những bước tiền đề
cho việc đổi mới
12
3.2.Tình hình Việt Nam trong những năm đầu thời kì đổi mới
14
3.2.1.Những thành tựu về kinh tế - chính trị đã đạt được
14
3.2.2.Những thiếu sót còn tồn tại
18
3.3.Các giải pháp và phương hướng đề nghị
20
LỜI KẾT

23


3


PHỤ LỤC: MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO
24

4


CHƯƠNG I: BẢN CHẤT MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ
KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG LÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ
1.1.Các khái niệm
1.1.1.Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống
trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống
của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ
vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng
chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ
thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy nhiên,
quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất
định, góp phần chi phối đời sống kinh tế - xã hội trong nền kinh tế nhiều thành
phần.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất
là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các
quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội,
tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương

ứng.
1.1.2.Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp
quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật,… cùng với những thiết chế xã
hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội,…
được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật
vận động và phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác
nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như
chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố
như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó
chính là cuộc đấu tranh về mặt chính trị - tư tưởng của các giai cấp đối
kháng, trong đó đặc trưng là sự thống trị về mặt chính trị - tư tưởng của giai
cấp thống trị.
Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, nhà nước có vai trò
đặc biệt quan trọng. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất
định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của
mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
1.2.Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng
1.2.1.Cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội,
chúng thống nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc
thượng tầng tương ứng với nó, do đó tính chất của kiến trúc thượng tầng là
5



do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp
nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời
sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết
định các mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp
về chính trị tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng về lợi ích kinh tế giữa
các giai cấp. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước,
pháp quyền, triết học, tôn giáo,… đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ
sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn
thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi theo. Như C.Mác đã viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn
bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”.
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản
thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Tuy sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng cũng gắn với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, nhưng lực lượng sản xuất không trực tiếp làm thay
đổi kiến trúc thượng tầng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp
làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức trực tiếp làm thay đổi cơ sở hạ tầng và
thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng
dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, trong đó, có
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự
thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật,… nhưng cũng có những
yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật,… hoặc có những yếu tố vẫn
tiếp tục được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi
đó phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
1.2.2. Kiến trúc thượng tầng mang tính độc lập tương đối và tác động
trở lại cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng

tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng đó không đơn thuần là sự phù hợp
giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu
thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động và phát triển,
đồng thời tác động một cách mạnh mẽ, sâu sắc đến cơ sở hạ tầng.
Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến
cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau đóng một vai trò khác nhau,
có cách thức tác động khác nhau đến cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có giai
cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là
bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Bằng hệ thống
pháp luật và chính sách kinh tế, nhà nước có tác động trực tiếp đến sự phát
triển của nền kinh tế, củng cố vững chắc quan hệ sản xuất thống trị . Các yếu
tố khác của kiến trúc thượng tầng như đạo đức, triết học, tôn giáo, nghệ
thuật,… cũng đều tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng dưới những hình
thức khác nhau, nhưng sự tác động này phải thông qua sự chi phối, điều tiết
của nhà nước, pháp luật và các thiết chế tương ứng thì mới phát huy được
hiệu lực.
Trong mỗi chế độ xã hội, sự tác động của các bộ phận của kiến trúc
thượng tầng đẽn cơ sở hạ tầng không phải bao giờ cũng theo một xu hướng
nhất định. Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây
dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ
làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể giữ vững

6


được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị
về chính trị, tư tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra
theo hai chiều hướng khác nhau. Xét về chiều hướng tích cực, nếu kiến trúc
thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là

động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển, thúc đẩy phát triển đời sống xã
hội, góp phần duy trì và củng cố cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó ngày càng ổn
định, vững chắc hơn. Ngược lại, xét về chiều hướng tiêu cực, nếu kiến trúc
thượng tầng tác động không phù hợp đến cơ sở hạ tầng thì nó sẽ kìm hãm
sự phát triển kinh tế, kìm hãm sự phát triển của xã hội, trở thành chướng ngại
cho sự phát triển cơ sở hạ tầng.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển
kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng không làm thay đổi được tiến trình
phát triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng vai trò
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm
phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc
thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ để
thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng rất to lớn.
Song nếu tuyệt đối hóa vai trò và tác dụng của nó, phủ nhận tính tất yếu kinh
tế của xã hội thì sẽ phạm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm chủ quan dưới
những hình thức khác nhau.
Tóm lại, mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng xét về bản chất chính là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
trong đó kinh tế đóng vai trò quyết định còn chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế và có tác động mạnh mẽ đối với kinh tế. Kiến trúc thượng tầng chính
trị có vai trò định hướng những hoạt động thực tiễn đưa lại phương án phát
triển tối ưu cho kinh tế - xã hội. Do đó, cần tránh tư tưởng thổi phồng hoặc
xem nhẹ vai trò của chính trị hoặc kinh tế.
Sự tác động lẫn nhau giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đã
tạo thành quy luật vận động chung cho mọi thời kì lịch sử, đó là quy luật cơ
sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Kinh tế quyết định chính trị và
các mặt của đời sống xã hội là quy luật chung cho mọi thời kì lịch sử.

7



CHƯƠNG II: GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ LÀ VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM
2.1. Xây dựng kiến trúc thượng tầng chính trị phù hợp với cơ sở hạ tầng
là yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Việt Nam đã phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa trên 40 năm nay ở
miền Bắc và hơn 20 năm trong cả nước. Sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam cũng đã thu được những thành tựu quan trọng. Đất nước
trải qua gần 100 năm bị đô hộ và bị hai cuộc chiến tranh khốc liệt tàn phá nay
đã được hồi sinh. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước
đây đã tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần cho công cuộc giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước. Nước Việt Nam sau biết bao vất vả và hy
sinh, biết bao sự tìm kiếm, thể nghiệm đã xác định được các bước đi của
mình và có vị trí nhất định trên trường quốc tế.
Hơn mười năm đổi mới đã đem lại những kết quả không nhỏ. Đất
nước đã thoát khỏi khủng hoảng và đã có những tiền đề về vật chất và tinh
thần để có thể tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ đầy thử thách và khó khăn. Trong điều
kiện thế giới có những diễn biến phức tạp, sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa chỉ có thể được hoàn thành khi giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn
đang nảy sinh, trong đó có mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng chính trị.
Trước thời kì đổi mới, ở nước ta tồn tại chủ yếu là quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa với hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Các loại hình kinh tế khác vẫn tồn tại, nhất là ở miền Nam, nhưng vai trò của
chúng dần bị thu hẹp.
Từ khi đổi mới, nước ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần. Những hình thức kinh tế mới nảy sinh làm xuất hiện các loại hình quan

hệ sản xuất khác nhau tạo nên một kết cấu kinh tế mới. Đó là sự biến đổi
đáng kể của cơ sở hạ tầng.
Khi cơ sở hạ tầng có những biến đổi to lớn và mạnh mẽ như thế thì
kiến trúc thượng tầng chính trị cũng đã có những biến đổi nhất định. Sự biến
đổi của kiến trúc thượng tầng chính trị trước hết là sự chuyển biến về sự lãnh
đạo của Đảng, đổi mới phương thức quản lí của Nhà nước. Do yêu cầu phát
triển của nền kinh tế thị trường nên việc quản lí của Nhà nước bằng pháp luật
được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy trên nhiều lĩnh
vực, trước nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Nền hành chính được đổi mới từng
bước về thể chế và cơ cấu tổ chức. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước đã đổi mới theo hướng tạo tiền đề cho việc kiện toàn và phát huy
vai trò, hiệu lực của quản lí Nhà nước mặc dù Đảng ta vẫn giữ vững vai trò
lãnh đạo trong toàn xã hội. Nhà nước đã đưa ra được những chính sách phù
hợp và thiết thực nhằm phát triển kinh tế, xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay, mâu thuẫn giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc
thượng tầng chính trị vẫn được xem là “cái tạo thành mắt xích chủ yếu” của
quá trình đổi mới ở nước ta.
Kiến trúc thượng tầng chính trị, trong đó có mặt tổ chức bộ máy và
phương thức hoạt động của hệ thống Đảng và Nhà nước còn bộc lộ những
bất cập.

8


Tổ chức của bộ máy Nhà nước vẫn còn cồng kềnh sau bao nhiêu lần
đổi mới. Nạn quan liêu, lãng phí quá nghiêm trọng. Tham nhũng trở thành
quốc nạn. Đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa ngang tầm với nhiệm
vụ. Một bộ phận cán bộ thoái hóa biến chất. Hệ thống pháp luật chưa đồng
bộ, chưa tạo được khuôn khổ pháp lí cần thiết cho các hoạt động của con
người. Việc thi hành pháp luật chưa nghiêm dẫn đến kỉ cương phép nước bị

xem nhẹ.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng mức. Có nơi vẫn
còn tình trạng Đảng bao biện làm thay, có nơi vai trò lãnh đạo của Đảng lại
mờ nhạt.
Ý thức chính trị giảm sút do sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị
trường. Đã có những biểu hiện thiếu niềm tin vào sự phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Ý chí phấn đấu cho lí tưởng cộng sản chủ
nghĩa của một số đảng viên, của công nhân, thanh niên,… giảm sút.
Chính từ mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính
trị mà những kẻ thù của chủ nghĩa Mác đã lợi dụng ngay cả những luận điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác để chống chủ nghĩa Mác.
Có một số người cho rằng, thực chất của mâu thuẫn giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng chính trị là mâu thuẫn giữa cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với nhất nguyên chính trị. Mục đích của lập luận này không phải
là đòi hỏi thu hẹp kinh tế để giữ vững chính trị mà đòi hỏi phải đa nguyên
chính trị để phá vỡ hệ thống chính trị và xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Dù
là do nhận thức hay do ý đồ chính trị, lập luận này hoàn toàn sai trái và phải
được bác bỏ dứt khoát.
Cũng có người cho rằng, sự tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn tới sự phân
hóa giàu - nghèo. Sự phân hóa giàu - nghèo sẽ mâu thuẫn với việc thực hiện
công bằng xã hội. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội không
thể đi liền được với nhau. Lập luận này đã đi đến khẳng định rằng, kinh tế thị
trường và chủ nghĩa xã hội không phải là một. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì
phải bỏ kinh tế thị trường, và ngược lại, muốn có kinh tế thị trường phải bỏ
chủ nghĩa xã hội. Dựa vào cách lập luận đó, người ta muốn bỏ chủ nghĩa xã
hội để giữ lại nền kinh tế thị trường theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Thực chất
của tư tưởng này là muốn xóa bỏ vai trò định hướng chính trị cho quá trình
phát triển kinh tế, xóa bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa của cách mạng Việt Nam.
Đó là thứ lập luận vừa bảo thủ, vừa phản động.
Còn có nhiều cách lập luận khác nhau nhưng mọi lập luận chống chủ

nghĩa Mác đều đi đến mục tiêu cuối cùng là nhằm xóa bỏ thể chế chính trị
hiện hành. Theo họ, cách làm đó là để “ưu tiên”, “mở cửa” cho sự phát triển
kinh tế, nhưng trong thực tế là để mở đường cho chính trị tư sản xâm nhập
và thay thế nền chính trị xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo độc tôn của Đảng
ta.
Điểm qua một số nét trên đây, ta càng thấy mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.
Suy cho cùng, mọi sự phát triển của xã hội đều bắt nguồn từ kinh tế và
đều trên cơ sở của sự phát triển kinh tế. Nhưng chính trị là yếu tố hiệu
nghiệm nhất để phát triển kinh tế và bảo vệ kinh tế. Vì vậy, ở nước ta hiện
nay, việc phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần chỉ có thể thực hiện được khi có định hướng chính trị
vững vàng. Nhưng một nền chính trị thực sự vững vàng nếu trước hết nó phù
hợp với cơ sở kinh tế và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Dĩ nhiên, một

9


nền chính trị còn được đảm bảo bởi những yếu tố đúng đắn của chính bản
thân nó.
Trong điều kiện hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có
những diễn biến phức tạp; thời cơ xen lẫn nguy cơ. Mọi khả năng đều có thể
xảy ra, kể cả khả năng tốt cũng như khả năng xấu.
Các nguy cơ tụt hậu, chệch hướng, diễn biến hòa bình, tham nhũng
chẳng những đang tồn tại mà còn tác động ngày càng mạnh mẽ hơn, ảnh
hưởng trực tiếp tới an ninh chính trị của đất nước. Chính vì vậy, mối quan hệ
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính trị có thể bị tác động theo
những xu hướng khác nhau.
Xu hướng tốt đẹp nhất là kiến trúc thượng tầng sẽ từng bước biến đổi
phù hợp với cơ sở hạ tầng, đáp ứng yêu cầu phát triển của cơ sở hạ tầng;

đồng thời tác động tích cực trở lại cơ sở hạ tầng. Điều đó sẽ làm cho cơ sở
hạ tầng phát triển đúng hướng, mạnh mẽ, đất nước sẽ từng bước đi lên theo
hướng xã hội chủ nghĩa một cách vững chắc.
Xu hướng thứ hai là kiến trúc thượng tầng biến đổi quá chậm so với
cơ sở hạ tầng làm cho cơ sở hạ tầng bị cản trở, phát triển khó khăn. Sự
nghiệp phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ chậm chạp, qua nhiều
quanh co, phức tạp.
Xu hướng thứ ba là kiến trúc thượng tầng chính trị chệch hướng. Các
nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh bị vi
phạm. Nhiều cán bộ bị thoái hóa biến chất. Chiến lược diễn biến hòa bình
của thế lực thù địch giành ưu thế. Định hướng xã hội chủ nghĩa mờ nhạt dần
và cuối cùng bị chuyển hóa.
Tất cả những khả năng nêu trên đây đều là những khả năng hiện thực.
Kinh nghiệm ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã cho ta
thấy rõ điều này.
Hoạt động của con người không thể loại bỏ được những khả năng
khách quan. Nhưng những hoạt động này có tính năng động, tác động trở lại
những khả năng đó, tạo ra những điều kiện cho các khả năng tích cực, tiến
bộ trở thành hiện thực và tìm cách ngăn chặn rút bỏ các điều kiện để các khả
năng tiêu cực, lạc hậu không trở thành hiện thực.
Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tìm mọi cách để đổi mới kiến trúc
thượng tầng chính trị, làm cho nó phù hợp với yêu cầu của sự phát triển kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, làm cho chính trị vừa phản ánh được nhu cầu
phát triển của kinh tế vừa định hướng được cho sự phát triển kinh tế.
Ăngghen chỉ rõ: “Sau khi bạo lực chính trị đã trở thành độc lập đối với xã hội,
sau khi đã từ đầy tớ mà trở thành người chủ rồi, thì nó có thể tác động theo
hai chiều hướng. Hoặc nó tác động theo ý nghĩa và chiều hướng của sự phát
triển kinh tế có tính chất quy luật. Như thế thì giữa bạo lực chính trị và sự
phát triển kinh tế không có một sự xung đột nào và sự phát triển kinh tế được
đẩy nhanh hơn. Hoặc nó chống lại sự phát triển kinh tế, và khi đó trừ một vài

ngoại lệ ra, thường thường nó chịu sức ép của sự phát triển kinh tế”. Nhưng
trong trường hợp thứ hai, quyền lực chính trị có thể gây tác hại lớn cho sự
phát triển kinh tế và gây ra sự lãng phí lớn về sức lực và vật liệu. Vì vậy, củng
cố kiến trúc thượng tầng chính trị là nhiệm vụ có tính chiến lược.
Yêu cầu trên đây đòi hỏi trước hết phải đổi mới hệ thống chính trị theo
những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sự đổi mới này phải xuất phát từ cơ sở kinh tế và đáp ứng những yêu cầu

10


của phát triển kinh tế cũng như yêu cầu của bản thân nền chính trị mang tính
xã hội chủ nghĩa.
Trọng tâm của các giải pháp nhằm vào việc đổi mới Đảng và Nhà
nước, đổi mới sự hoạt động của hệ thống chính trị. Việc nâng cao sức chiến
đấu của Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối
với việc đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Song, Đảng ta là Đảng cầm
quyền, toàn bộ trí tuệ và sức lực của Đảng phải được thể hiện ở việc tổ chức
bộ máy nhà nước và năng lực quản lí kinh tế - xã hội của bộ máy nhà nước.
Nhà nước là công cụ quyền lực để quản lí xã hội của bất kì xã hội có giai cấp
nào. Nhà nước ta là công cụ quyền lực của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động nước ta. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao vai trò
quản lí của Nhà nước, xây dựng một Nhà nước thực sự của dân, do dân và
vì dân, có khả năng điều hành quản lí toàn bộ xã hội là yêu cầu cơ bản hiện
nay.
Đó là nhiệm vụ phải được đặt ra trong quá trình phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là nhiệm vụ cấp bách trong quá
trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước những năm trước mắt.
2.2.Vai trò định hướng của nhà nước trong thời kì quá độ xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

Đất nước ta đang phấn đấu vì mục tiêu xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”. Để đạt
được mục tiêu chính trị đó cần phải có một quá trình phấn đấu nỗ lực phi
thường của toàn Đảng, của Nhà nước, và của toàn dân. Trong đó, Nhà nước
đóng vai trò vô cùng quan trọng, góp phần lãnh đạo, tổ chức và quản lí xã hội
theo định hướng và mục tiêu chính trị mà Đảng đã đề ra.
Trong hai cuộc trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ đầy gian lao khó khăn, Nhà nước dân chủ nhân dân đã thể hiện vai
trò tác dụng vô cùng to lớn của mình, lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi
hai cuộc chiến tranh, bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc, đồng thởi bước đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gặt hái được nhiều kết quả đáng khích
lệ.
Sau chiến thắng mùa Xuân 1975, cả nước ta bước vào thời kì xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tổ chức lãnh
đạo toàn dân tộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu thu được sau
khi cả nước thống nhất đó là: tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam,
đưa nông dân vào con đường làm ăn hợp tác, xây dựng quốc phòng vững
mạnh, đánh bại cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, giữ vững toàn vẹn
chủ quyền dân tộc, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Song, thiếu sót lớn nhất đó là, tư tưởng chủ quan duy ý chí, muốn có
ngay chủ nghĩa xã hội. Về kinh tế, Nhà nước ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi
quá xa so với lực lượng sản xuất dẫn đến vi phạm quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Hậu quả là sản xuất
bị trì trệ, người lao động không chú ý đến nhà máy và hợp tác xã của họ.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó, suy cho cùng là do quá đề cao
lợi ích xã hội và tập thể còn lợi ích cá nhân người lao động bị coi nhẹ.
Về mặt xã hội, do chủ quan duy ý chí nên Nhà nước còn duy trì cơ chế
quan liêu bao cấp quá lâu. Đất nước đã hòa bình, nhưng phương thức hoạt
động của Nhà nước chưa vận động theo quy luật của hòa bình xây dựng. Một
lí do không kém phần quan trọng là đội ngũ cán bộ phần đông trưởng thành

trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nay chuyển sang làm nhiệm vụ quản lí, chỉ

11


đạo, điều hành xây dựng đất nước và trực tiếp quản lí kinh tế - xã hội không
đáp ứng được nhiệm vụ mới. Do những nguyên nhân kinh tế, do đội ngũ cán
bộ chưa đáp ứng được tốt nhiệm vụ quản lí kinh tế, do ý đồ phá hoại của hệ
thống đế quốc chủ nghĩa, do Mĩ kéo dài cấm vận đối với nước ta, do sự
khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm cho đất nước ta lâm vào
tình trạng khủng hoảng kéo dài từ những năm 1980 và mãi tận sau này.
Đứng trước những khó khăn tưởng như khó vượt qua, Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã mạnh dạn, sáng suốt đề ra đường lối đổi
mới đất nước. Đảng đã lãnh đạo Nhà nước, nhân dân ta nhìn thẳng vào sự
thật và công khai thừa nhận những thiếu sót của mình, kiên quyết thực hiện
đường lối đổi mới: đổi mới tư duy chính trị, tư duy kinh tế, nhận thức lại
nguyên lí về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xác định rõ nước ta
đang ở thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản với
điểm xuất phát về kinh tế - xã hội thấp, muốn xã hội chủ nghĩa xã hội chúng
ta phải kiên quyết bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng phải xây dựng nền
sản xuất tiên tiến, hiện đại từng bước đưa năng suất lao động lên cao để vừa
tăng trưởng về mặt kinh tế vừa xây dựng được một xã hội phát triển văn
minh, công bằng không còn bóc lột, áp bức. Chúng ta phải nhận thức rằng
chủ nghĩa xã hội như là một xã hội hoàn chỉnh chưa phải là mục đích trực tiếp
trước mắt mà chúng ta phải đạt đến ngay, mà là mục tiêu tương đối xa mà
chúng ta hướng tới. Do đó, chúng ta phải nhận thức lại, không thể lẫn lộn
giữa mục tiêu trước mắt với mục tiêu định hướng lâu dài. Từ điểm xuất phát
đến mục tiêu của đất nước là chủ nghĩa xã hội phải trải qua con đường quá
độ khá dài gồm nhiều chặng đường khác nhau, nhiều nấc thang khác nhau.
Đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà nền sản xuất nhỏ

là chủ yếu thì những hình thức trung gian quá độ là rất cần thiết, và thường
có tác dụng cực kì quan trọng. Vì vậy, Lênin viết: “Chúng ta phải hiểu những
đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển
từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt
của vấn đề”. Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định rằng: “Phải coi trọng
những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên
quy mô lớn”.
Từ điểm xuất phát thấp đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta trải qua
một xã hội quá độ, mang trong mình nó cả những yếu tố của một xã hội tiền
tư bản, tư bản và các yếu tố định hướng xã hội chủ nghĩa. Các yếu tố đó đan
xen vào nhau cùng phát triển. Để định hướng được mục tiêu xã hội chủ nghĩa
thì vai trò to lớn quyết định đó là sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lí của
Nhà nước và cơ chế làm chủ của nhân dân phải được thực hiện. Vai trò quản
lí điều hành của Nhà nước là quan trọng, có tính chất quyết định đối với nền
kinh tế -xã hội. Tính chất trung gian quá độ được thể hiện trước hết và rõ nét
nhất trong lĩnh vực kinh tế. Danh từ “quá độ” áp dụng vào kinh tế, theo Lênin
có nghĩa là: “trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận,
những mảnh chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội”.
Nhận thức và áp dụng vào thực tiễn Việt Nam, Đảng ta đã đưa ra
đường lối chung cho cách mạng Việt Nam là phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, hoạt động trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lí, điều tiết của Nhà nước.

CHƯƠNG III: VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THỜI KÌ ĐỔI
12


MỚI ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC NHIỀU THÀNH TỰU KHẢ QUAN, TUY NHIÊN
VẪN CÒN MỘT SỐ THIẾU SÓT TỒN TẠI. KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI

PHÁP
3.1.Thực trạng nền kinh tế trước khi tiến hành đổi mới - Những bước
tiền đề cho việc đổi mới
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng năm 1975, đất nước ta
đi vào thời kì khắc phục hậu quả chiến tranh, bước đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước. Lúc đó, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
ở miền Bắc đã được triển khai áp dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước.
Mặc dù đã có khá nhiều nỗ lực trong xây dựng và phát triển kinh tế,
Nhà nước đã đầu tư khá lớn, nhưng trong 5 năm đầu (1976-1980) tốc độ
tăng trưởng kinh tế chậm chạp, thậm chí có xu hướng giảm sút và bắt đầu rơi
vào tình trạng khủng hoảng. Giai đoạn 1981-1985 tình hình kinh tế lại càng
trở nên khó khăn hơn do lạm phát ngày càng nghiêm trọng.
Nền kinh tế nước ta thời kì này mặc dù đã đạt được một số thành quả
nhất định nhưng còn có nhiều hạn chế. Kinh tế tăng trưởng chậm, nhiều chỉ
tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai và ba không đạt được. Tất cả 15
chỉ tiêu kế hoạch đặt ra cho năm 1976 - 1980 đều không đạt được, thậm chí tỉ
lệ hoàn thành ở mức rất thấp, chỉ có 7 chỉ tiêu đạt 50-80% so với kế hoạch,
còn 8 chỉ tiêu khác chỉ đạt 25-48%. Kế hoạch 5 năm lần thứ ba đề ra thấp
hơn, song cũng có 6 trong 9 chỉ tiêu không hoàn thành so với kế hoạch. Điều
đó đã ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân
lao động.
Cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có của nền kinh tế quốc dân còn yếu kém,
thiếu đồng bộ, cũ nát, trình độ kĩ thuật nói chung còn lạc hậu (phổ biến là
trình độ kĩ thuật của những năm 1960 trở về trước), lại chỉ phát huy được
công suất ở mức 50% là phổ biến; công nghiệp nặng còn xa mới đáp ứng
được nhu cầu tối thiểu; công nghiệp nhẹ bị phụ thuộc, 70-80% nguyên liệu là
nhập khẩu. Do đó, đại bộ phận lao động xã hội vẫn đang còn là lao động thủ
công. Nền kinh tế chủ yếu vẫn còn là sản xuất nhỏ, manh mún. Phân công
lao động xã hội kém phát triển. Năng suất lao động xã hội rất thấp. Cơ cấu
kinh tế chậm thay đổi, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng.

Sản xuất phát triển chậm, không tương xứng với sức lao động và vốn
đầu tư bỏ ra. Sản xuất không đủ tiêu dùng, làm không đủ ăn, nền sản xuất
trong nước không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của dân cư, phải
dựa vào nguồn viện trợ bên ngoài ngày càng lớn. Trong 10 năm 1976-1985,
thu nhập quốc dân sản xuất trong nước chỉ bằng 80-90% thu nhập quốc dân
sử dụng. Toàn bộ quỹ tích lũy (rất nhỏ bé) và một phần quỹ tiêu dùng phải
dựa vào nguồn nước ngoài (trong 10 năm riêng lương thực đã phải nhập 5,6
triệu tấn). Năm 1985, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỉ rúp-USD. Cái hố ngăn cách
giữa nhu cầu và năng lực sản xuất ngày càng sâu.
Phân phối lưu thông bị rối ren, thị trường tài chính - tiền tệ không ổn
định. Ngân sách Nhà nước bị bội chi liên tục và ngày càng lớn. Mặc dù nguồn
thu từ viện trợ và nước ngoài không nhỏ, nhưng ngân sách vẫn trong tình
trạng thiếu hụt và phải bù đắp bằng phát hành. Bội chi ngân sách năm 1980
là 18,1%, năm 1985 là 36,6%, dẫn đến bội chi tiền mặt. Trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp ở miền Bắc trước năm 1975, giá cả ổn định và
không có khái niệm về lạm phát ngay cả trong những năm chiến tranh.
Nhưng ngay từ năm 1976, trên phạm vi cả nước, lạm phát đã xuất hiện và
13


ngày càng nghiêm trọng, giá cả tăng nhanh, đặc biệt là sau đổi tiền (tháng
9/1985), làm vô hiệu hóa ngay tác dụng của đổi tiền và làm rối loạn điều hành
kinh tế của Nhà nước trên bình diện vĩ mô và hạch toán kinh tế của các
doanh nghiệp. Giá cả leo thang từng ngày, điều đặc biệt là không chỉ tăng ở
thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh ở thị trường có tổ chức. Nếu lấy chỉ
số giá cả năm 1975 là 1 lần thì năm 1980 là 2,5 lần và năm 1985 là 38,5 lần.
Đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là đối với cán bộ công
nhân viên, lực lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiền lương thực tế
bình quân hàng tháng của cán bộ công nhân viên chức so với năm 1975 thì
năm 1980 chỉ bằng 51,1%; năm 1984 chỉ bằng 32,7%. Do đó, tiêu cực và bất

công xã hội tăng lên, trật tự xã hội bị giảm sút. Những điều đó chứng tỏ trong
thời gian này nước ta bị khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Trong khi nguồn viện trợ không hoàn lại của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu không còn nữa, đồng thời, do khó khăn về kinh tế
của các nước xã hội chủ nghĩa này nên nguồn vốn vay từ các nước này ngày
càng giảm sút. Trong khi đó Mĩ tiếp tục bao vây, cấm vận kinh tế, ngăn cản
Việt Nam bình thường hóa quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế.
Tuy nhiên trong thời gian 10 năm này, Đảng ta cũng đã thử nghiệm và
đổi mới tư duy kinh tế, đạt được một số thành tựu làm bước tiền đề cho việc
đổi mới sau này.
Trước những khó khăn của đời sống, nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước ở một số địa phương đã tìm kiếm các giải pháp, thực hiện cải
tiến từ cơ sở. Từ thực tiễn đó, năm 1979 Đảng và Nhà nước ta có một số chủ
trương dần dần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế kinh tế,
nhằm giải phóng các đơn vị kinh tế, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển.
Những cải tiến quản lí đầu tiên thực sự bắt đầu từ năm 1981 với việc
thực hiện khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các
hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và cải tiến quản lí, mở rộng quyền tự chủ
cho các xí nghiệp quốc doanh. Tiếp theo là một số cải tiến trong lĩnh vực tài
chính - tiền tệ, giá cả cũng được thực hiện, đặc biệt là cuộc tổng điều chỉnh
giá - lương - tiền tháng 9/1985.
Những cải tiến quản lí trong những năm 1979-1985 chính là những
bước tìm tòi, thử nghiệm bước đầu cho cuộc cải cách toàn diện nền kinh tế.
Đó là những làn sóng đầu tiên của quá trình phi tập trung hóa, xóa bỏ dần cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp ở Việt Nam. Song những cải tiến cục bộ
chưa làm thay đổi căn bản thực trạng của nền kinh tế và khủng hoảng vẫn rất
trầm trọng. Vì vậy, đổi mới toàn diện nền kinh tế trở thành yêu cầu cấp bách
ở nước ta.
3.2.Tình hình Việt Nam trong những năm đầu thời kì đổi mới
3.2.1.Những thành tựu về kinh tế - chính trị đã đạt được

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đại hội đánh dấu cho thời kì
đổi mới toàn diện ở nước ta, đến nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã tổ chức điều hành, quản lí nền kinh tế xã hội vượt qua khó khăn,
đạt được nhiều thành tựu mới cả về kinh tế lẫn chính trị - xã hội.
Về kinh tế, sau gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong suốt thời kì đổi mới từ năm 1986 đến nay nền kinh tế Việt Nam
liên tục tăng trưởng, đặc biệt tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục ở mức cao
trong suốt thời gian từ 1986-1997, các ngành công nghiệp và xây dựng cơ
bản có mức tăng trưởng từ 6,08-7% một năm; các ngành dịch vụ có mức

14


tăng trưởng mạnh nhất, từ trên 10% đến 14,5% một năm. Trong kế hoạch 5
năm 1991-1995, lần đầu tiên ta đã hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu chủ
yếu của kế hoạch này. Tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5
năm 1996-2000 và chiến lược 10 năm 1991-2000 đều đạt và vượt kế hoạch;
GDP trong 10 năm này tăng bình quân hàng năm 7,56%, nhờ vậy GDP năm
2000 đã gấp 2,07 lần năm 1990 (vượt so với mục tiêu tăng 2 lần mà Đại hội
VII của Đảng đã đề ra trong “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
1991-2000”). Riêng hai năm 1998-1999, nền kinh tế tăng trưởng có phần
chậm lại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực
và thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra trong nhiều vùng của đất nước. Nhưng năm
2000-2002 tốc độ tăng trưởng lại tăng lên đạt 6,7-7%. Chúng ta đã ngăn chặn
được đà giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế xuất hiện từ mấy năm trước.
Bắt đầu có sự tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã
hội năm 1990 chiếm 15,8% GDP, năm 1995 là 27,4% (trong đó nguồn đầu tư
trong nước chiếm 16,7% GDP). Đến cuối năm 1995, tổng vốn đăng kí của
các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ USD đã được thực

hiện.
Một số ngành kinh tế chủ chốt đã đạt được nhiều thành tựu lớn. Về
nông nghiệp, phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và
thủy sản, thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc, an toàn lương
thực quốc gia. Sản lượng lương thực tăng nhanh, bình quân 1,4 triệu
tấn/năm, tổng sản lượng lương thực năm 2002 đạt 36 triệu tấn. Tốc độ tăng
lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%/năm) nên
sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng nhanh, từ 304kg năm 1985
lên 364kg năm 1995 và đạt 450kg năm 2002. Việt Nam từ một nước thiếu
lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới với mức bình quân
xuất khẩu là 2,54 triệu tấn/năm, chỉ sau Thái Lan. Giá trị sản xuất trên 1 ha
đất canh tác đã tăng lên rõ rệt, đạt 17,5 triệu đồng/ha năm 2000. Hình thành
nhiều vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm như: đồng bằng sông
Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; vùng chuyên canh trồng cây công nghiệp
như: cà phê ở Đắc Lắc, cao su ở Đồng Nai, Sông Bé,… Các vùng cây ăn quả
tập trung cũng đang được hình thành. Nhiều mặt hàng nông sản đã chiếm vị
trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu, tổng giá trị nông sản xuất khẩu đã
chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng
hóa đã hình thành, gắn với thị trường quốc tế.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ hai con số, bình
quân thời kì 1991-1995 tăng 13,7%, thời kì 1996-2000 tăng 13,2%. Mức bình
quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi
măng… tăng nhanh trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
sản xuất, của đời sống nhân dân và xuất khẩu. Riêng ngành khai thác dầu
khí, mới ra đời trong thời kì đổi mới, sản lượng đạt 40.000 tấn dầu thô năm
1986 đã tăng lên gần 16,3 triệu tấn năm 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỉ USD.
Sở dĩ công nghiệp thời kì này tăng nhanh một phần là do đầu tư lớn của Nhà
nước trong những năm trước đây cho một số ngành quan trọng như dầu khí,
điện, xi măng, thép, giấy, đường,… Các nhà máy này tuy đã hoàn thành trong
những năm trước đây, nhưng đến giai đoạn này mới hoàn thiện và phát huy

đầy đủ công suất. Quan trọng hơn là do có sự đổi mới cơ chế chính sách
quản lí của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước được giải phóng, có quyền tự
chủ sản xuất, kinh doanh, từng bước xóa bỏ bao cấp, buộc các doanh nghiệp
nhà nước phải tham gia cạnh tranh trên thị trường; Các thành phần kinh tế

15


ngoài quốc doanh, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
cùng được phát triển…
Thời kì này ta đã hoàn thành một số công trình lớn: thủy điện Hòa
Bình, Trị An, Yaly, đường dây 500KV Bắc - Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ,
… Sản lượng điện đã tăng từ 5,7 tỉ Kwh năm 1986 lên 26,6 tỉ Kwh năm 2000.
Nhờ đó, lưới điện quốc gia đã phủ tới 98% số huyện, 70% số xã, 98% số hộ
thành thị, 60% số hộ nông thôn.
Hoạt động thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc. Cơ chế cung cấp
theo tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ, thay vào đó là tự do lưu
thông, thống nhất một giá. Thị trường đầy ắp hàng hóa và dịch vụ, giá cả ổn
định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận tiện.
Cơ cấu kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Về cơ
cấu ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng khu vực I (gồm nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản) tuy vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục,
nhưng tỉ trọng đã giảm xuống, trong khi đó tỉ trọng của khu vực II (gồm công
nghiệp và xây dựng cơ bản) và khu vực III (gồm các ngành dịch vụ) đã tăng
lên. Cơ cấu các thành phần kinh tế cũng đã có sự chuyển dịch theo hướng
đa dạng hóa các thành phần kinh tế, nhưng vẫn lấy kinh tế quốc doanh làm
chủ đạo. Các doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp tổ chức lại theo hướng
tinh giảm về số lượng, tăng cường về chất lượng; tổ chức giải thể, giao,
khoán, bán các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và các doanh nghiệp
có quy mô nhỏ, thành lập các tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt,

làm tăng tỉ trọng kinh tế Nhà nước, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Việc phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có ý nghĩa quan
trọng, tạo điều kiện tận dụng nguồn vốn và lao động, tự tạo việc làm, tăng thu
nhập của dân cư và đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cơ
cấu vùng kinh tế chuyển dịch theo hướng hình thành ba vùng kinh tế trọng
điểm ở ba miền Bắc, Trung, Nam; thiết lập các khu chế xuất, khu công nghiệp
tập trung với quy mô lớn, thu hút nguồn vốn đầu tư của nước ngoài như:
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng,…
Về cơ chế quản lí nền kinh tế, Nhà nước đã xóa bỏ về cơ bản cơ chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi. Trong những năm 1986-1988,
lạm phát đã tăng tới 3 con số làm cho nền kinh tế chao đảo, nhưng từ năm
1989, lạm phát đã được chặn lại ở mức 2 con số và sau đó giảm xuống 1 con
số. Tỉ lệ lạm phát năm 1986 là 774,7%, năm 1990 được giữ lại ở mức 67,4%,
đến năm 1995 giảm xuống 12,7%, năm 1997 giảm còn 3,7% và đến năm
1999 chỉ còn 0,1%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao.
Kinh tế đối ngoại được phát triển nhanh chóng, đặc biệt từ năm 1995
khi Mĩ tuyên bố xóa bỏ cấm vận Việt Nam về kinh tế, theo hướng mở rộng về
quy mô, đa dạng hóa hình thức và đa phương hóa thị trường. Năm 2000,
chúng ta đã có quan hệ thương mại với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ trên
thế giới, tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực như ASEAN, APEC,…
Nhờ chính sách mở cửa và đổi mới trong cơ chế nên hoạt động xuất nhập
khẩu cũng có tiến bộ vượt bậc với mức tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình
quân trên 20%/năm; năm 2001 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 15,027
tỉ USD, kim ngạch nhập khẩu là 16,162 tỉ USD. Cán cân xuất nhập khẩu đã
giảm bớt được sự chênh lệch, nhập siêu đã giảm từ 3,8 tỉ USD năm 1996

16



xuống còn 1,135 tỉ USD năm 2001. Ta có một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực
như dầu thô, than đá, gạo, dệt may, giày dép, thủy sản, cao su, cà phê với số
lượng lớn và chất lượng ngày càng tăng. Sản xuất hàng hóa hướng về xuất
khẩu là một hướng đi mới làm cho các ngành sản xuất thoát ra khỏi tình trạng
tự cấp tự túc, tăng dần tích lũy.
Hoạt động đầu tư nước ngoài cũng được đẩy mạnh với những chính
sách khuyến khích đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn nước ngoài (FDI), làm
tăng ngân sách và giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn lao động. Năm
2000, cả nước cấp phép 3.209 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn
đăng kí 39,4 tỉ USD, vốn thực hiện khoảng 18,9 tỉ USD, chiếm 30% tổng số
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, nộp vào ngân sách hơn 1,52 tỉ USD(khoảng
20% thu ngân sách), tạo hơn 21,6 tỉ USD hàng hóa xuất nhập khẩu và giải
quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp.
Ngoài ra còn có nguồn vốn tài trợ quốc tế ODA cam kết lên tới 17,5 tỉ USD và
1,2 tỉ USD hỗ trợ cải cách kinh tế. Nguồn vốn nước ngoài, trong đó có vốn
đầu tư trực tiếp đã đi kèm với công nghệ tiên tiến, đã góp phần đáng kể vào
sự phát triển kinh tế nước ta trong thời kì đổi mới.
Về đời sống xã hội, tuy còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân đã được cải thiện một bước rõ rệt.
Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% một năm, GDP bình quân đầu
người hiện nay đạt trên 400USD/năm. Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ
giàu tăng lên, đến nay số hộ giàu đã đạt trên 10%. Số hộ nghèo giảm từ 55%
năm 1989 xuống còn 11,4% vào năm 2000. Những hộ có thu nhập tương đối
cao, đã có tích lũy, xây dựng được nhà kiên cố, mua sắm những đồ dùng lâu
bền và đắt tiền. Trung bình mỗi năm giải quyết việc làm cho hơn một triệu lao
động. Nhiều công trình cơ sở hạ tầng và đường giao thông được nâng cấp và
xây dựng mới ở cả nông thôn và thành thị.
Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân cũng

được nâng lên đáng kể. Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân
dân đã được nâng cao rõ rệt, số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân
năm 1995 là 2171; tỉ lệ người biết đọc, biết viết năm 2000 là 93%; chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam tăng từ 0,464 năm 1992 lên 0,671 năm
2000, xếp thứ 108 trong số 174 nước được xếp hạng.
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn
hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa
gia đình có nhiều mặt phát triển. Người lao động được giải phóng khỏi ràng
buộc của nhiều cơ chế không hợp lí, phát huy quyền làm chủ và tính năng
động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập. Phong trào
đền ơn đáp nghĩa, phong tặng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, phong trào xóa đói
giảm nghèo và các hoạt động nhân đạo ngày càng phát triển. Lòng tin của
nhân dân vào chế độ, vào Đảng và Nhà nước được tăng lên.
Từ đường lối chung của Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong phạm vi cả nước. Xuất phát từ đặc điểm cơ bản của
nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu với 80% dân cư
đang sống ở nông thôn, đây là địa bàn tập trung đại bộ phận người nghèo
trong xã hội nên mặc dù nguồn thu ngân sách của Nhà nước còn khó khăn,
nhưng Nhà nước đã dành nguồn vốn đáng kể để thực hiện các chương trình
mục tiêu đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn. Chỉ tính 2 năm
1995-1996, Nhà nước đã dành hơn 5000 tỉ đồng vốn ngân sách từ trung
ương để đầu tư cho 16 chương trình mục tiêu gồm: chương trình 327, 773;

17


chương trình xóa đói giảm nghèo, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe,
dân số và kế hoạch hóa gia đình,…; phủ sóng truyền thanh, phủ sóng truyền
hình; chương trình giúp đỡ đồng bào đặc biệt gặp khó khăn, cho vay vốn giải
quyết việc làm,… Nhiều địa phương đã sử dụng vốn do Nhà nước đầu tư,

huy động thêm vốn đóng góp của nhân dân theo phương thức “Nhà nước và
nhân dân cùng làm” đạt kết quả tốt, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, phát triển sản xuất nông
nghiệp, cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, nhất
là các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Nếu chỉ tính riêng những vùng
khó khăn, vùng núi trong những năm 1995-1996, GDP tăng trưởng trên 10%.
Vùng Tây Nguyên có mức tăng trưởng khá, GDP bình quân hàng năm của
Lâm Đồng tăng 13,5%, Kon Tum tăng 9,2%, Đắc Lắc tăng 7,7%, Gia Lai tăng
6,8%. Nhiều vùng trước đây sản xuất mang tính tự nhiên, du canh, du cư nay
đã được ổn định với kinh tế đồi rừng, vườn rừng,… Đã hình thành một số
vùng sản xuất hàng hóa tập trung, nhiều tỉnh đã giải quyết tốt vấn đề lương
thực trên quan điểm sản xuất hàng hóa tập trung thâm canh vào từng vùng,
những cây trồng có điều kiện mang lại kết quả kinh tế lớn như vùng chuyên
canh cây quế, cây hồi, cà phê, cao su, chè, vải thiều,… Đã góp phần giải
quyết việc làm cho hàng vạn lao động và giúp cho hàng vạn hộ thoát khỏi
nghèo đói. Chỉ tính riêng các tỉnh phía Bắc, số hộ có mức sống khá chiếm
trên 50%, cả nước có từ 40% đến 50%. Số hộ nghèo đói giảm từ 2% đến 4%.
Nhà nước đầu tư nguồn vốn cho giáo dục, y tế, phát triển công nghiệp
nặng, công nghiệp chế biến, khai thác dầu khí, điện… Riêng Nhà nước đầu
tư cho ngành điện nông thôn tính đến năm 1997 là 365 tỉ đồng, cộng với dân
tự đóng góp 2210 tỉ đồng, điện đã đến hầu khắp các tỉnh, các thôn bản trong
cả nước mang đến sự nhận thức và hiệu quả sản xuất cao hơn.
Về quản lí nền kinh tế - xã hội, Nhà nước đã sửa đổi và ban hành Hiến
pháp, các Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Hình sự… và các pháp lệnh
khác. Điều đó cho chúng ta thấy sự phát triển của Nhà nước trong tổ chức và
quản lí xã hội đã có những bước tiến rõ rệt.
Bên cạnh sự phát triển của kinh tế, nền tảng chính trị của nước ta
cũng được củng cố ổn định vững vàng hơn. Niềm tin của nhân dân vào
đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước đã được nâng cao rõ rệt,

nhân dân đã giác ngộ được tư tưởng cách mạng, đường lối đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, hợp lí; nhận biết và loại bỏ
những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc phản động của các thế lực thù địch chống
phá Nhà nước ta. Nhờ có nền chính trị vững vàng mà chúng ta đã vừa thực
hiện phát triển kinh tế, vừa đảm bảo giữ vững an ninh trật tự xã hội, phát hiện
và đập tan nhiều âm mưu diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ chống phá chế
độ chính trị xã hội chủ nghĩa của các thế lực phản động thù địch trong và
ngoài nước, đồng thời đại diện cho các nước xã hội chủ nghĩa thể hiện vị thế
chính trị của mình trên trường quốc tế.
Những thành tựu kinh tế, chính trị - xã hội đã đạt được trên đây là kết
quả của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đồng thời, đó
cũng là kết quả của sự phù hợp giữa ý Đảng và lòng dân. Những thành tựu
đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Uy tín của nước ta trên trường quốc tế
cũng ngày càng được nâng cao; tạo ra thế và lực mới để nước ta phát triển
mạnh mẽ hơn nữa trong thế kỉ XXI.

18


3.2.2.Những thiếu sót còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu kinh tế, chính trị - xã hội tiến bộ đã đạt
được trong những năm đầu thời kì đổi mới vẫn còn tồn tại một số mặt hạn
chế, thiếu sót cơ bản cần khắc phục.
Về kinh tế, nền kinh tế nước ta chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công
nghiệp còn nhỏ bé, lạc hậu, kết cấu hạ tầng kém phát triển; cơ sở vật chất kĩ
thuật chưa xây dựng được bao nhiêu. Mặc dù cơ cấu các ngành trong GDP
có sự chuyển dịch rõ rệt, nhưng cơ cấu lao động chậm biến đổi. Hiện nay,
gần 80% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp vẫn chiếm hơn
60% tổng lao động xã hội. Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhanh nhưng

năng suất, chất lượng và hiệu quả còn thấp.
Vai trò quản lí của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội còn yếu, khả
năng kiềm chế lạm phát còn chưa vững chắc, ngân sách thu không đủ chi, tỉ
lệ bội chi ngân sách còn cao. Nước ta còn nghèo nhưng chưa thực hiện tốt
cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, tích lũy từ nội bộ nền kinh
tế và đầu tư phát triển còn thấp. Tình trạng bất công xã hội, tham nhũng,
buôn lậu, vi phạm kỉ cương còn nặng và phổ biến.
Về chính trị, hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, các văn bản luật,
pháp lệnh, pháp quy để làm căn cứ cho các hoạt động kinh tế - xã hội còn
thiếu thống nhất, lại chậm được bổ sung sửa đổi làm cho các ngành, các cấp
khi thực hiện còn lúng túng, hoặc vận dụng không thống nhất nên dẫn đến
những hạn chế về mặt kinh tế - xã hội.
Một bộ phận cán bộ quản lí nhà nước trong lề lối làm việc còn mất dân
chủ, quan liêu xa rời quần chúng, vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng
trong quản lí kinh tế - tài chính. Dẫn đến niềm tin của quần chúng vào Nhà
nước bị giảm sút.
Về đời sống xã hội, do tác động của cơ chế thị trường và mở cửa của
nền kinh tế đã làm nảy sinh vấn đề phân hóa giàu - nghèo và nhiều hiện
tượng tiêu cực liên quan đến một bộ phận dân cư như tệ nạn xã hội, lối sống
thiếu lành mạnh, đạo đức xã hội và văn hóa truyền thống giảm sút, tội phạm
gia tăng,… Ngoài ra, một số phúc lợi xã hội nhờ cơ chế bao cấp được chia
đều như học tập miễn phí, chữa bệnh tật không mất tiền… không còn được
duy trì như trước. Dù rằng, trong cơ chế cũ chỉ là sự chia đều nghèo khổ và
thiếu thốn, nhưng tính công bằng trong cơ chế đó đối với một số ít người vẫn
cảm thấy dễ chịu hơn là sự phân hóa mức sống và điều kiện hưởng thụ giữa
các tầng lớp dân cư như hiện nay.
Thực tế cho thấy, sự phân hóa giàu - nghèo trong xã hội đang là vấn
đề đáng quan tâm. Qua số liệu của Tổng cục Thống kê điều tra năm 1993
cho thấy:
+Có 4,1% dân cư được xếp là tầng lớp giàu (thu nhập bình quân

530.210 đ/tháng).
+Có 17,2% dân cư được xếp là trên trung bình (thu nhập bình quân
188.940 đ/tháng).
+Có 36,5% dân cư được xếp loại trung bình (thu nhập bình quân
100.650 đ/tháng).
+Có 22,3% dân cư được xếp loại dưới trung bình (thu nhập bình quân
65.820 đ/tháng).
+Có 20% dân cư được xếp là nghèo, trong đó có 4,3% được xem là
rất nghèo (thu nhập bình quân 40.870 đ/tháng).

19


Như vậy, tầng lớp giàu 4,1% và tầng lớp nghèo 20% có thu nhập bình
quân chênh lệch nhau 12 lần.
Thu nhập bình quân thành thị và nông thôn, mức chênh lệch bình quân
tính chung cả nước cũng gần 2,5 lần (thành thị 220.340 đ/tháng, nông thôn
94.440 đ/tháng). Tất nhiên, sự phân hóa này là điều không thể tránh khỏi khi
nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường và giai đoạn đầu của sự tăng
trưởng trong đó có sự chi phối của quy luật phát triển không đều. Nhưng nó
sẽ là vấn đề xã hội nghiêm trọng nếu tình trạng này cứ tiếp tục tăng thêm. Vì
vậy, vấn đề được đặt ra là phải nâng được mức thu nhập của 42,3% dân cư
có mức sống dưới trung bình và rút ngắn chênh lệch giữa các tầng lớp này
và tầng lớp có thu nhập trên trung bình.
Số liệu điều tra trên đây đã qua nhiều năm. Trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường biến động mạnh theo hướng điều tiết của cơ chế thị trường, hiện
nay mức thu nhập tuyệt đối của mỗi tầng lớp dân cư và mức chênh lệch còn
có thể lớn hơn rất nhiều.
Bên cạnh sự phân hóa tự nhiên đó, có một bộ phận dân cư trở nên
giàu nhanh chóng, hoàn toàn không do sức lao động và tài năng, hoặc tiền lời

kiếm được không tương xứng với công sức của mình, trong đó có những
người do làm ăn bất chính, lợi dụng khe hở của cơ chế quản lí, do tham
nhũng, buôn lậu… mà trở nên giàu có, tiêu xài phung phí, sống xa hoa càng
đè nặng lên tâm lí phản ứng về sự bất công của đa số dân nghèo, tầng lớp
cán bộ hưu trí, những viên chức thuần túy sống bằng đồng lương cố định,…
Các hiện tượng có thật nêu trên chính là mặt trái của cơ chế thị trường.
Nguyên nhân của những yếu kém, sai sót trên một mặt là do hậu quả
của nhiều năm trước đây để lại và do những tác động bất lợi của tình hình
thế giới; mặt khác, còn do những khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của
Đảng và quản lí của Nhà nước. Để khắc phục hiện tượng đó, đòi hỏi Nhà
nước phải tăng cường vai trò điều tiết, dẫn dắt, kiểm soát của mình đối với xã
hội trong cơ chế kinh tế thị trường. Có như vậy mới thực hiện được mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
3.3.Các giải pháp và phương hướng đề nghị
Trước những thành tựu đã đạt được và những hạn chế, thiếu sót còn
tồn tại trong những năm đầu của thời kì đổi mới ở Việt Nam, Đảng và Nhà
nước cần phải đề ra những phương hướng và giải pháp phát triển đúng đắn,
toàn diện, triệt để hơn. Nhằm tiếp tục phát triển nền kinh tế, củng cố chế độ
chính trị, đồng thời có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế, thiếu sót,
tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa trong những
năm tiếp theo.
Về vấn đề phát triển kinh tế, cần tiếp tục duy trì và tăng nhịp độ tăng
trưởng kinh tế so với hiện nay, tăng thu ngân sách, tối đa kiềm chế và đẩy lùi
lạm phát. Cần có các chính sách điều hành và phát triển kinh tế hợp lí, hiệu
quả, khuyến khích lao động sản xuất, cân đối về tỉ trọng kinh tế, đảm bảo sự
tăng trưởng vững chắc. Đẩy mạnh phát triển sản xuất, phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, trong đó vẫn lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo,
cơ chế khuyến khích và hỗ trợ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân, một phần giải quyết vấn đề
việc làm cho lao động. Đẩy mạnh đầu tư về vốn và kĩ thuật cho các ngành

công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn và các ngành xây dựng cơ bản, giao thông
vận tải, thông tin liên lạc,… để đảm bảo xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với
yêu cầu phát triển, giao thông và thông tin nhanh chóng, thông suốt. Cơ chế

20


xuất nhập khẩu cũng cần đổi mới, tạo hành lang pháp lí thông thoáng, đơn
giản hơn, giảm bớt nhiều khâu cồng kềnh, phức tạp và kém hiệu quả, để
khuyến khích xuất nhập khẩu, làm tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thu nhiều
ngoại tệ. Đồng thời cũng cần khuyến khích phát triển nhiều ngành sản xuất
trong nước có tiềm năng xuất khẩu để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, thoát
khỏi tình trạng tự cấp tự túc, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa, tăng
tích lũy ngoại tệ, làm giảm chênh lệch trong cán cân xuất nhập khẩu. Về kinh
tế đối ngoại, cần có các chính sách mở cửa, chính sách đầu tư thông thoáng,
kêu gọi đầu tư, chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt, đồng thời tranh thủ tối đa
mọi nguồn viện trợ nước ngoài. Nhằm huy động vốn đầu tư bằng ngoại tệ với
khối lượng lớn và tiếp thu kĩ thuật, công nghệ cao, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Cơ chế quản lí nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
dưới sự điều tiết quản lí của Nhà nước cần được nhanh chóng hoàn thiện,
đồng bộ và triển khai một cách có hiệu quả. Đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề vững chắc cho xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Về vấn đề chính trị, cần hoàn thiện hóa bộ máy hành chính Nhà nước,
thực hiện xây dựng bộ máy quản lí Nhà nước theo hướng tinh giảm về số
lượng, nâng cao về chất lượng và hiệu quả hoạt động, quản lí. Giảm bớt
nhiều khâu quan liêu lạc hậu, nhiều thủ tục phức tạp, kém hiệu quả trong hoạt
động hành chính. Xây dựng hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách quản lí
bao quát, hoạt động hiệu quả, mang tính đồng bộ cao; được bổ sung, sửa đổi
thường xuyên để đảm bảo tính hoạt động hiệu quả, phù hợp với yêu cầu và

xu thế phát triển của đất nước. Về bộ máy của Đảng, cần vận dụng đúng đắn,
linh hoạt, hiệu quả tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh vào điều kiện thực tế của Việt Nam trong thời kì đổi mới. Từ đó đề ra
những phương hướng và đường lối đúng đắn, làm cơ sở cho quá trình phát
triển. Đồng thời, cần tránh những tư tưởng sai lệch, chủ quan duy ý chí làm
ảnh hưởng đến quá trình phát triển của đất nước. Cần tích cực phát triển hệ
thống của Đảng, phát huy tinh thần sáng tạo, trung thực, liêm khiết, tiết kiệm
trong nội bộ Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ Đảng. Tuyên dương những
cán bộ Đảng gương mẫu, trách nhiệm; thẳng thắn phê bình, xử lí kỉ luật
những cán bộ có sai phạm. Chống nạn cửa quyền, tham nhũng, thái độ làm
việc quan liêu, tiêu cực trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Về đời sống xã hội, cần tích cực nâng cao đời sống nhân dân cả về
vật chất lẫn tinh thần. Cần có các chính sách về lương và trợ cấp, phụ cấp
hợp lí, để giải quyết cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên chức. Thực
hiện một số hoạt động phúc lợi xã hội và từ thiện, đảm bảo công bằng xã hội
như: chữa bệnh miễn phí và giảm viện phí cho người nghèo; phong trào “lá
lành đùm lá rách”; phong trào đền ơn đáp nghĩa, xây dựng các nhà tình nghĩa
cho các mẹ Việt Nam anh hùng và các gia đình có công với cách mạng; xây
dựng các nhà tình thương cho trẻ em lang thang, không nơi nương tựa; xây
dựng các trại dưỡng lão cho người già neo đơn;… Bên cạnh đó thực hiện
việc phát triển toàn diện, tăng đầu tư cho các vùng nông thôn, miền núi, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa để phát triển kinh tế ở các vùng này, cải thiện đời
sống nhân dân, làm giảm sự mất cân đối về kinh tế và thu nhập bình quân
giữa nông thôn và thành thị. Có các chính sách tư vấn và hỗ trợ cho vay vốn
để phát triển kinh tế; phát triển các làng nghề, hợp tác xã thủ công; hướng
dẫn nông dân kĩ thuật canh tác, phát triển cây trồng vật nuôi theo các mô hình

21



VAC, VACR; thực hiện khoán ruộng, khoán rừng;… để xóa đói giảm nghèo,
tạo công ăn việc làm cho người lao động ở nông thôn.
Cần chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, tăng
tính đoàn kết tập thể cho nhân dân thông qua các hoạt động văn hóa nghệ
thuật, thể dục thể thao, thông tin đại chúng, công tác kế hoạch hóa gia đình;
… các phong trào nếp sống văn minh, tổ tự quản an ninh trật tự, làng văn
hóa, gia đình văn hóa,… Cần tuyên truyền phổ biến tư tưởng, đường lối,
chính sách phát triển hợp lí, đúng đắn của Đảng và Nhà nước, giáo dục pháp
luật cho nhân dân, để người dân hiểu và tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và
chế độ ta, đồng thời có những kiến nghị đóng góp cho Đảng và Nhà nước về
việc quản lí, điều hành và lãnh đạo đổi mới, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm theo”. Từ đó cũng cố vững chắc hệ thống chính trị, đảm bảo an ninh trật
tự xã hội, đập tan mọi âm mưu tuyên truyền xuyên tạc, phản động chống phá
Đảng, Nhà nước và chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa của các thế lực phản
động, thù địch trong và ngoài nước.
Trên đây là một số giải pháp kiến nghị cơ bản nhằm giúp hoàn thiện
hóa và diều chình các cơ chế quản lí, điều hành của Nhà nước, đường lối
phát triển của Đảng, để từ đó tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới đất nước
đạt được nhiều thành tựu đáng mừng hơn, đồng thời khắc phục những mặt
hạn chế, thiếu sót, thực hiện đổi mới toàn diện, triệt để trong những năm tiếp
theo, tiến nhanh đến đích xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

22


LỜI KẾT
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
là một quy luật vận động khách quan, có tác động mạnh mẽ đến hình thái
kinh tế - xã hội.

Với bản chất là mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, việc nắm vững
mối quan hệ này và vận dụng vào việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế với
chính trị ở Việt Nam trong thời kì đổi mới là rất quan trọng. Điều này góp phần
giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, từ đó
đưa ra được đường lối và chính sách điều hành, quản lí nền kinh tế - xã hội
một cách đúng đắn, thực hiện đổi mới toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực của
đời sống, phát triển đời sống xã hội, tạo dựng nền tảng tiền đề cho xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề tương đối khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
phải nghiên cứu kĩ lưỡng, vận dụng linh hoạt sáng tạo, phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh Việt Nam trong thời kì quá độ. Do đó, không nên nóng vội, chủ
quan duy ý chí mà phải nghiên cứu, tìm hiểu rõ vấn đề này một cách toàn
diện từ nhiều khía cạnh. Chỉ khi nắm rõ được bản chất của vấn đề mới có thể
đề ra được phương hướng đổi mới, phát triển toàn diện, triệt để một cách
hiệu quả nhất, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng thành công
xã hội xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.

23


PHỤ LỤC: MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia,
2003.
• Chương X: Hình thái kinh tế - xã hội, III - Biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trang 358.
2. Giáo trình lịch sử kinh tế, Bộ môn Lịch sử kinh tế - Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân, Nhà xuất bản thống kê, 2003.
• Chương XIII: Kinh tế Việt Nam thời kì 10 năm đầu sau khi đất
nước được thống nhất (1976-1985), Khó khăn, hạn chế của

nền kinh tế và nguyên nhân, trang 392.
• Chương XIV: Kinh tế Việt Nam thời kì đổi mới (từ 1986 đến
nay), trang 399.
3. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính trị
trong thời kì phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
Việt Nam, Tập thể các nhà khoa học thuộc Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, PGS-PTS Trần Phúc Thăng chủ biên, Nhà xuất bản
lao động, 2000.
4. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, bài của PTS Đoàn Quang Thọ, chủ nhiệm bộ môn triết học ĐHKTQD, tạp chí triết học số 2 (tháng 4/1997), trang 8.
5. Cải cách nền hành chính nhà nước nhìn từ mối quan hệ giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, Tạp chí Người đại biểu nhân
dân, số 107 - 108, năm 2000.

24



×