Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính phục vụ công tác quản lý đất đai trên địa bàn quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 99 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

UBND: Uỷ ban nhân dân

HĐND: Hội đồng nhân dân

CP: Chính phủ

CT-UB: Chỉ thị của Uỷ ban

TT: Thông tư

BTNMT: Bộ Tài nguyên Môi trường

GPMB: Giải phóng mặt bằng

BTC: Bộ Tài chính

SL: Sắc lệnh

HT: hệ thống

NĐ: Nghị định

TTg: Thủ tướng

XHCN: Xã hội chủ nghĩa


QĐ: Quyết định


DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Diện tích các loại đất chính của quận Cầu Giấy năm 2005.......Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Diện tích các loại đất nông nghiệp quận Cầu Giấy năm 2005
.......................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Diện tích các loại đất phi nông nghiệp quận Cầu Giấy.............Error:
Reference source not found


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi một quốc gia, là
yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống, trong sản xuất và đặc biệt trong tiến
trình phát triển kinh tế xã hội. Việc quản lý và sử dụng đất đai có ý nghĩa
quyết định tới sự thành bại kinh tế, ổn định chính trị, phát triển xã hội cả
trước mắt cũng như lâu dài. Để có thể quản lý và sử dụng đất đai một cách
minh bạch, có hiệu quả thì nhất thiết phải xây dựng một hệ thống hồ sơ địa
chính thống nhất từ trung ương đến địa phương. Công tác quản lý nhà nước
về đất đai hiện nay phải bao quát được các nội dung chủ yếu như đăng ký đất
đai, xây dựng hệ thống pháp luật đất đai, hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính.
Trong xu thế phát triển của toàn xã hội, khi tốc độ đô thị hoá ngày càng
tăng nhanh thì yêu cầu về việc quản lý chặt chẽ quỹ đất, đề ra những chính
sách để bảo vệ và sử dụng tài nguyên đất hợp lý, đem lại hiệu quả cao nhất là
vô cùng quan trọng. Để đạt được mục tiêu đó thì công việc đầu tiên mà các
nhà quản lý đất đai cần thực hiện chính là công tác kê khai đăng ký đất đai,

cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và lập hồ sơ địa chính ngay từ cấp cơ
sở. Trong một khoảng thời gian khá dài, đất đai bị buông lỏng quản lý, tài
nguyên đất bị sử dụng một cách lãng phí, thiếu minh bạch, một số hồ sơ tài
liệu về đất đai bị mất mát gây không ít khó khăn cho công tác quản lý. Những
năm gần đây, ngành địa chính đã có nhiều đổi mới nhằm từng bước nâng cao
năng lực quản lý, hiện đại hoá hệ thống hồ sơ địa chính cho phù hợp với nhịp
độ phát triển chung của toàn xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu của công tác quản lý đất đai hiện nay, đặc
biệt là công tác xây dựng và quản lý hệ thống hồ sơ địa chính nhằm hướng
cho đất đai được sử dụng một cách đầy đủ tiết kiệm và có hiệu quả cao nhất
tôi đã lựa chọn cho mình hướng nghiên cứu: “Hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa


2
chính phục vụ công tác quản lý đất đai trên địa bàn quận Cầu Giấy,
Thành phố Hà Nội”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu tổng quan về hệ thống hồ sơ địa chính, vai trò và nhu cầu
xây dựng hệ thống hồ sơ địa chính phục vụ công tác quản lý đất đai hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng công tác xây dựng và quản lý hồ sơ địa chính
trên địa bàn quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
- Đánh giá và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm xây dựng một hệ
thống hồ sơ địa chính hoàn thiện hơn, hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý đất đai.
3. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp điều tra và khảo sát thực tế
* Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
* Phương pháp thống kê
* Phương pháp chuyên gia
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài
Luận văn đi vào nghiên cứu tổng quan về hệ thống hồ sơ địa chính, tìm

hiểu tình hình quản lý hồ sơ địa chính.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được thực hiện trên địa bàn quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn bao gồm ba chương:
- Chương I: Cơ sở khoa học về hệ thống hồ sơ địa chính phục vụ công
tác quản lý đất đai
- Chương II: Thực trạng công tác xây dựng và quản lý hệ thống hồ sơ
địa trên địa bàn quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội
- Chương III: Phương hướng, giải pháp và kiến nghị hoàn thiện hệ thống
hồ sơ địa chính phục vụ công tác quản lý đất đai trên địa bàn quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.


3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HỆ THỐNG HỒ SƠ ĐỊA CHÍNH
PHỤC VỤ CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
1.1. Hệ thống hồ sơ địa chính
1.1.1. Khái niệm về hệ thống hồ sơ địa chính
Hệ thống hồ sơ địa chính được hiểu là hệ thống các tài liệu, số liệu, bản
đồ, sổ sách về quản lý đất đai… chứa đựng những thông tin cần thiết về điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và pháp lý cần thiết cho việc thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về đất đai. Nói cách khác nó là những thông tin cần thiết để
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với đất đai với tư cách là
chủ sở hữu duy nhất.
Hệ thống hồ sơ này được thiết lập, cập nhật trong quá trình điều tra, qua
các thời ký khác nhau và bằng các phương pháp khác nhau như: đo đạc thành
lập bản đồ địa chính, đánh giá và phân hạng đất, định giá đất, đăng ký ban

đầu, đăng ký biến động đất đai và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.1.2. Nội dung của hệ thống hồ sơ địa chính
Hồ sơ địa chính bao hàm các thông tin về quản lý và sử dụng đất với hai
đối tượng quản lý chính là thửa đất và người sử dụng đất. Xuất phát từ mục
tiêu, đối tượng cũng như nhiệm vụ quản lý đất đai và các quyền lợi, nghĩa vụ
của người sử dụng đất, hồ sơ địa chính phải thể hiện được các nội dung sau:
1.1.2.1. Các thông tin về điều kiện tự nhiên
Thông tin về điều kiện tự nhiên của thửa đất bao gồm: vị trí, hình dạng,
kích thước, diện tích, quan hệ hình học của thửa đất… Để xác định các thông
tin này, người ta sử dụng phương pháp đo đạc thành lập bản đồ và sản phẩm
của nó được gọi là bản đồ địa chính (thể hiện trên giấy hoặc dưới dạng số).


4
Như vậy có thể nói bản đồ địa chính là tài liệu cơ bản đầu tiên của hồ sơ
địa chính. Nó giúp chúng ta nhận biết được các điều kiện tự nhiên của từng
thửa đất, đồng thời là cơ sở để xác định các nội dung khác trong chức năng
quản lý nhà nước về đất đai. Mỗi một tờ bản đồ được gán một số hiệu duy
nhất, mỗi thửa đất cũng có một số hiệu duy nhất, điều đó không chỉ giúp cho
việc thống kê đất đai không bị trùng sót mà còn giúp tra cứu thông tin thuộc
tính của từng thửa đất và liên hệ giữa các thuộc tính đó với nhau.
1.1.2.2. Các thông tin về mặt kinh tế xã hội
Các thông tin về quan hệ xã hội trong quá trình sử dụng đất bao gồm:
thông tin về chủ sử dụng, nguồn gốc sử dụng đất, phương thức sử dụng đất
(giao, cho thuê, thừa kế, chuyển đổi, chuyển nhượng…), mục đích sử dụng,
quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng, quyền sở hữu các giá trị đầu tư cho
đất,… Các thông tin này được thiết lập trong quá trình đăng ký đất đai bằng
hình thức kê khai đăng ký từ cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) dựa trên bản đồ
địa chính. Các thông tin này được pháp lý hoá trên cơ sở xét duyệt của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thông qua hình thức xét đơn đăng ký quyền sử

dụng đất của từng chủ sử dụng.
1.1.2.3. Các thông tin về mặt pháp lý
Hồ sơ địa chính do ngành chuyên môn quy định, chỉ đạo hướng dẫn và
trực tiếp thực hiện, đồng thời là tư liệu tổng hợp để ngành chuyên môn thay
mặt nhà nước thực hiện các nội dung quản lý đất đai, vì vậy nội dung pháp lý
trên hồ sơ địa chính phải gồm có:
- Căn cứ pháp lý thuộc thẩm quyền của Nhà nước gồm:
+ Quyết định về ranh giới hành chính xã, phường, thị trấn. Việc phân
chia lãnh thổ quản lý hành chính là thuộc thẩm quyền của bộ máy nhà nước.
Ngành chuyên môn phải dựa trên đường ranh giới được phân chia đó, tiến
hành lập hồ sơ địa chính theo phạm vi lãnh thổ từng xã, phường, thị trấn. Do


5
vậy trên hồ sơ địa chính phải thể hiện được căn cứ pháp lý về đường ranh giới
lãnh thổ theo quyết định nào.
+ Các quyết định về giao đất, thu hồi đất, công nhận quyền sử dụng đất
hiện tại, chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thay đổi
thời hạn sử dụng.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước trực tiếp quản lý. Vì vậy các
quyết định liên quan đến việc cấp, thu hồi hay giới hạn quyền sử dụng là
thuộc quyền tối cao của nhà nước. Ngành chuyên môn chỉ có nghĩa vụ thừa
hành các quyết định này và thực hiện các nghiệp vụ quản lý đất đai. Do vậy
hồ sơ địa chính phải thể hiện được từng thửa đất do người nào sử dụng, quyền
hạn sử dụng như thế nào, theo quyết định nào.
- Chữ ký và dấu của cơ quan chuyên môn nhằm pháp lý hoá tiêu chuẩn
kỹ thuật và thể hiện trách nhiệm của cơ quan chuyên môn về các nội dung hồ
sơ được lập.
- Chữ ký và dấu của UBND xã, phường, thị trấn.
- Chữ ký hoặc điểm chỉ của chủ sử dụng đất trên hồ sơ địa chính nhằm

thể hiện sự công nhận các nội dung liên quan đến các thửa đất mà chủ đó
đang sử dụng trên hồ sơ địa chính, nhằm thoả thuận chấp hành pháp luật đất
đai giữa cơ quan chuyên môn, thừa hành pháp luật và người sử dụng đất.
1.1.3. Vai trò của hệ thống hồ sơ địa chính trong công tác quản lý Nhà
nước về đất đai
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất mà loài người có
được, là nền tảng hình thành và nuôi dưỡng cuộc sống con người, có ảnh
hưởng tới nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Nước ta là một nước nông nghiệp với
hơn 80% dân số sống dựa vào canh tác nông nghiệp. Do vậy, đất đai luôn gắn
bó mật thiết với cuộc sống của con người. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay,
khi đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất đai đã trở


6
thành một nguồn vốn có giá trị nhất để phát triển. Chính vì vậy, xây dựng một
hệ thống quản lý đất đai chặt chẽ với những chính sách phù hợp để đất đai
được sử dụng hợp lý, tiết kiệm và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất luôn là
mục tiêu mà Đảng và nhà nước đặt ra cho ngành Địa chính.
Để quản lý tốt tài nguyên đất đai thì việc thu thập các thông tin về đất đai
và các thông tin có liên quan đến đất đai là vô cùng quan trọng. Do vậy, hồ sơ
địa chính ra đời như một sản phẩm tất yếu của công tác quản lý nhà nước về
đất đai. Việc phân tích các lớp thông tin của hệ thống hồ sơ địa chính cho
phép chúng ta xác định các hiện tượng kinh tế xã hội nảy sinh trong quan hệ
đất đai, từ đó làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách, pháp
luật đất đai, điều chỉnh các mối quan hệ về đất đai phù hợp với quá trình phát
triển chung của toàn xã hội. Ngoài ra, việc phân tích các thông tin trong hệ
thống hồ sơ địa chính còn cho phép chúng ta giải quyết các vấn đề: thống kê,
kiểm kê đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giải quyết tranh chấp đất
đai,... cũng như là căn cứ pháp lý để xác định quyền, nghĩa vụ của Nhà nước
và người sử dụng đất.

1.1.4. Phân loại trong hệ thống hồ sơ địa chính
1.1.4.1. Phân loại theo hình thức quản lý
Có ba nhóm hệ thống hồ sơ địa chính thường được sử dụng là hệ thống
địa bạ, hệ thống bằng khoán và hệ thống hỗn hợp.
* Hệ thống địa bạ
Hệ thống địa bạ là hệ thống các loại sổ sách quản lý – đăng ký đất đai,
ghi chép và mô tả thật rõ ràng, từ tổng quát đến chi tiết các thông tin về đặc
điểm tự nhiên, loại hạng đất, chủ sở hữu, đơn vị hành chính, địa danh của
từng thửa đất.
Chứng thư pháp lý của mỗi thửa đất và mỗi chủ sở hữu nằm trong sổ
đăng ký đất đai này. Các địa bạ cũ thời phong kiến thường không có trích lục


7
bản đồ kèm theo hoặc nếu có thì chỉ là phác hoạ sơ đồ được vẽ bằng mắt. Các
địa bạ hiện đại thời tư bản có kèm theo trích lục bản đồ hoặc sơ đồ trích thửa
được đo vẽ bằng nghiệp vụ chính quy.
Hệ thống địa bạ được áp dụng từ rất lâu đời và hiện nay vẫn còn được
áp dụng ở các nước có hệ thống địa chính kém phát triển. Hệ thống hồ sơ
bao gồm:
- Các loại sổ sách địa bạ mô tả thửa đất theo dạng sơ đồ do chính quyền
quản lý.
- Các văn bản pháp lý dựa trên cơ sở các khế ước, văn tự, di chúc… được
pháp luật thừa nhận.
Ưu điểm cơ bản của hệ thống hồ sơ này là hoạt động đất đai trên thị
trường rất thuận tiện. Các thủ tục thừa kế, chuyển nhượng, phân chia, chuyển
đổi… rất dễ dàng, thủ tục nhanh chóng, chỉ cần viết tay, có xác nhận của
chính quyền địa phương là xong,
Nhược điểm căn bản của hệ thống địa bạ là chỉ đảm bảo được quản lý về
hành chính và dân sự còn quản lý vĩ mô trong mối liên quan của tổng quĩ tài

nguyên đất quốc gia với các vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường … thì không
thể được. Mặt khác, đi sâu vào thủ tục quản lý hành chính thì thiếu chặt chẽ,
hệ thống không thống nhất, không đồng bộ và không tin học hoá được.
* Hệ thống bằng khoán
Hệ thống bằng khoán hay còn gọi là hệ thống giấy chứng nhận. Là hệ
thống hồ sơ ra đời sau hệ thống địa bạ, khi các mối quan hệ đất đai đã trở nên
phức tạp hơn và đất đai có giá trị hơn, khi chủ nghĩa tư bản tiến hành công
nghiệp hoá. Hệ thống hồ sơ này gồm có: Bản đồ địa chính chính quy, các sổ
đăng ký đất đai, Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất (ở Việt Nam là giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất).


8
Giấy chứng nhận chính là chứng thư pháp lý do người sở hữu đất (ở Việt
Nam là chủ sử dụng đất) trực tiếp nắm giữ.
Về lý luận cũng như thực tiễn, hệ thống bằng khoán cho phép chính
quyền quản lý đất đai cụ thể hơn, chặt chẽ hơn, thống nhất hơn. Có thể nhận
biết vị trí tương quan của một thửa đất bất kỳ trên phạm vi cả nước.
Mỗi thửa đất có số hiệu riêng, không nhầm lẫn, không trùng lặp, kích
thước rõ ràng, vị trí cụ thể, mẫu và chứng lý thống nhất… đảm bảo quản lý
chặt chẽ ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Mặt khác, hệ thống tạo điều kiện cho hoạt
động của thị trường bất động sản linh hoạt, tin học hoá một cách dễ dàng,
thuận tiện trên phạm vi cả nước.
Tuy nhiên, hệ thống này chỉ áp dụng được kỹ thuật đo đạc đã đạt được
công nghệ cao, không chỉ thể hiện được các quan hệ đất đai ở cấp địa phương
(theo hệ toạ độ tự do) mà còn thể hiện được ở quy mô toàn quốc (theo hệ toạ
độ quốc gia). Nhược điểm của hệ thống này là giá thành cao.
* Hệ thống hỗn hợp
Hệ thống hỗn hợp là hệ thống áp dụng hai hình thức địa bạ và bằng
khoán tuỳ theo kiểu sử dụng đất.

Đối với đất nông - lâm nghiệp do giá trị kinh tế thấp, sinh lời ít nên áp
dụng hệ thống địa bạ, đối với đất đô thị, đất công nghiệp và dịch vụ do giá đất
cao, sinh lời lớn nên áp dụng hệ thống bằng khoán.
1.1.4.2. Phân loại theo hệ thống tổ chức bộ máy quản lý:
Có ba hình thức tổ chức cơ bản:
+ Hệ thống tập trung: là hệ thống được áp dụng ở những nước có hệ
thống quản lý tập quyền cả vĩ mô và vi mô. Duy nhất chỉ có cơ quan trung
ương trực tiếp quản lý quĩ đất trong toàn quốc cũng như quản lý đến từng
thửa đất.


9
Thực tế hình thức này chỉ áp dụng được cho những quốc gia nhỏ, có diện
tích không lớn như Singaphore, Hồng Kông…
+ Hệ thống phân tán tuyệt đối: là hệ thống mà cơ quan trung ương không
trực tiếp quản lý. Toàn bộ hệ thống được giao cho địa phương quản lý tới
vùng và thửa.
Hình thức này áp dụng cho những quốc gia có diện tích quá rộng lớn.
Mỗi cấp địa phương (các bang) gần tương đương với diện tích của một quốc
gia trung bình như ở Liên bang Úc, Hoa Kỳ…
+ Hệ thống phân tán tương đối: là hệ thống mà cơ quan trung ương quản
lý vĩ mô trên tổng quỹ đất quốc gia còn cơ quan địa phương quản lý vi mô và
quản lý hành chính. Những nước có quy mô trung bình và trung bình lớn như
Việt Nam đều thích hợp cho việc áp dụng hệ thống này.
1.2. Cơ sở xây dựng và quản lý hệ thống hồ sơ địa chính
1.2.1. Cơ sở pháp lý
Hồ sơ địa chính là một thành phần quan trọng của hệ thống thông tin đất
đai, được Nhà nước thiết lập và quản lý theo các căn cứ pháp lý cụ thể sau:
- Luật Đất đai ban hành năm 1993
- Luật Đất đai ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2003.

- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính
phủ về thi hành Luật Đất đai.
- Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 1 năm 2002 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài
nguyên và Môi trường.
- Thông tư 348/1998/TT-TCĐC và thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC
ngày 30 tháng 11 năm 2001 của Tổng cục địa chính về việc hướng dẫn đăng
ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


10
- Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 1 tháng 11 năm 2004 và
thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường hướng dẫn việc lập về việc lập, chỉnh lý và quản lý
hồ sơ địa chính.
- Các sổ sách, bằng khoán điền thổ, sổ mục kê, bản đồ do chế độ trước để lại.
1.2.2. Yêu cầu thành lập hệ thống hồ sơ địa chính
1.2.2.1. Yêu cầu đối với việc lập và quản lý hồ sơ địa chính
* Lập hồ sơ địa chính
Nguyên tắc lập hồ sơ địa chính
- Hồ sơ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
- Việc lập và chỉnh lý hồ sơ địa chính thực hiện theo đúng trình tự, thủ
tục hành chính quy định tại chương XI của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai và Thông
tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 1 tháng 11 năm 2004 và thông tư số
09/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.
- Hồ sơ địa chính phải đảm bảo tính thống nhất giữa bản đồ địa chính, sổ
địa chính, sổ mục kê đất đai, sổ theo dõi biến động đất đai; thống nhất giữa
bản gốc và bản sao; thống nhất giữa hồ sơ địa chính với giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất.
Ngoài ra, mẫu sổ sách và các văn bản áp dụng trong việc thực hiện thủ
tục hành chính về quản lý và sử dụng đất đai được thực hiện theo Thông tư số
29/2004/TT-BTNMT.
* Yêu cầu đối với việc lập hồ sơ địa chính
Hồ sơ địa chính dù được thành lập ở giai đoạn nào và bằng phương pháp
nào cũng phải đáp ứng được các yêu cầu sau:


11
- Có đầy đủ các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, pháp lý.
Các thông tin về biến động đất đai phải được cập nhật thường xuyên trên bản
đồ và hồ sơ địa chính để hệ thống hồ sơ địa chính luôn phản ánh đúng hiện
trạng sử dụng đất.
- Các tài liệu hồ sơ địa chính phải được thiết lập đầy đủ, đúng quy cách
theo các nội dung của từng thửa đất và theo mẫu quy định của Bộ Tài nguyên
và Môi trường.
- Thông tin về từng thửa đất, chủ sử dụng phải chính xác, thống nhất
trong toàn bộ tài liệu có liên quan của hệ thống hồ sơ địa chính để khai thác
sử dụng trong quản lý thường xuyên.
- Mỗi nội dung thông tin trên các tài liệu phải được ghi rõ ràng, không
được tự ý tẩy xoá.
Hồ sơ địa chính được thiết lập ngay trong quá trình kê khai đăng ký và
xét duyệt để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hệ thống này được thiết
lập theo mẫu thống nhất trong cả nước. Toàn bộ hệ thống hồ sơ địa chính
được thành lập theo đơn vị hành chính cấp xã, do UBND xã, phường, thị trấn
tổ chức thực hiện dưới sự hướng dẫn chuyên môn của cán bộ Văn phòng đăng
kí quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường và được kiểm
tra, nghiệm thu bởi Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh.
* Quản lý hồ sơ địa chính

Trách nhiệm quản lý hồ sơ địa chính được quy định như sau:
- Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường có trách nhiệm quản lý hồ sơ gốc và các tài liệu có liên quan.
- Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi
trường chịu trách nhiệm quản lý bản sao hồ sơ địa chính và các tài liệu có liên quan.
- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm quản lý bản sao
hồ sơ địa chính, bản trích sao hồ sơ địa chính đã được chỉnh lý, cập nhật và


12
các giấy tờ kèm theo do văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường gửi đến để chỉnh lý, cập nhật bản sao hồ sơ địa chính.
Phân loại, quản lý hồ sơ địa chính
Hồ sơ địa chính và các tài liệu có liên quan đến hồ sơ địa chính được
phân loại để quản lý như sau:
- Bản đồ địa chính.
- Sổ địa chính.
- Sổ mục kê đất đai.
- Sổ theo dõi biến động đất đai.
- Thông báo về nội dung đã chỉnh lý hoặc cấp đổi, cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và các giấy tờ kèm theo. Bản trích sao hồ sơ địa
chính đã được cập nhật, chỉnh lý và các giấy tờ kèm theo.
- Các giấy tờ có liên quan đến việc đăng kí quyền sử dụng đất, bản lưu
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã
thu hồi đối với từng thửa đất.
- Các tài liệu khác.
Các tài liệu này được Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất quản lý, sắp
xếp theo từng đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Trong đó các thông báo
được sắp xếp theo thời gian, các giấy tờ có liên quan được sắp xếp theo mã
của thửa đất.

Ngoài ra còn có quy định về việc tổng hợp, báo cáo tình hình lập hồ sơ
địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, về việc bảo quản và thời
gian bảo quản hồ sơ địa chính.
* Chỉnh lý hồ sơ địa chính
Để hệ thống hồ sơ địa chính luôn phản ánh đúng hiện trạng tình hình sử
dụng đất, cán bộ địa chính phải thường xuyên cập nhật những biến động đất
đai có liên quan đến thông tin trong tài liệu được thiết lập. Tuỳ thuộc vào nội


13
dung và mức độ biến động mà khối lượng công việc chỉnh lý biến động nhiều
hay ít. Có những biến động làm phát sinh thay đổi trên toàn bộ hệ thống, có
những biến động chỉ cần chỉnh lý trên một vài tài liệu. Các tài liệu cần cập
nhật khi có biến động về đất đai bao gồm: cập nhật biến động trên bản đồ địa
chính, trên hồ sơ, sổ sách (sổ địa chính, sổ mục kê, giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, sổ theo dõi biến động đất đai,...)
Trách nhiệm chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính được quy định như sau:
- Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường chịu trách nhiệm chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính gốc.
- Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi
trường và cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm chỉnh lý, cập
nhật bản sao hồ sơ địa chính.
Việc chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính được thực hiện khi có thông báo về
biến động có căn cứ pháp lý rõ ràng. Các quy định cụ thể được hướng dẫn trong
Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT và Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT .
Việc chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính phải được cơ quan Tài nguyên
Môi trường có trách nhiệm kiểm tra theo phân cấp quản lý từ trên xuống dưới.
Công tác kiểm tra phải được thực hiện định kỳ hàng năm.
1.2.2.2. Các phương pháp quản lý hồ sơ địa chính
Hiện nay ở nước ta có hai phương pháp quản lý hồ sơ địa chính là quản

lý theo phương pháp thủ công truyền thống (quản lý hồ sơ địa chính dạng
giấy) và quản lý hồ sơ địa chính dạng số.
* Quản lý hồ sơ địa chính dạng giấy
Trong điều kiện nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế về hạ tầng kỹ thuật
nên phương pháp quản lý hồ sơ địa chính dạng giấy đựơc sử dụng phổ biến.
Phương pháp này được thành lập bằng công nghệ thủ công truyền thống và
hầu như chưa có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại.


14
Phương pháp này phù hợp với trình độ hiện nay của cán bộ địa chính cấp
cơ sở cũng như điều kiện quản lý trên thực tế. Tuy nhiên, việc quản lý hồ sơ
địa chính dạng giấy gặp không ít những khó khăn khi phải tiến hành tra cứu,
thống kê, quản lý biến động... Thực tế cho thấy mỗi khi có nhu cầu cung cấp
thông tin, cán bộ địa chính phải mất một khoảng thời gian nhất định để tìm
kiếm, thống kê. Mặt khác, do ảnh hưởng của yếu tố chủ quan nên chất lượng
thông tin được cung cấp đôi khi còn nhiều sai sót.
* Quản lý hồ sơ địa chính dạng số
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, ngành Địa chính đã nhanh chóng nắm bắt công nghệ mới và
xây dựng một số phần mềm phục vụ công tác quản lý Nhà nước về đất đai
như phần mềm Famis-Caddb, TK-2000, phần mềm in giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất 2004, phần mềm ViLIS,...
Các phần mềm này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu hiện đại hoá hệ
thống hồ sơ địa chính, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về đất
đai. Tuy chưa được đưa vào sử dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc
nhưng hướng quản lý hồ sơ địa chính dạng số vẫn là một hướng nghiên cứu
quan trọng, được Nhà nước quan tâm đầu tư phát triển phục vụ quản lý đất đai
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT cũng đã quy định cụ thể về việc lập,

chỉnh lý và quản lý hồ sơ địa chính dạng số.
1.3. Lịch sử xây dựng và quản lý hệ thống hồ sơ địa chính ở Việt
Nam qua các thời kỳ
1.3.1. Thời kỳ trước năm 1945
Ở Việt Nam công tác đạc điền và quản lý điền đại được hình thành từ thế
kỷ thứ 6. Tuy nhiên theo các tài liệu cũ nhất mà ngày nay còn giữ lại được là
hệ thống địa bạ thời Gia Long.


15
Từ năm 1806, vua Gia Long đã ra lệnh đạc điền toàn quốc và lập địa bạ
cho mỗi xã. Địa bạ được phân biệt cho từng vùng đất, trong đó phân biệt rõ
điền thổ của ai, diện tích bao nhiêu. Địa bạ được lập thành ba bản: Bản giáp
nộp tại Bộ Hộ, bản (binh) nộp tại dinh Bộ Chánh và bản (đinh) lưu tại xã.
Dưới triều Minh Mạng công tác đạc điền được tiếp tục để lập “bộ điền”
sau đổi thành “địa bộ”, mỗi bộ lập 3 bản lưu ở 3 nơi như thời Gia Long và
được gọi là bản. Kết quả đạc điền lập sổ bộ có mô tả từng thửa ruộng về loại
đất, diện tích có sự chứng kiến của quan kinh phái, viên thơ lại cùng ký tên
vào sổ. Sổ chỉ lập 1 lần vào cuối triều Minh Mạng.
Dưới thời Thiệu Trị, hàng năm có tổ chức tiểu tu và 5 năm tổ chức đại tu
1 lần. Các cuộc tu chỉnh địa bộ căn cứ vào đơn thỉnh nguyện của sở hữu chủ
vì lý do cho thừa kế, nhượng bán hoặc tuyệt tự, từ bỏ chủ quyền để quy hoàn
vào nhà nước.
Dưới thời Pháp thuộc, do chính sách phân chia cai trị của thực dân Pháp.
Trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại nhiều chế độ điền địa khác nhau:
+ Chế độ quản thủ địa bộ tại Nam Kỳ
+ Chế độ bảo tồn điền trạch, sau đổi thành quản thủ địa chánh tại Trung Kỳ
+ Chế độ bảo thủ để áp để bảo thủ quyền bất động sản cho người Pháp và
kiều dân kết ước theo luật của Pháp quốc.
+ Chế độ điền thổ theo sắc lệnh 29/3/1939 áp dụng tại Bắc Kỳ

+ Tân chế độ điền thổ theo sắc lệnh ngày 21/7/1925 áp dụng tại Nam Kỳ
và các nhượng địa Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng.
* Chế độ điền thổ tại Nam Kỳ
Ở Nam Kỳ, dưới thời Pháp thuộc hình thành và tồn tại 2 chế độ điền thổ
gồm: Chế độ địa bộ và chế độ điền thổ theo sắc lệnh 1925.
Để thực hiện các chế độ điền địa người Pháp đã xây dựng hệ thống tam
giác đạc từ năm 1871 để làm cơ sở đo vẽ bản đồ bao đặc và bản đồ giải thửa.


16
Hệ thống sổ bộ (theo chế độ địa bộ ) được người Pháp thiết lập từ nhưng
năm cuối thế kỷ 19. Ban đầu nó được lập trên cơ sở kế thừa, tu chỉnh hệ thống
địa bộ thời Minh Mạng thứ 17 (năm 1836). Từ 1911 công tác này bắt đầu
được củng cố và hoàn thiện: Hệ thống sổ địa bộ có đầy đủ bản đồ giải thửa
kèm theo: nội dung sổ địa bộ phải ghi nhận đầy đủ các văn kiện về chuyển
quyền, lập quyền, huỷ quyền và án toà. Chế độ địa bộ này đã đáp ứng được
nhu cầu quản lý đất đai trong thời kỳ đó tuy nhiên do việc phân cấp chức năng
đo đạc lập bản đồ giải thửa và lập sổ địa chính ra 2 cơ quan khác nhau thiếu
sự phối hợp với nhau là Sở địa chính và phòng địa bộ. Vì vậy việc hiện cải
các tài liệu khó đảm bảo tính thống nhất.
Khắc phục nhược điểm trên, ngày 21/7/1925 Chính phủ Pháp đã có sắc
lệnh thiết lập chế độ bảo thủ điền thổ nhằm thống nhất 2 chế độ địa bộ và đế
đương thành một văn kiện duy nhất công bố bất động sản.
* Chế độ quản thủ địa chánh tại Trung Kỳ
Việc thiết lập chế độ quản thủ địa chánh ở Trung Kỳ bắt đầu từ năm
1930 theo Nghị định số 1358 của toà Khâm sứ Trung Kỳ và đến năm 1939
đổi thành quản thủ địa chánh theo Nghị định số 3138 ngày 14/10/1939.
Tài liệu được lập theo chế độ này gồm có: Bản đồ giải thửa, địa bộ, điền
chủ hộ và tài chủ bộ. Sổ địa bộ được lập theo một thủ tục đầy đủ, chặt chẽ sau
khi phân ranh giới xã, cắm mốc và phân ranh giới thửa, đo đạc lập bản đồ giải

thửa tỷ lệ 1/2000, tổ chức nhận ruộng và lập biên bản cắm mốc, biên bản cắm
mốc sẽ dùng làm căn cứ để lập địa bộ và danh sách các trái quyền; kết quả
cuối cùng cũng sẽ được viên Công sứ duyệt và công khai hồ sơ trong 2 tháng
tại huyện đường, sau 2 tháng công khai từ sổ địa bộ gốc sẽ lập thành sổ địa bộ
chính thức. Bộ chính thức kèm theo bản đồ sẽ được lưu tại phòng quản thủ
địa chánh để thực hiện việc quản thủ.


17
* Chế độ quản thủ địa chính tại Bắc Kỳ
Công tác đạc điền tại Bắc Kỳ được bắt đầu từ năm 1889 cũng như Nam
Kỳ, giai đoạn đầu từ năm 1889 đến năm 1920 công tác đạc điền tập trung chủ
yếu đo lập bản đồ bao đạc các vùng đất phải chịu thuế thuộc các tỉnh đồng
bằng và một số nơi thuộc trung du miền núi. Từ năm 1921 Chính phủ Bắc Kỳ
bắt đầu cho triển khai, tuy nhiên do đặc thù đất đai miền Bắc rất manh mún,
thủ tục phân ranh cắm mốc rất phức tạp, nên tiến độ đo đạc chậm. Vì vậy
song song với việc đo đạc chính quy đã triển khai phương pháp lập lược đồ
đơn giản để sử dụng đạc viên tại các làng xã sau khi huấn luyện cho họ.
Lượng đồ giải thửa được lập ở tỷ lệ 1/1000 để phục vụ kịp thời việc lập sổ
sách địa chính.
Chế độ quản thủ địa chính ở Bắc kỳ đã hình thành một hệ thống tài liệu được
quy định khá đầy đủ và chặt chẽ để phù hợp với tình hình đất đai ở miền Bắc.
Song song với chế độ quản thủ địa chính, ở Bắc Kỳ còn tồn tại một hình
thức bảo thủ điền thổ theo sắc lệnh ngày 21/7/1925 giống như ở Nam Kỳ. Chế
độ này chủ yếu được áp dụng ở một số thành phố như Hà Nội và Hải Phòng.
1.3.2. Thời kỳ sau năm 1945
1.3.2.1. Hồ sơ đất đai tại các tỉnh phía Nam dưới thời Mỹ, Ngụy kiểm soát
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) Miền Nam Việt Nam tạm thời đặt
dưới quyền cai trị của chính quyền Sài Gòn Mỹ.
Thời gian đầu từ 1954 đến 1962 vẫn tồn tại 3 chế độ điền địa như thời

Pháp thuộc, tuy nhiên đến năm 1962, chính quyền Việt Nam cộng hoà đã ra
sắc lệnh số 124 - CTNT về công tác kiến điền và quản thủ điền địa tại những
nơi chưa thực hiện theo sắc lệnh (1925). Như vậy kể từ năm 1962 miền Nam
còn tồn tại 2 chế độ: Chế độ quản thủ điền địa và Tân chế độ điền thổ theo sắc
lệnh (1925).


18
* Về Tân chế độ điền thổ (theo sắc lệnh 1925)
Thực hiện chế độ này hệ thống hồ sơ gồm có:
+ Bản đồ đo đạc chính xác từng thửa ruộng đất.
+ Sổ điền thổ lập theo đơn vị bất động sản; 1 đơn vị bất động sản là 1 lô
đất của chủ sử dụng được lập 1 trang; nội dung sổ tương tự như dưới thời
Pháp thuộc thực hiện theo sắc lệnh này.
+ Sổ Mục lục lập theo từng chủ sở hữu có thể hiện các thửa đất mỗi chủ.
+ Hệ thống thứ tự tên chủ được sắp xếp vần A, B, C để tra cứu.
+ Hệ thống hồ sơ trên lập thành 2 bộ lưu tại ty điền địa và xã sở tại.
Người chủ sở hữu được cấp bằng khoán điền thổ gồm có 1 tờ gấp thành 8
trang mang toàn bộ nội dung của trang bằng khoán. Mỗi lô đất cấp 1 tờ, một
chủ có thể có nhiều lô ở vị trí khác nhau được cấp nhiều tờ.
* Về chế độ địa bộ
Việc thực hiện chế độ địa bộ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn và yêu cầu
cấp bách về quản lý đất đai. Nội dung các bước thực hiện tương tự vớiquy
trình thực hiện chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ ở
cả nước ta giai đoạn từ năm 1981 đến 1987.
Kết thúc công tác này phải lập được các tài liệu sau:
+ Bản đồ chỉnh lý hoặc lưới giải thửa
+ Sổ điền địa phải theo thứ tự thửa, mỗi chủ 1 trang, nội dung liệt kê tất
cả các thửa của mỗi chủ.
+ Phiếu cá nhân, nội dung như 1 trang sổ điền chủ để tra cứu sổ điền chủ

+ Sổ mục lục chỉ ghi tên chủ: Sắp xếp theo vần A, B, C để tra cứu sổ
điền chủ.
Hệ thống tài liệu thiết lập theo chế độ địa bộ sau hơn 10 năm áp dụng
được đánh giá là có tính ưu việt về kinh tế và thời gian. Tuy nhiên nó cũng
còn tồn tại nhiều hạn chế .


19
1.3.2.2 Hồ sơ đất đai dưới chế độ dân chủ cộng hoà và chế độ xã hội chủ nghĩa
* Giai đoạn trước năm 1980
Sau khi Cách mạng tháng tám thành công, chính quyền cách mạng đã
tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo và đặc biệt là sau cải cách
ruộng đất, mọi gia đình nông dân đều được quyền sở hữu ruộng đất để canh
tác. Tuy nhiên, sau phong trào hợp tác hoá giai đoạn từ 1957 – 1960, đại đa số
nông dân với nhiệt huyết cách mạng đã hưởng ứng phòng trào hợp tác hoá đã
đóng góp ruộng, vườn, ao vào hợp tác xã. Vì vậy, sau năm 1960, 90% diện
tích đất canh tác đã chuyển sang hình thức sở hữu tập thể.
Ngành quản lý đất đai (từ Trung ương đến địa phương) được duy trì ngay
sau khi cách mạng tháng Tám thành công để bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất
và thu thuế điền thổ. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kháng chiến nên chức năng
hoạt động chính của ngành phải tạm ngừng đề tập trung cán bộ cho việc thu
thuế nông nghiệp (theo sắc lệnh số 40.SL ngày 13/7/1951).
Sau cải cách ruộng đất, do tình hình ruộng đất không ổn định, theo chỉ
thị 334/TTg ngày 03/7/1958 ngành địa chính được tái lập từ Trung ương đến
cấp xã để giúp Nhà nước nắm chắc diện tích đất đai phục vụ việc kế hoạch
hoá và hợp tác hoá nông nghiệp. Đến năm 1960 ngành được đổi tên thành
Quản lý đất đai theo Nghị định 70/CP của Chính phủ.
Chức năng nhiệm vụ của ngành suốt thời kỳ 1960 - 1979 chủ yếu là góp
phần phát triển sản xuất nông nghiệp ở nông thôn theo hướng XHCN lấy
kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh làm nên tảng. Trong giai đoạn này,

ngành đã có nhiều cố gắng trong việc điều tra đo đạc lập bản đồ giải thửa,
bản đồ thổ nhưỡng nông hoá, thống kê đất đai và hướng dẫn việc sử dụng
đất. Tuy nhiên, do tổ chức không ổn định, từ 1960 - 1979 ngành tách ra nhập
vào 4 lần nên trong giai đoạn này ngành vẫn chưa đi vào hoạt động theo
đúng chức năng chính.


20
Hệ thống tài liệu đất đai thiết lập trong giai đoạn này chủ yếu là bản đồ
giải thửa, sổ mục kê, thống kê đất đai. Nội dung sổ sách bản đồ chủ yếu nhằm
phán ánh quỹ đất theo từng loại đất. Người chủ sử dụng đất đai tuy có thể
hiện nhưng không phân tích và đề cập đến cơ sở pháp lý nên còn mang tính
phán ánh hiện trạng.
* Giai đoạn từ năm 1980 đến nay
Trước năm 1980, do việc buông lỏng quản lý nên các hiện tượng lấn
chiếm đất công, bỏ ruộng đất hoang hoá, sử dụng đất không đúng mục đích và
cấp đất một cách bừa bãi không đúng thẩm quyền đã xảy ra một cách nghiêm
trọng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 404/CP ngày 9/11/1979 thành lập hệ
thống Ngành quản lý ruộng đất trực thuộc Hội Đồng Bộ Trưởng và UBND
các cấp và ngày 1/7/1980 Chính phủ ra quyết định 201 CP về việc thống nhất
quản lý đất đai và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước.
Thực hiện chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ,
Tổng cục quản lý ruộng đất đã có quyết định số 55/ĐKTK ngày 05/11/1981
ban hành quy định về thủ tục đăng ký thống kê lập được một hệ thống.
Tính đến cuối năm 1988, cả nước có khoảng 6000 xã đã lập được hệ
thống hồ sơ theo quyết định 56-ĐK, tuy nhiên do yêu cầu tiến độ nên kết quả
đạt được ở các xã đã làm còn rất nhiều hạn chế. Công tác đăng ký ở các tỉnh
miền Nam đạt tỷ lệ thấp từ 65% - 85% tổng số chủ sử dụng. Công tác cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn chưa được triển khai.
Do tình hình tổ chức ngành Quản lý đất đai ở các cấp, huyện, xã luôn

luôn không ổn định, chất lượng và số lượng cán bộ của ngành bị giảm hẳn
không đủ điều kiện để thực hiện việc hoàn thiện nâng cao chất lượng và chỉnh
lý biến động hồ sơ đã lập.
Nghiên cứu một số phương thức quản lý đất đai qua các thời kỳ Pháp
thuộc và chế độ Nguỵ quyền tại miền Nam Việt Nam, chúng ta có thể thấy hệ


21
thống tài liệu về đất đai ở bất kỳ chế độ nào cũng đều không tách rời với mục
tiêu quản lý đất đai. Mọi hệ thống đều đi vào thể hiện từng thửa đất của mỗi
chủ sở hữu kèm theo các nội dung cần thiết phục vụ cho mục đích đánh thuế
và bảo vệ quyền sở hữu đất đai.
1.4. Tình hình xây dựng và quản lý hệ thống hồ sơ địa chính ở Việt
Nam và một số nước trên thế giới
1.4.1. Tình hình xây dựng và quản lý hồ sơ địa chính của một số nước
trên thế giới và khu vực
1.4.1.1. Hệ thống hồ sơ địa chính của Pháp
Pháp có diện tích 550.000 km2, dân số là 62 triệu người. Hệ thống địa
chính ở Pháp được hình thành từ thời Napoleon và được gọi là địa chính thời
Napoleon. Hệ thống địa chính này bao gồm toàn bộ các hoạt động địa chính
đô thị và nông thôn, bao gồm cả đất xây dựng và đất chưa xây dựng. Các thửa
đất của hệ thống địa chính này được mô tả cụ thể như một thực thể gắn với
một chủ sở hữu và một khu vực thu thuế địa chính áp dụng thống nhất trên
toàn nước Pháp, trừ một vài vùng có sắc thái riêng.
Luật cải cách công khai địa chính 01/1956 với yêu cầu bắt buộc phải
chứng minh quyền sở hữu các bất động sản của cơ quan quản lý tài sản thế
chấp, có ghi chép lai lịch các thửa đất. Đạo luật năm 1974 cho phép đổi mới
công tác địa chính với yêu cầu chỉnh bản đồ thửa đất cũ cho phù hợp với
thực tiễn.
Địa chính Pháp ngày nay phản ánh trung thực lai lịch hộ tịch của chủ sở

hữu bất động sản đã xây và chưa xây trên các lô đất đai nhằm đảm bảo quyền
sở hữu quyền chuyển nhượng bất động sản trên cơ sở một thị trường đất đai.
Phục vụ các nhiệm vụ quy hoạch, quản lý sử dụng đất đai có hiệu quả cộng
đồng, đảm bảo thuận tiện cho tín dụng bằng hệ thống thế chấp và tạo cơ sở
xây dựng một hệ thống thuế đất và bất động sản công bằng, đảm bảo sự quản
lý Nhà nước về đất đai.


22
Hệ thống địa chính của Pháp gồm có:
+ Một bộ bình đồ giải thửa đo vẽ cho từng xã
+ Một bản mô tả trạng thái chú giải cho bình đồ nói trên
+ Một sổ địa bạ gốc, thống kê tổng hợp đối với từng chủ sở hữu dưới
dạng một bản kê những tài sản của họ và mức đánh giá những tài sản ấy, bản
kê khai các quyền và thực trạng của chủ sở hữu.
+ Các chứng thư bất động sản, theo truyền thống đều được phải đăng ký.
Việc đăng ký được hiểu như một thủ tục thực hiện bởi một công chức theo
những thể thức khác nhau, nhưng đều mang một tính chất chung là dựa trên
cơ sở phân tích các sự kiện pháp lý mà theo đó thực hiện được việc thu thuế.
Thủ tục đăng ký có thể thực hiện hoặc qua việc thu thuế hoặc trong việc quản
lý thế chấp và khi đó nó mang tên là thủ tục công bố địa ốc.
Với mục tiêu cố gắng đảm bảo tính chính xác và củng cố thêm tình trạng
pháp lý của các bất động sản và di sản bất động sản của các cá nhân, việc
công bố đất đai thực sự rất cần thiết cho sự an toàn cả đối với những giao dịch
về tài sản cũng như đối với tín dụng được chính những tài sản đố đảm bảo.
Toàn bộ những giấy tờ, văn bản được hình thành trong quá trình thực
hiện các thủ tục công bố đất đai hợp thành tư liệu thế chấp. Các tư liệu thế
chấp này được giữ ở các Văn phòng thế chấp và được giới thiệu dưới dạng
những sổ đăng ký thủ tục và sổ đăng ký công cụ tìm kiếm giúp cho việc tiếp
cận tư liệu đó. Kể từ tháng 1 năm 1956, các tư liệu thế chấp trên được lưu giữ

dưới dạng một hộp phiếu đặc biệt gọi là hộp phiếu bất động sản.
Sự phù hợp giữa hộp phiếu bất động sản và địa chính được đảm bảo nhờ
có quy định nghiêm ngặt liên quan đến việc công bố địa ốc, đặc biệt liên quan
đến chính hộp phiếu bất động sản và nhờ những tài liệu dùng để liên hệ giữa
các sở địa chính với những bộ phận bào quản thế chấp. Ở các xã có địa bạ đổi
mới, hộp phiếu bất động sản gồm ba loại phiếu:


×