Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tiểu luận triết học Mac-Lenin, phân tích nội dung cơ bản của học thuyết kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.9 KB, 14 trang )

Tiểu luận
Triết học Mác Lênin
Đề bài: Phân tích nội dung cơ bản của học thuyết hình thái kinh- tế xã hội và
chứng minh quan niệm duy vật biện chứng về xã hội là mang tính khoa học và cách
mạng.Vận dụng lý luận này để giải thích quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
xã hội ở nớc ta.

Triết học Mác Lênin ra đời đã tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong
lịch sử phát triển triết học của nhân loại. Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức thế giới tự nhiên đến chỗ nhận
thức xã hội loài ngời: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của
t tởng khoa học. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một
trong những yếu tố chủ yếu của bớc ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực
hiện trong triết học.
Chính sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết học
Mác - Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ những thành quả
mà chủ nghĩa xã hội đã giành đợc, nhất là công cuộc đấu tranh bảo vệ để đa sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội vợt qua thách thức to lớn hiện nay mà tiếp tục tiến lên, đòi
hỏi các Đảng Cộng sản phải năm vững lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Trớc hết,
phải thấm nhuần thế giới quan duy vật và phơng pháp biện chứng khoa học của nó. Cả
những thành công cũng nh thất bại trong qua trình đổi mới, cải tổ chủ nghĩa xã hội
chứng tỏ sự cần thiết phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, đồng thời
khắc phục bệnh giáo điều trong vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu xa rời lập trờng của chủ nghĩa Mác
Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét lại. Việc nghiên cứu đề tài này, giúp ta đánh giá phần
nào việc vận dụng các lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.

1


Trong giai đoạn hiện nay việc nhận thức đúng, bảo vệ và vận dụng sáng tạo học


thuyết Mác về hình thái kinh tế xác hội đang trở thành một nhiệm vụ chính trị cấp
bách.
Kể từ khi chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào thì học thuyết này là một
trọng điểm lý luận bị công kích từ nhiều phía. Ngời ta tuyên bố nó đã trở nên lạc hậu,
muốn nhận thức xã hội hiện nay phải dựa vào các lý luận khác. Nếu quả là nh vậy thì
phong trào cách mạng mất đi thế giới quan khoa học và lý tởng xã hội chủ nghĩa cũng
không còn căn cứ khoa học nữa. Một số ngời tỏ ra bối rối hoặc giao động. Có ý kiến
đề xuất phải xây dựng một thứ xã hội chủ nghĩa phi Mác-xít thay cho chủ nghĩa xã
hội Mác-xít.
Một số ngời giải thích học thuyết hình thái kinh tế xã hội theo quan điểm duy
vật máy móc để chứng minh rằng làm cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội là sai lầm.
Cứ để xã hội đi vào con đờng t bản chủ nghĩa rồi nhờ quá trình lịch sử tự nhiên
nh Mác nói, xã hội sẽ tự động chuyển sang xã hội xã hội chủ nghĩa, khỏi cần cách
mạng. Họ cho rằng, con đờng xã hội chủ nghĩa nớc ta đã lựa chọn là trái với quá
trình lịch sử tự nhiên, nó không tất yếu và cũng không có khả năng thực hiện,
nhất là trong điều kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nớc Đông Âu đã sụp đổ.
Hơn lúc nào hết, những ngời cách mạng phải đấu tranh với các quan điểm sai
lầm nói trên, bảo vệ sự đúng đắn của quan điểm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa
Mác.
Mặt khác, trong việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội để xác định
con đờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới ở nớc ta cũng đang nảy
sinh nhiều vấn đề mới, đòi hỏi chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin nói chung và học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói riêng để tiếp tục làm
sáng tỏ con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam.
1)Nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của nó
Chủ nghĩa duy vật lịch sử với nội dung chủ yếu là nhận thức xã hội trong một
chỉnh thể và phát hiện những quy luật vận động và phát triển phổ biến của lịch sử. Đó
là một trong những cống hiến vĩ đại của triết học Mác - Lênin và cũng là bớc phát
2



triển mới, là bớc ngoặt cách mạng của lịch sử triết học. Và học thuyết hình thái kinh
tế - xã hội đợc coi là bộ xơng sống của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết quá trình lịch sử, Mác và Ăng-ghen
đã nêu ra quan điểm duy vật về lịch sử và hình thành học thuyết hình thái kinh tế
xã hội.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, Mác nêu một t tởng rất quan trọng
về vai trò của lực lợng sản xuất trong việc thay đổi các quan hệ xã hội. Mác viết
Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với lực lợng sản xuất. Do có đợc lực lợng sản xuất mới, loài ngời thay đổi phơng thức sản xuất của mình, và do thay đổi phơng thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài ngời thay đổi tất cả các quan hệ xã
hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nớc đa lại xã hội có nhà t bản công nghiệp.
Nh vậy theo Mác, lực lợng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong
việc thay đổi phơng thức sản xuất dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội và thay
đổi một chế độ xã hội, mà sau Mác gọi là hình thái kinh tế xã hội.
Để có quá trình sản xuất không chỉ cần có quan hệ giữa ngời với tự nhiên, thể
hiện những trình độ khác nhau của lực lợng sản xuất mà còn phải có mối quan hệ giữa
ngời với ngời trong quá trình sản xuất, tức là những quan hệ sản xuất. Mác viết
Trong sản xuất ngời ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên mà. Ngời ta không thể sản
xuất đợc nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để
trao đổi hoạt động vơi nhau... Xã hội cổ đại, xã hội phong kiến, xã hội t sản đều là
những tổng thể quan hệ sản xuất nh vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho
một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại.
Tiếp thu t tởng của Mác, Lênin đã quy những mối quan hệ xã hội về các quan hệ
sản xuất, lại quy những quan hệ sản xuất và những trình độ của lực lợng sản xuất từ
đó giải thích đợc sự vận động của các hình thái kinh tế xã hội. Bởi vì các quan hệ sản
xuất bao giờ cũng tồn tại trên một trình độ nhất định của lực lợng sản xuất. Hai mặt
này thống nhất thành phơng thức sản xuất và hợp thành nền tảng vật chất của mọi
hình thái kinh tế xã hội. Phép biện chứng của lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất xét cho cùng là động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của xã hội và đa đến sự


3


chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao
hơn.
Về cấu trúc hình thái kinh tế xã hội và cả cơ chế vận động, biến đổi của nó,
Mác đã trình bày một cách logíc hết sức sáng tỏ Trong sự sản xuất xã hội ra đời
sống của mình, con ngời có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý
muốn của họ tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của các lực lợng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên một kiến trúc thợng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý
thức xã hội nhất định tơng ứng với cơ sở hiện thực đó.
Ăng-ghen nhấn mạnh rằng cái cở sở để cắt nghĩa đợc lịch sử là cả phơng thức
sản xuất và cơ cấu xã hội ... trong mỗi thời đại lịch sử, phơng thức chủ yếu của sản
xuất kinh tế và trao đổi cùng với cơ cấu xã hội do phơng thức đó quyết định, đã cấu
thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự sự phát triển trí tuệ của
thời đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mới cắt nghĩa đợc lịch sử.
Lịch sử chứng tỏ rằng, các hình thái xã hội ngay cùng một kiểu cũng không khi
nào đợc thể hiện dới hình thức nh nhau. Mác viết cũng một cơ sở kinh tế đó nhng do
vô số những tình hình khác nhau về mặt kinh nghiệm, do những điều kiện tự nhiên,
chủng tộc, những ảnh hởng lịch sử từ ngoài vào, v.v. nên lại có thể biểu hiện dới
không biết bao nhiêu là biết thể và màu sắc mà ngời ta chỉ có thể hiểu đợc nhờ phân
tích những tình hình nhất định do kinh nghiệm đem lai....
Ăng-ghen đã giải thích vai trò của các yếu tố trong kiến trúc thợng tầng nh sau:
Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo... là dựa trên sự phát triển
của kinh tế. Nhng tất cả những sự phát triển đó tác động lẫn nhau và cũng tác động
đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện kinh tế là nguyên nhân duy nhất
chủ động, còn các thứ khác chỉ có tác dụng thu động.
Căn cứ vào những t tởng của các nhà kinh điển và thực tiễn chúng ta có thể xác

định: Hình thái kinh tế - xã hội, là một khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của lực lợng sản xuất và một kiến
trúc thợng tầng tơng ứng đợc xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
4


Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đặt cở sở nguyên tắc phơng pháp khoa học để
nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó chỉ ra bản chất của một xã hội
cụ thể, phân biệt chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy đợc tính lặp
lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa ngời với ngời trong quá trình sản xuất và sinh
hoạt ở những xã hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù hình thái kinh tế - xã hội cho
phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình và cả về vặt lịch sử. Xem xét đời sống xã
hội ở một giai đoạn phát triển của lịch sử nhất định, coi nh một cấu trúc thống nhất, tơng đối ổn định, đang vận động trong khuôn khổ của chính hình thái ấy (nghiên cứu
xã hội về mặt loại hình). Xem xét sự hình thành của một hình thái kinh tế xã hội nhất
định là nghiên cứu nó trong sự vận động, bớc quá độ, sự chuyển tiếp, sự thay thế các
hình thái kinh tế - xã hội (nghiên cứu về mặt lịch sử). Hai cách tiếp cận này thống
nhất với nhau, xem xét cả sự vận hành của xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định,
cả quá trình phát triển theo giai đoạn của xã hội trong tiến trình vận động lịch sử
chung.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội là mô hình lý luận về xã hội và nh mọi mô
hình, nó không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tợng trong đời sống kinh tế
xã hội. Vì vậy, hiện thực xã hội và sơ đồ lý thuyết về xã hội không đồng nhất với
nhau. Trong thực tế, các sự kiện lịch sử mang tính không lặp lại, hết sức phong phú,
các yếu tố tinh thần và vật chất, kinh tế và chính trị... thờng xuyên tác động qua lại,
xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ phản ánh cái
bản chất, những mỗi liên hệ bên trong, tất yếu, lặp lại của các hiện tợng ấy; từ tính đa
dạng cụ thể lịch sử, bỏ qua những chi tiết cá biệt, dựng lại cấu trúc ổn định và
logíc phát triển của quá trình lịch sử. Bất kỳ trong giới tự nhiên hay trong xã hội, đều
không có và không thể có hiện tợng thuần tuý - đó chính là điều mà phép biện
chứng của Mác đã dạy chúng ta, phép biện chứng đó đã vạch cho chúng ta thấy rằng

bản thân các khái niệm thuần tuý cũng có tính phiến diện và hẹp trong nhận thức của
con ngời, làm cho ngời ta không thể nhận thức đợc đầy đủ đối tợng trong tất cả tính
phức tạp của nó.
Phạm trù hình thái kinh tế xã hội đem lại những nguyên tắc phơng pháp luận
xuất phát để nghiên cứu xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào
các chi tiết, vợt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra cái

5


bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tợng, vạch ra cái logíc bên trong của tính
đa dạng của lịch sử.
Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đời sống xã hội, về thực chất, là
có tính chất thực tiễn và hình thức chủ yếu trong cấu trúc của thực tiễn là hoạt động
sản xuất vật chất của con ngời. Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định
trong lịch sử xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất đời sống hiện thực. Ăngghen
viết: cả Mác và tôi cha bao giờ khẳng định gì hơn. Nếu nh có ai xuyên tác câu đó
khiến cho nó có nghĩa là chỉ có nhân tố kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định, thì họ
đã biến câu đó thành một câu trống rỗng, trìu tợng, vô nghĩa. Các nhân tố khác của xã
hội đều có ảnh hởng đến quá trình lịch sử. Tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể mà có thể xuất
hiện những nhân tố này hay nhân tố khác phát triển vợt trội, phá vỡ tính cân bằng của
hệ thống, thúc đẩy các yếu tố khác phát triển theo, thiết lập trạng thái cân bằng mới,
cao hơn. Tiến trình lịch sử luôn làm xuất hiện những nhân tố mới đóng vai trò động
lực thúc đẩy lịch sử phát triển mạnh mẽ nh cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
nay.
Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế xã hội, hình thái mới
không không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ
thống cũ lại bảo tồn, kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó, vừa đảm bảo tính liên
tục, vữa tạo ra bớc phát triển; do đó, tạo ra tình trạng chồng chất, đan xen những yếu
tố của nhiều hình thái xã hội khác nhau của nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau. Lênin đã

chỉ rõ: Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ chủ nghĩa t bản nào là
thuần tuýcả, vì chủ nghĩa t bản luôn luôn có lẫn những yếu tố phong kiến, tiểu thị
dân hoặc những cái khác nữa.
Tiến trình lịch sử của một dân tộc, một quốc gia cụ thể thờng xuyên bị những
yếu tố bên trong và bên ngoài khác chi phối nh hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn
hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ giao lu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố đó đều có
thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân tộc nhất định. Tình
trạng chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc cũng có thể làm gián đoạn, phá vỡ
tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề ổn định, phát triển của lịch sử dân tộc.
Các quá trình lịch sử của xã hội loài ngời diễn ra không đồng đều, thờng xuất hiện
những trung tâm phát triển về sản xuất vật chất, về kỹ thuật, về văn hoá hoặc tiến bộ
xã hội. Chính từ những trung tâm ấy có sự đổi mới và phát triển lan rộng nhờ sự giao
6


lu, trao đổi, đua tranh giữa các trung tâm phát triển giữa các nớc có trình độ phát triển
khác nhau. Đó là cơ sở thúc đẩy tiến bộ, làm xuất hiện khả năng một số nớc có thể bỏ
qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó, lợi dụng tính không đồng đều của quá
trình lịch sử một cách có ý thức để rút ngắn mà không lặp lại tuần tự các quá trình
phát triển của lịch sử.
2) Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội để giải thích quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế xã hội ở nớc ta.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học và đợc coi là bộ
xơng sống của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong điều kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn
luôn giữ nguyên giá trị. Nó đa lại một phơng pháp thực sự khoa học để phân tích các
hiện tợng trong đời sống xã hội và từ đó vạch ra phơng hớng và giải pháp đúng đắn
cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã đợc Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo
trong điều kiện cụ thể của nớc ta, vạch ra đờng lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
2.1)Quá trình nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đờng đi lên

CNXH ở nớc ta.
Chủ nghĩa xã hội và con đờng đi lên CNXH ở nớc ta là một vấn đề lý luận và
thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đờng lối chính trị của Đảng, phơng hớng phát triển của đất nớc. Đây là vấn đề trung tâm, cốt lõi trong đờng lối cách
mạng nớc ta; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội đối ngoại,
an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng... của Đảng ta. Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề rất
rộng lớn và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau và hiện vẫn còn không ít nội
dung phải tiếp tục đợc nghiên cứu, cắt nghĩa, lý giải, trả lời, cả trên định hớng chung
cũng nh định hớng cụ thể cho từng lĩnh vực. Cuộc đấu tranh t tởng diễn ra gay gắt từ
nhiều năm nay chủ yếu cũng trên vấn đề này. Trong nội bộ Đảng cũng có nhiều ý
kiến khác nhau xung quanh vấn đề này.
Đảng ta ngay từ khi mới ra đời, trong Cơng lĩnh (năm 1930) đã khẳng định mục
tiêu, lý tởng phấn đấu của nớc ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Và từ đó
đến nay, gần 80 năm chúng ta luôn luôn kiên định và quyết tâm phấn đấu cho mục
tiêu, lý tởng đó. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và Việt Nam đi lên CNXH bằng
7


cánh nào thì qua mỗi chặng đờng cách mạng chúng ta mới có đợc nhận thức ngày
càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Năm 1960, Đại hội III của Đảng đã xác định đờng lối cơ bản xây dựng CNXH ở
miền Bắc nớc ta; và tiếp sau đó nhiều Hội nghị Trung ơng và Bộ Chính trị có sự bổ
sung, phát triển.
Năm 1976, Đại hội IV của Đảng đã phát triển một bớc đờng lối của Đại hội III,
vạch ra đờng lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nớc. Đó là đờng lối:
Năm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng t tởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ
thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá

mới, con ngời mới xã hội chủ nghĩa....
Tuy nhiên, trong việc thiết kế các mô hình cụ thể và tổ chức chỉ đạo thực hiện,
chúng ta đã phạm một số sai lầm và khuyết điểm. Đó là những sai lầm về chủ tr ơng,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lợc và tổ chức thực hiện. Đại hội Đảng VI của Đảng
(tháng 12-1986) đã phân tích những nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là
bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội không tôn
trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt
Nam.
Đại hội Đảng VI đã đề ra đờng lối đổi mới toàn diện đất nớc nhằm nhận thức
đúng đắn hơn và thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa xã
hội. Đại hội đã đa ra những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa trong chặng đờng đầu tiên, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản
xuất hàng hoá và thị trờng, phê phán triệt để cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp và
khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trơng phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết
hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xà hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con ngời,
có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội VI là một mốc đánh dấu b ớc chuyển
quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đờng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
8


Đại hội Đảng VII của Đảng vào tháng 6-1991. Lúc này chế độ chủ nghĩa xã hội
ở các nớc Đông Âu đã sụp đổ và Liên Xô đi chệch hớng cải tổ đang có nguy cơ đi đến
tan rã. Một bộ phận đảng viên và nhân dân ta đã có những biểu hiện giao động, thậm
chí có ngời muốn đi theo con đờng khác. Các thế lực thù địch thì dấn tới phản công
quyết liệt vào các nớc XHCN còn lại. Từ đó, có quan điểm khẳng định CNTB là vĩnh
viễn và phủ nhận CNXH.
Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập
trung, chứ không phải bác bỏ chủ nghĩa xã hội với tính cách là một xã hội cao hơn

chủ nghĩa t bản. Chính sự khủng hoảng đó giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về CNXH
và con đờng đi lên CNXH. Nếu nh cách mạng công nghiệp thế kỷ 18-19 đã quyết
định sự thắng lợi củ chủ nghĩa từ bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa t
bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nớc ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là không tách rời nhau. Đó là quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đờng lối cách mạng
của Đảng. Việc Đảng ta luôn kiên định con đờng tiến lên CNXH là phù hợp với xu hớng của thời đại và điều kiện cụ thể của nớc ta.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hôi: do nhân dân lao động
làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các t liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; con ngời đợc giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực hởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân; các dân tộc trong nớc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ; có quan hệ hữu nghị đoàn kết hợp tác với nhân dân tất cả các nớc trên thế giới.
Mục tiêu của chúng ta là: Xây dựng một nớc Việt Nam dân giàu, nớc mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh.
Đại hội Đảng IX khẳng định Con đờng đi lên của nớc ta là sự phát triển quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tức bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng t bản chủ nghĩa, nhng tiếp thu
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản chủ nghĩa, đặc biệt
9


về khoa học kỹ thuật và công nghệ để phát triển nhanh lực lợng sản xuất, xây dựng
nềng kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đờng, nhiều hình thức tổ chức
kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội

diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
2.2)Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
Trong quá trình xây dựng xã hội ở nớc ta, Đảng và nhà nớc ta chủ trơng thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, tất cả các nớc đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trờng. Tuy
nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trờng đợc sử dụng với mục đích khác
nhau. Trong các nớc t bản, đó là nền kinh tế thị trờng t bản chủ nghĩa. ở nớc ta, đó là
nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trờng là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự
phát triển lực lợng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân
công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nớc giữ vai trò
chủ đạo; kinh tế nhà nớc cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa vừa phù
hợp với xu hớng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển
của lực lợng sản xuất ở nớc ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng đinh: Mục
đích của nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lợng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
10


nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lợng sản xuất hiện đại gắn liền với xây
dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản lý

của nhà nớc xã hội chủ nghĩa. Nhà nớc ta là Nhà nớc xã hội chủ nghĩa quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị
trờng, áp dụng các hình thức kinh tế và phơng pháp quản lý của kinh tế thị trờng để
kịch thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế khắc
phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trờng, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động, của toàn thể
nhân dân.
2.3)Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng XHCN ở nớc ta.
Một trong các đặc trng của XHCN mà nhân dân ta xây dựng là có một nền kinh
tế phát triển cao dựa trên dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại...
Nớc ta tiến lên CNXH từ một nên kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công nghiệp. Trong
điều kiện nớc ta, nếu không quan tâm đến phát triển lực lợng sản xuất, giải phóng
năng lực sản xuất thì không thể nói đến quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cái thiếu lớn
nhất của đất nớc ta kể từ khi bớc vào thời kỳ quá độ đến nay vẫn thiếu một lực lợng
sản xuất phát triển, hiện đại đủ đảm bảo cho nền kinh tế tăng trởng nhanh, bền vững.
Vì vậy, từ Đại hội III đến nay, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ
trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Bời vì, công nghiệp hóa thực chất là xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không phải chỉ đơn giản là tăng thêm
tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế mà là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trởng nhanh, hiệu quả và lâu bền của toàn bộ nên kinh tế quốc dân.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đợc Đảng ta đề ra là: xây dựng nớc
ta thành một nớc công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc, dân giàu, nớc mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh.Trớc mắt, ra sức phấn đấu đến năm 2020 nớc ta
cơ bản trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại. Vì thế, Đại hội IX khẳng
11


định, phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải đợc xem là nhiệm

vụ trung tâm của chiến lợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm đầu thế kỷ 21.
Từ Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành TU Đảng khoá VII đến nay Đảng ta đã
có quan niệm mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc về công nghiệp hoá. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) nhìn lại đất nớc sau 10 năm đổi mới đã
nhận định nớc ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhng một số mặt còn cha
vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đờng đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho
công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc. Đồng thời Đại hội còn nêu ra 6 quan điểm về
công nghiệp hoá và những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hóa trong
những năm còn lại của thập kỷ 90. Các quan điểm và định hớng về công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của Đại hội VIII đến nay vẫn đúng và có giá trị chỉ đạo thực tiễn. Chiến
lợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010, Đại hội IX nhấn mạnh thêm một
số điểm chủ yếu sau:
Cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nớc đi trớc. Đây là yêu cầu cấp thiết
của nớc ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với nhiều nớc
trong khu vực và trên thế giới, nhng cũng là khả năng hiện thực của nớc ta, một nớc đi
sau có điều kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của
các nớc đi trớc, xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội IX quan niệm rằng ... xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trớc hết là độc lập tự chủ về đờng lối chính sách,
đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh: có mức tích lũy cao từ nội bộ nền kinh tế; có
cơ cấu kinh tế hợp lý, có đủ sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có
một số ngành công nghiệp nặng theo chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công
nghệ; giữ vững ổn định kinh tế tài chính vĩ mô; bảo đảm an ninh lơng thực, an toàn
năng lợng, tài chính, môi trờng....
Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Văn kiện Đại hội IX nhấn


12


mạnh: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trờng.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta chỉ thực sự thành công chừng nào
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
2.4)Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của
đời sống xã hội.
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội
chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần
chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền kinh tế
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghị quyết Đại hội IX chỉ ra: Chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001
- 2010 nhằm: đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để dến năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành
một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại. Nguồn lực con ngời, năng lực khoa học và
công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh đợc tăng cờng; thể
chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đợc hình thành về cơ bản; vị thế của
nớc ta trên trờng quốc tế đợc nâng cao.

Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 2008


13


14



×