1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính thức thực hiện đổi mới nền kinh tế từ năm 1986, đa dạng hóa và đa
phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại đã góp phần tạo ra nhiều bước chuyển
biến tích cực đối với kinh tế xã hội của nước ta, bước đầu xây dựng nền kinh tế
công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Những thay đổi tích cực
đó đối với Việt Nam có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Sự hình thành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đánh dấu bước nhẩy quan
trọng của đất nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt việc ra đời luật
đầu tư năm 2005 là cơ sở quan trọng đưa đến thời cơ lớn cho nước ta cũng như các
địa phương thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo đà cho sự phát triển
kinh tế của đất nước trong thời gian tới.
Là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của Bắc Bộ, bộ mặt kinh tế
xã hội Bắc Ninh đang đổi thay từng ngày. Được tái lập từ 01/01/1997, Bắc Ninh đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm đạt 13,5% trong đó công nghiệp luôn là ngành dẫn đầu với tốc
độ tăng trưởng cao nhất trong những năm gần đây. Kết quả này có được từ cơ chế
chính sách đúng đắn của địa phương trong việc huy động các nguồn lực cho phát
triển kinh tế, trong đó đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với tốc độ tăng
trưởng cao đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh.
Với mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước cải thiện đời
sống nhân dân, đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015, bên
cạnh phát huy năng lực nội sinh thì vấn đề mở rộng hợp tác kêu gọi đầu tư, khai thác
các nguồn lực cho sự phát triển đặt ra đối với Bắc Ninh là hết sức quan trọng. Đứng
trước thời cơ trước mắt, tuy đã có nhiều thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên địa bàn tỉnh, nhưng vẫn còn không ít hạn chế cần khắc phục trong
thời gian tới nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu đề ra và tương xứng với tiềm năng
phát triển của tỉnh.
2
Xuất phát từ thực tế đó, đề tài “Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh” được lựa chọn. Việc
thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài cho phát triển công nghiệp tỉnh Bắc
Ninh không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp,
mà thông qua đó còn góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật - công nghệ, tiếp thu kinh
nghiệm quản lý tiên tiến, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người
lao động, đồng thời đây cũng là chìa khoá cho sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về FDI và thu hút FDI.
- Phân tích thực trạng và các nhân tố tác động đến thu hút FDI vào công
nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu để tăng cường thu hút FDI theo hướng tăng
về lượng nhưng vẫn đảm bảo mặt chất của FDI nhằm phục vụ cho sự phát
triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu : Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
công nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu : Hoạt động thu hút FDI trong ngành công nghiệp tỉnh
Bắc Ninh từ khi tái lập tỉnh (1997) đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bầy dựa trên cơ sở nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn. Ngoài ra, còn sử dụng kết
hợp với các phương pháp: phân tích tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá, để luận giải
các nội dung của luận văn.
3
5. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá và góp phần làm rõ một số vấn đề lý thuyết về FDI và thu hút
FDI.
- Mô tả bức tranh toàn cảnh về môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài của
tỉnh Bắc Ninh. Phân tích và đánh giá những thành công và bất cập còn tồn
tại trong hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp tỉnh
Bắc Ninh.
- Đề xuất các giải pháp tích cực tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào phát triển công nghiệp Bắc Ninh.
6. Kết cấu của luận văn
Nội dung của luận văn ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm ba chương:
Chương I : Lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương II : Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển
công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
Chương III: Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
phát triển công nghiệp tỉnh Bắc Ninh
4
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong số những hình thức di chuyển vốn
giữa các quốc gia, trong đó người sở hữu vốn là người trực tiếp quản lý và điều hành
hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ trong giao lưu và hợp
tác quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng diễn ra sôi động trong
khu vực và trên thế giới, đóng góp vai trò quan trọng vào tăng trưởng của mỗi quốc
gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển.
Đã có nhiều quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, một trong những định
nghĩa được nhiều người biết đến theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đầu tư trực tiếp
nước ngoài được hiểu là số vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài
trong một doanh nghiệp đang hoạt động trong một nền kinh tế khác với nền kinh tế
của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư còn mong muốn có được chỗ
đứng trong quản lý doanh nghiệp và mở rộng thị trường. Lợi ích lâu dài ở đây ngụ ý
sự tồn tại của mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp với doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tác động đáng kể của nhà đầu tư đối với việc
quản lý doanh nghiệp đó. Định nghĩa này đã nhấn mạnh động cơ đầu tư và phân
biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài với đầu tư gián tiếp. So với đầu tư trực tiếp, đầu tư
gián tiếp nhằm thu được lợi nhuận từ việc mua bán các tài sản, tài chính ở nước
ngoài, nhưng nhà đầu tư không quan tâm đến quá trình quản lý đầu tư ở doanh
nghiệp. Trong khi đó với FDI, các nhà đầu tư vẫn giành quyền kiểm soát các quá
trình quản lý, đây là điểm khác biệt cơ bản giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu
tư gián tiếp của nước ngoài.
Một định nghĩa khác, theo Ngân hàng thế giới (WB) đầu tư trực tiếp nước ngoài
được hiểu là việc công dân của một nước thành lập hoặc mua lại một phần đáng kể sở
hữu và quản lý ít nhất là 10% vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ở một nước khác.
5
Theo Luật đầu tư Việt Nam năm 2005, đầu tư là việc các nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản nhằm tiến hành
các hoạt động đầu tư theo quy định của luật đầu tư và quy định khác của luật có liên
quan. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
hoạt động quản lý đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhìn nhận theo quan điểm vĩ mô được hiểu là
hình thức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đưa vốn và kỹ thuật vào nước
nhận đầu tư; tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở thuê mướn và khai thác các yếu
tố cơ bản ở nước sở tại. Theo quan điểm vi mô, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự
góp vốn với tỷ lệ đủ lớn của chủ đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia vào quản lý
và điều hành đối tượng bỏ vốn.
Từ những cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể
hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ
vốn đầu tư bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để hình thành tài sản nhằm tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật pháp nước sở tại.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh
tế có nhân tố nước ngoài (chủ đầu tư, vốn đầu tư và địa điểm đầu tư từ các quốc gia
khác nhau). Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc
tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong đầu tư trực tiếp
vượt ra khỏi biên giới một quốc gia.
1.1.2. Đặc điểm chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra có tính chất khách quan và chịu sự tác
động của quy luật cung cầu về vốn giữa các quốc gia, chính sách thu hút đầu tư của
các nước, quá trình tự do hóa đầu tư theo các nguyên tắc quốc tế. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài mang những đặc điểm chính sau.
Thứ nhất các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự án mà
họ đã bỏ vốn đầu tư. Về quyền quản lý doanh nghiệp sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn
của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. Nếu doanh nghiệp là 100% vốn nước
6
ngoài thì doanh nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài và
họ là người nắm giữ quản lý toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Đây là một đặc
điểm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhà đầu tư vừa là người chủ sở
hữu, vừa là người sử dụng vốn đầu tư cho nên tính tự chủ của nhà đầu tư cao và tính
khả thi của dự án lớn. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ là cầu nối
cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận với thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, đây
là hoạt động đầu tư của tư nhân nên không gây gánh nặng nợ nước ngoài đối với
quốc gia.
Thứ hai trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỷ lệ vốn pháp định của dự án đạt
mức độ tối thiểu tùy thuộc theo luật đầu tư của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, luật
đầu tư 2005 có quy định tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối
với một số lĩnh vực, ngành, nghề do Chính phủ quy định.
Thứ ba kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được phân chia cho các bên theo tỷ lệ tùy thuộc vào tỷ lệ
góp vốn trong vốn pháp định của doanh nghiệp sau khi đã hoàn thành đầy đủ nghĩa
vụ về thuế đối với nước sở tại.
Thứ tư đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực hiện thông qua việc
thành lập doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt
động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp với nhau.
Thứ năm đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn
mà còn gắn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản
lý, tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty
đa quốc gia.
1.1.3. Phân loại các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã hình hành từ mấy thập kỷ qua và ngày càng
giữ vai trò quan trọng trọng trong đời sống kinh tế thế giới. FDI đóng góp lớn vào
sự tăng trưởng kinh tế của các nước nhận đầu tư, đi kèm với nó là sự chuyển giao
công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng quản lý hiện đại.
7
Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã xây dựng nhiều cơ chế
chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã cấp giấy phép cho nhiều loại
hình đầu tư. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta bao gồm những
hình thức sau:
1.1.3.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký kết giữa hai bên để cùng
nhau tiến hành một hay nhiều hoạt động tại nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên, mà không thành lập một
xí nghiệp mới hay bất cứ một pháp nhân mới nào.
Đặc điểm của hợp đồng hợp tác kinh doanh:
-
Các bên tham gia cùng nhau hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân định
trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng.
-
Không thành lập pháp nhân mới tại nước nhận đầu tư.
-
Vấn đề vốn kinh doanh có thể đề cập hoặc không cần đề cập tới trong
hợp đồng.
1.1.3.2. Công ty liên doanh
Công ty liên doanh là hình thức công ty được thành lập với sự tham gia của một
bên là một hay nhiều pháp nhân của nước sở tại và bên kia là một hay nhiều thành viên
nước ngoài. Vốn hoạt động của công ty là do các bên đóng góp.
Đặc điểm của công ty liên doanh:
-
Là một dạng công ty trách nhiệm hữu hạn.
-
Là một công ty mới có tư cách pháp nhân tại nước sở tại.
-
Đơn vị tự chủ về tài chính vì vốn pháp định do mỗi bên trong liên doanh
góp tùy theo đặc điểm kinh tế xã hội của nước chủ nhà mà Chính Phủ có
hay không quy định mức đóng góp tối thiểu của doanh nghiệp.
-
Số thành viên tham gia hội đồng quản trị của mỗi bên tương ứng với tỷ lệ
góp vốn của mỗi bên.
-
Chủ tịch hội đồng quản trị có thể được bầu theo hình thức luân phiên nhau.
-
Lợi nhuận và rủi ro được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
8
Hình thức đầu tư này được các chủ đầu tư nước ngoài lựa chọn khá nhiều khi
mới thâm nhập thị trường để có thể chiếm lĩnh thị trường một cách nhanh nhất, với
chi phí xây dựng xí nghiệp thấp nhất và đơn giản nhất. Sau khi qua một thời gian
hoạt động chủ đầu tư có thể chuyển đổi sang hình thức đầu tư khác.
1.1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Đây là loại hình đầu tư ít được sử dụng hơn so với hình thức công ty liên
doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế, ban đầu hình thức doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài được sử dụng chỉ nhằm mục đích thăm dò khả năng của thị trường nước
sở tại, tìm kiếm cơ hội đầu tư nhưng sau đó nó đã dần trở thành một hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài quan trọng trong chiến lược đầu tư ra nước ngoài của các
công ty.
Đặc điểm chủ yếu của hình thức đầu tư này là:
-
Chủ đầu tư bỏ ra 100% vốn đủ để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh
tại nước nhận đầu tư bao gồm cả phần đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ban
đầu trong suốt thời gian đầu tư.
-
Chủ đầu tư thuê đất của nước sở tại.
-
Chủ đầu tư thuê và trả lương cho công nhân, các chuyên gia là công dân
nước ngoài và nước sở tại.
Đối với địa phương tiếp nhận đầu tư, hình thức đầu tư này có ưu điểm: nhà
nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế, mặc dù doanh nghiệp bị lỗ; giải quyết
được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu hút vốn và công
nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu; tiếp cận được thị
trường nước ngoài.
Nhược điểm chính của hình thức đầu tư này là khó tiếp thu kinh nghiệm
quản lý và công nghệ nước ngoài để nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật ở các doanh nghiệp trong nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài, hình thức đầu tư 100% vốn có ưu điểm chủ
động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, thực hiện được chiến lược toàn cầu của
tập đoàn; triến khai nhanh dự án đầu tư; được quyền chủ động tuyển chọn và đào
9
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của tập đoàn.
Nhược điểm của hình thức đầu tư này là: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro
trong đầu tư; phải chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; Không
xâm nhập được vào những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận, thị trường trong nước lớn;
khó quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước.
1.1.3.4. Hình thức đầu tư Hợp đồng – xây dựng – Chuyển giao (BOT)
Với hình thức đầu tư BOT, ban đầu đây được coi là hình thức đầu tư bằng
nguồn vốn tư nhân nước ngoài theo một hợp đồng sang nhượng với sự tham gia
đóng góp của Nhà nước nước sở tại. Sau này khi nhận thấy tác dụng lớn của loại
hình đầu tư này, nhiều chính phủ đã kêu gọi các ngành trong nước tăng cường đầu
tư theo hình thức BOT, nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước để xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế.
Hợp đồng BOT là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ
quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ
tầng bao gồm cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình và kinh doanh trong
một thời gian nhất định để thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển giao
không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Quyền sở hữu, quản lý và làm chủ độc quyền của chủ đầu tư đối với tài sản
của các công trình BOT là có thời hạn. Chủ đầu tư sẽ chuyển giao tài sản cho nước
sở tại khi chấm dứt hợp đồng. Hình thức đầu tư này có những đặc điểm sau:
Đối với nhà đầu tư:
Nắm quyền sở hữ, quản lý và làm chủ độc quyền tài sản của công trình kinh
doanh và chịu rủi ro về thiết kế, xây dựng dự án khi điều hành hoạt động doanh
nghiệp.
Chịu mọi rủi ro phát sinh do thời gian có thể bị chậm trễ và chi phí ngoài dự
toán, nhưng đổi lại là việc đẩy mạnh hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng vốn của
họ. Để tạo cơ hội cho quá trình đầu tư, nhà đầu tư thường có cam kết đảm bảo duy
trì chất lượng công trình, đảm bảo còn giá trị tốt như ban đầu đối với tài sản sẽ
chuyển giao cho nhà nước khi hết hạn hợp đồng.
10
Đối với nước nhận đầu tư
Nhà nước hay Chính phủ nước sở tại chịu mọi rủi ro khác ngoài khả năng
kiểm soát của nhà đầu tư và cam kết:
- Bảo đảm đề phòng rủi ro về mặt chính trị.
- Không trưng dụng tài sản của nhà đầu tư trong thời gian hợp đồng vẫn còn
hiệu lực.
- Đảm bảo không có những thay đổi bất lợi về mặt pháp lý hay những quy
định có liên quan.
- Đảm bảo khả năng chuyển đổi ngoại tệ cho nhà đầu tư.
Đổi lại chính quyền nước sở tại có quyền:
- Góp vốn bằng nguồn tài nguyên (đất đai ).
- Khi hết hợp đồng có quyền lấy lại quyền sở hữu và hoạt động kinh doanh
của công trình BOT.
Bên cạnh đó, còn một số hình thức khác của BOT
Hợp đồng xây dựng chuyển giao(BT): là loại hình đầu tư nhà đầu tư tài trợ về
tài chính và xây dựng công trình. Sau khi hoàn thành Chính phủ nước sở tại trả cho
nhà thầu những chi phí liên quan đến công trình và một tỷ lệ thu nhận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng- chuyển giao – kinh doanh(BTO): Nhà thầu xây dựng
công trình, chuyển giao cho nước chủ nhà và thay mặt nước chủ nhà quản lý khai
thác công trình (nếu có yêu cầu).
Hợp đồng cho thuê- nâng cấp- kinh doanh công trình(LOD): là hình thức
đầu tư Nhà nước của nước sở tại cho thuê công trình. Nhà đầu tư tự nâng cấp và
khai thác, kinh doanh công trình trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao
cho nước sở tại.
Hợp đồng xây dựng- cho thuê- chuyển giao (BLT): là hình thức đầu tư chủ
đầu tư xây dựng và cho thuê công trình trong một thời hạn nhất định sau đó chuyển
giao cho nước chủ nhà.
Hình thức đầu tư xây dựng- sở hữu- kinh doanh (BOO): Chủ đầu tư xây
dựng công trình, làm chủ trực tiếp công trình đó và được quyền khai thác công trình
11
trong suốt thời gian đầu tư.
1.1.3.5. Hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC)
Đây là loại hợp đồng trong đó quy định nhà đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn
để tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên trên nước sở tại. Nếu tìm và khai thác
được tài nguyên trên nước sở tại, thỏa thuận phân chia tài sản theo nguyên tắc:
-
Nước chủ nhà sẽ nhận được 50%-70% tiền bán sản phẩm đối với mỏ có
trữ lượng lớn.
-
Nước chủ nhà được hưởng từ 30%-40% tiền bán sản phẩm đối với mỏ có
sản lượng nhỏ.
-
Nếu không tìm thấy sản phẩm hoặc có tìm thấy nhưng không đủ sản
lượng công nghiệp để khai thác, nhà thầu phải chịu 100% rủi ro.
Ưu điểm của hình thức PSC
Đối với nhà đầu tư nước ngoài: có khoản thu nhập từ phía đối tác mang lại
nếu khai thác tài nguyên của đối tác một cách có hiệu quả. Mở rộng tầm ảnh hưởng,
nâng cao uy tín trên thương trường quốc tế thông qua kết quả của hợp đồng phân
chia sản phẩm.
Đối với nước nhận đầu tư: thường là những nước chậm phát triển hoặc
không đủ khả năng khai thác tài nguyên nên không đủ kinh nghiệm cũng như hội tụ
đủ các điều kiện cần thiết để khai thác nguồn tài nguyên. Qua loại hợp đồng này,
nước sở tại có thể khai thác được nguồn tài nguyên đó và tận dụng nguồn tài
nguyên một cách có hiệu quả.
Nhược điểm
Đối với nhà đầu tư nước ngoài: Khả năng rủi ro cao, vì vậy khi ký kết hợp
đồng này nhà đầu tư thường xem xét kỹ vùng khai thác tài nguyên bằng những kinh
nghiệm và phương tiện kỹ thuật tiên tiến nhất.
Đối với nước sở tại: Nếu chưa đủ kinh nghiệm và trình độ trong quản lý cũng
như tổ chức khai thác có thể đẫn đến tình trạng tài nguyên quốc gia bị phía nước
ngoài chiếm đoạt với khối lượng lớn.
12
1.1.3.6. Thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc
thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Bên cho thuê cam kết mua máy móc
thiết bị và động sản theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản
cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và không được hủy bỏ hợp đồng trước thời
hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc
tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã được thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
Có hai hình thức thuê tài chính là thuê vận hành và thuê mua.
Thuê vận hành hay thuê thiết bị: là loại hình đầu tư mà nhà đầu tư không cần
phải bỏ vốn đầu tư ban đầu cho việc mua sắm thiết bị, mà đi thuê thiết bị. Đây là
cách thức đầu tư đang diễn ra phổ biến ở những nước chậm và đang phát triển.
Đây là loại hình đầu tư trong đó nhà đầu tư cho doanh nghiệp nước sở tại
thuê thiết bị hiện đại. Tiền thuê được tính theo sản lượng sản phẩm được sản xuất ra
từ những thiết bị đó. Phía nước ngoài sẽ hỗ trợ kỹ thuật và một số công đoạn sản
xuất, cùng lo tiêu thụ sản phẩm tại thị trường nước ngoài. Phía nước sở tại lo quản
lý và tổ chức sản xuất.
Ưu điểm của hình thức này là nhà đầu tư nước ngoài yên tâm về nguồn hàng,
chất lượng và tiến độ giao hàng. Thiết bị được bảo quản, bảo trì theo chế độ nhất
định và được tính khấu hao trong quá trình vận hành, đồng thời nhà đầu tư cũng có
được nguồn thu nhập trong khi không cần tổ chức sản xuất. Về phía nước sở tại sẽ
giải quyết được vấn đề trước mắt là thiếu vốn và thiếu công nghệ. Với hình thức
đầu tư này, điều kiện để thực hiện là bên thuê và bên cho thuê thiết bị phải trong
cùng một ngành sản xuất.
Nhược điểm của hình thức này là bên cho thuê có thể chuyển giao thiết bị,
công nghệ lạc hậu cho bên thuê thiết bị.
Thuê tài chính (hay thuê mua): Việc thuê tài chính thường xẩy ra đối với các
doanh nghiệp trong tình trạng có nhu cầu về đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất
nhưng không đủ nguồn vốn để mua sắm thiết bị, do đó doanh nghiệp khắc phục tình
13
trạng thiếu vốn bằng cách sử dụng nguồn vốn tín dụng thuê mua, tức là doanh nghiệp
có thể thuê thiết bị ở các công ty cho thuê tài chính.
Các công ty thuê mua tài chính ngoài việc cho thuê tài sản cố định còn tư vấn
cho các doanh nghiệp cách thức sử dụng tài sản cố định đi thuê như thế nào cho có
hiệu quả.
Thuê tài chính có hai nghiệp vụ cụ thể:
Cho thuê hoạt động: Bên thuê có thể thuê tài sản trong một thời gian ngắn,
ngừng thuê khi không còn nhu cầu và bên cho thuê tiếp tục cho người khác thuê.
Cho thuê trả góp: Bên thuê sử dụng tài sản, trả tiền thuê và đồng thời trả góp
tiền mua thiết bị cho đến khi giá trị tài sản được thu hồi hết và bên cho thuê thu
được mức lời thỏa đáng.
1.1.3.7. Hợp tác liên doanh
Đây là hình thức doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp nước sở tại hợp
tác theo phương thức thời gian đầu khai thác sản phẩm và dịch vụ dựa trên nhã
hiệu, thương hiệu của bên nào đã có tiếng tăm trước. Sau một khoảng thời gian nhất
định, việc khai thách kinh doanh sản phẩm dịch vụ sẽ được tiếp tục với nhãn hiệu,
mã ký hiệu thương hiệu của đối tác kia.
1.1.4. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình phát triển
công nghiệp địa phương
Mặc dù ở nhiều nước đang phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài được tiếp
cận một cách thận trọng vì lo ngại phải trả giá cho việc tiếp nhận nó, tuy nhiên
trong suốt quá trình hình thành và phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng
có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của rất nhiều quốc gia cũng như các
địa phương trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài vừa có những tác động tích cực vừa có những tác động tiêu cực đến địa
phương tiếp nhận đầu tư. Vấn đề đặt ra là cần phát huy những tác động tích cực và
giảm thiểu những tác động tiêu cực để tối đa hóa lợi ích khi tiếp nhận đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
14
1.1.4.1. Những tác động tích cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa
phương theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển
nội tại nền kinh tế mà còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế
đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan
trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các địa phương sẽ tham gia
ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền
kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết kinh tế giữa các khu vực
trên thế giới, đòi hỏi mỗi địa phương phải thay đổi cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp
với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi địa
phương phù hợp với trình độ phát triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, chính đầu tư trực tiếp nước
ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa điểm
đầu tư, vì nó làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh tế mới và góp phần
nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật và công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, tăng
năng suất lao động của các ngành này.
Trong điều kiện hiện nay ở các nước đang phát triển, điểm mấu chốt của các
địa phương ở những quốc gia này là vấn đề huy động vốn, đặc biệt là trong ngành
công nghiệp. Công nghiệp là ngành đòi hỏi trong quá trình đầu tư cần có lượng vốn
lớn, trình độ khoa học kỹ thuật cao. Để giải quyết bài toán khó khăn này, việc huy
động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là hết sức cần thiết trong điều kiện hiện nay ở
các địa phương của các quốc gia đang phát triển qua đó tập trung cao độ để thay đổi
cơ cấu kinh tế tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Với vai trò là nguồn vốn
khởi đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài là cơ sở để hoạch định phương hướng, chiến
lược phát triển kinh tế ổn định và bền vững, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
15
Giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động trong ngành công
nghiệp
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề được toàn xã hội
quan tâm và được coi đây là một trong số những nhân tố góp phần làm cho xã hội
phát triển công bằng và bền vững. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ hình
thành lên các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển của các
khu công nghiệp tập trung, khu chế suất, khu công nghệ cao... đây là những nhân tố
thu hút nhiều lao động nhất là nguồn lao động tại chỗ góp phần tạo ra nhiều công ăn
việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Song song với việc giải quyết việc làm, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp
phần nâng cao chất lượng nguồn lao động, tạo ra cho nền kinh tế ngày càng nhiều
đội ngũ lao động có tay nghề, trình độ khoa học công nghệ cao, đội ngũ quản lý có
năng lực góp phần tạo ra sự tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
đào tạo nguồn nhân lực. Người lao động có nhiều cơ hội được học tập và tiếp thu tri
thức khoa học hiện đại, nâng cao kỹ năng tổ chức và quản lý doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có thể tác động tích cực đến việc cải
thiện nguồn nhân lực ở các công ty khác mà họ có quan hệ, đặc biệt là các công ty
bạn hàng. Những cải thiện về nguồn nhân lực ở địa phương tiếp nhận đầu tư còn có
thể đạt hiệu quả lớn hơn khi những người làm việc trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp trong nước hoặc tự
mình thành lập doanh nghiệp mới.
Đóng góp cho ngân sách địa phương từ hoạt động sản xuất kinh doanh của
các cơ sở công nghiệp có nguồn vốn FDI
Bên cạnh đó, hoạt động của các đơn vị có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cũng đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách của địa phương từ những khoản thuế
theo quy định của pháp luật. Từ khi ra đời khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động đầu tư
trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn này đã được đầu tư ngày một nhiều hơn và trở thành
nguồn vốn quan trọng cho phát triển công nghiệp các địa phương. Với lợi thế của
16
mình, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp
ngày càng đóng góp lớn vào sự tăng trưởng chung của ngành công nghiệp, tạo ra
nguồn thu lớn cho ngân sách và nâng cao năng lực cạnh tranh đối với các sản phẩm
công nghiệp của địa phương.
Tăng năng lực sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm công nghiệp của
địa phương
Xuất khẩu là yếu tố quan trọng của tăng trưởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu,
những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở địa phương nhận đầu tư được khai thác
có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Ở các nước đang phát triển tuy
có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh được nhưng vẫn rất khó
khăn trong việc thâm nhập thị trường quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước
ngoài hướng vào sản xuất những sản phẩm công nghiệp xuất khẩu luôn là ưu đãi
đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thông qua đầu tư trực
tiếp nước ngoài những địa phương tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường
thế giới. Vốn đầu tư được đưa vào các dự án cùng với công nghệ cao, phương thức
quản lý hiện đại, thương hiệu nổi tiếng và mạng lưới quan hệ rộng góp phần tăng
năng lực sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.
Mở rộng quan hệ quốc tế trong sản xuất kinh doanh công nghiệp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là động lực mở rộng quan hệ hợp tác giữa các
quốc quốc gia về thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực hợp tác khác. Các hoạt động
đầu tư này thường có sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia nên với hệ thống
mạng lưới hoạt động rộng khắp trên toàn cầu, đây sẽ là điều kiện thuận lợi để các
sản phẩm công nghiệp của địa phương có thể tiếp cận với thị trường thế giới.
1.1.4.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đem đến
không ít những tác động tiêu cực đối với địa phương tiếp nhận đầu tư. Những tác động
tiêu cực chủ yếu do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại là:
Khai thác và sử dụng quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên
Mục đích chính của các chủ đầu tư nước ngoài suy cho cùng đó là làm thế nào
17
để thu được nhiều lợi nhuận nhất. Chính xuất phát từ tư tưởng đó, nhiều nhà đầu tư
đã chạy theo lợi nhuận, họ thường triệt để khai thác và tìm mọi biện pháp để sử dụng
nguồn tài nguyên thiên nhiên tại nơi nhận đầu tư. Trong quá trình tiếp nhận đầu tư,
nếu không có giải pháp cho vấn đề này thì sẽ dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên và kéo theo nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến các lĩnh vực khác.
Mất cân đối trong cơ cấu kinh tế
Khi tìm hiểu về môi trường đầu tư của địa phương nhận đầu tư, các nhà đầu
tư thường chú trọng quan tâm đến những ngành sẽ thu được lợi nhuận cao. Do đó,
khi tiếp nhận đầu tư nếu không có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư đúng
hướng có thể dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế. Do sự chạy theo lợi
nhuận của nhà đầu tư có thể gây nên mất cân đối giữa các ngành kinh tế, giữa các
thành phần kinh tế và gây nên sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực.
Chuyển giao công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường
Thông thường các công nghệ mà nhà đầu tư mang tới không phải là công
nghệ nguồn. Trong nhiều trường hợp những công nghệ đó là công nghệ lạc hậu và
đã qua sử dụng. Điều này sẽ đẩy nước tiếp nhận đầu tư trở thành bãi rác công nghệ,
kéo theo đó là sự ô nhiễm môi trường gây tổn thất lớn cho kinh tế và sức khỏe của
người dân.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài giữ một vai trò quan trọng trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa. Hiện nay đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta tập trung chủ yếu là đầu tư
trong ngành công nghiệp, chiếm tỷ trọng cao cả về số dự án đầu tư và tổng vốn đầu
tư. Đóng góp của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo nên sự tăng
trưởng lớn trong ngành công nghiệp của nhiều địa phương trên cả nước. Tuy nhiên
bên cạnh những tác động tích cực đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đang mang
đến không ít mối lo ngại cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra trong thời
gian tới là làm thế nào để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đúng hướng, hiệu quả
để tạo nên sự phát triển bền vững cho nền kinh tế.
18
1.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1. Khái niệm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thu hút đầu tư nói chung được hiểu là quá trình xây dựng và hoàn thiện môi
trường đầu tư nhằm mời gọi đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong
và ngoài nước trong quá trình thực hiện đầu tư để đạt những mục tiêu kinh tế xã hội
nhất định.
Môi trường đầu tư được đề cập đến ở đây là tổng thể các nhân tố có tác động
qua lại lẫn nhau và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư, điều chỉnh nhà đầu
tư trong việc lựa chọn mục đích, hình thức, lĩnh vực, quy mô, và phạm vi hoạt động
của dự án đầu tư, từ đó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc kìm hãm quá trình thực
hiện đầu tư.
Như vậy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của địa phương là quá trình xây
dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư với mục đích kêu gọi nguồn vốn đầu tư trực
tiếp từ các cá nhân và tổ chức nước ngoài nhằm đẩy nhanh tiến trình phát triển kinh
tế xã hội của địa phương.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI ngày càng giữ vai trò quan trọng, là nguồn vốn đầu tư có đóng góp lớn
cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Với vai trò quan trọng đó, việc đánh giá kết
quả thu hút FDI là rất cần thiết để có thể nắm bắt một cách toàn diện tình hình thu
hút đầu tư, là cơ sở đưa ra những biện pháp tích cực thu hút nguồn vốn này một
cách hiệu quả hơn. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả thu hút FDI bao gồm năm chỉ
tiêu chính sau:
Thứ nhất: số lượng các dự án FDI, đây là biểu hiện đầu tiên về kết quả thu hút
FDI. Thông thường số dự án đầu tư lớn là minh chứng cho hoạt động thu hút FDI
tốt. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác cần gắn chỉ tiêu này với các chỉ tiêu khác
như quy mô vốn đầu tư, tốc độ thu hút vốn hay cơ cấu của vốn đầu tư...
Thứ hai: quy mô vốn FDI, chỉ tiêu này phản ánh tổng vốn FDI đã thu hút được
trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hoạt động thu
hút đầu tư càng đạt kết quả cao.
19
Thứ ba: số vốn bình quân của một dự án FDI, chỉ tiêu này cho biết quy mô
bình quân của mỗi dự án. Chỉ tiêu này thấp cho thấy các dự án chủ yếu là nhỏ lẻ, do
vậy thường gắn với điều đó là công nghệ lạc hậu, hiệu quả kinh tế xã hội không cao.
Thứ tư: tốc độ thu hút FDI là chỉ tiêu phản ánh quy mô vốn FDI tăng hay giảm
và tăng, giảm nhanh hay chậm, đây là cơ sở so sánh kết quả thu hút FDI giữa các
thời kỳ.
Thứ năm: cơ cấu FDI, được phân thành nhiều loại như cơ cấu FDI theo lĩnh
vực, theo vùng, theo đối tác đầu tư, theo hình thức đầu tư.
Cơ cấu FDI theo ngành, lĩnh vực đầu tư biểu hiện sự phân bố FDI trong các
ngành, theo lĩnh vực có tuân theo quy hoạch phát triển ngành của địa phương tiếp nhận
đầu tư hay không và tác động như thế nào đến cơ cấu kinh tế của địa phương đó.
Cơ cấu FDI theo vùng cho biết sự phân bố FDI theo không gian, qua đó cho thấy
tác động của FDI đối với sự phát triển của các đơn vị hành chính cơ sở.
Cơ cấu FDI theo đối tác đầu tư cho biết tên tuổi cũng như quốc tịch của chủ
đầu tư. Đây là thông tin phản ánh mối quan tâm cũng như đóng góp của các nhóm
nhà đầu tư từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đối với ngành, lĩnh vực đầu tư của
địa phương.
Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư cho biết xu hướng vận động, phát triển của
các hình thức đầu tư là cơ sở cho địa phương định hướng và khuyến khích phát triển
các hình thức đầu tư phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của địa phương.
1.2.3. Các nhân tố tác động tới thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh huy động vốn quan trọng cho
đầu tư phát triển kinh tế, đây là một kênh huy động vốn đặc biệt quan trọng đối với
các quốc gia đang phát triển khi nền kinh tế còn yếu kém và tiết kiệm ở mức thấp
không đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Với vai trò quan trọng của đầu tư trực tiếp
nước ngoài, cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đang diễn ra mạnh mẽ
không chỉ giữa các quốc gia trên thế giới mà còn cạnh tranh ngay cả giữa các địa
phương trong cùng một quốc gia. Những nhân tố đi đến thành công trong thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ hai nhóm nhân tố chính là nhóm những
20
nhân tố từ môi trường bên trong và nhóm những nhân tố xuất phát từ môi trường
bên ngoài địa phương.
1.2.3.1. Những nhân tố từ môi trường bên ngoài địa phương
Môi trường đầu tư nước ngoài ở một địa phương được hiểu là tổng thể những
tác động bên trong và bên ngoài địa phương nhận đầu tư làm ảnh hưởng tới hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút đầu tư
nước ngoài xuất phát từ môi trường bên ngoài địa phương bao gồm những nhân tố
chính sau:
Thứ nhất là sự ổn định về môi trường chính trị và kinh tế trong nước. Khi hệ
thống chính trị và môi trường kinh tế có tính ổn định cao sẽ là nền tảng tạo nên
niềm tin đối với các nhà đầu tư, giúp cho nhà đầu tư có thể yên tâm trong suốt quá
trình đầu tư.
Thứ hai là cơ chế chính sách vĩ mô trong hoạt động đầu tư nước ngoài là
những quy định của nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Những quy định
này ở nước ta đã không ngừng được hoàn thiện từng bước theo hướng thu hẹp sự
phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tạo ra sự bình đẳng, không
phân biệt đối xử trong hoạt động đầu tư. Những nội dung trong các chính sách của
Nhà nước tạo nên môi trường đầu tư hấp đẫn đối với các nhà đầu tư đó là sự ổn
định, tính nhất quán, minh bạch và bình đẳng của các chính sách trong công tác
quản lý đầu tư và đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba là kế hoạch và quy hoạch phát triển kinh tế các vùng miền, các ngành
nghề. Đây là những yếu tố quan trọng cho nhà đầu tư khi lựa chọn địa điểm và
ngành nghề đầu tư. Dựa trên quy hoạch này nhà đầu tư sẽ xây dựng được cho mình
định hướng, kế hoạch cho hoạt động đầu tư của mình. Điều này tạo nên lợi ích cho
cả nhà đầu tư và địa phương nhận đầu tư đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế
xã hội của nước nhận đầu tư.
Thứ tư là sự cạnh tranh từ các địa phương khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ngày càng có vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
chính vì vậy cạnh tranh giữa các địa phương trong thu nguồn vốn đầu tư này là tất
21
yếu. Tuy nhiên đã có nhiều sai lầm bộc lộ trong việc lựa chọn cách thức cạnh tranh
hiện nay của nhiều địa phương, điều này đang có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển chung của toàn nền kinh tế. Cạnh tranh là cần thiết, tuy nhiên điều quan trọng
là lựa chọn cách thức cạnh tranh lành mạnh để cùng nhau tiến bộ mà không làm ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ năm là xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa. Hiện nay xu thế toàn cầu
hóa và khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, nó tạo điều kiện cho thương
mại và đầu tư quốc tế rất phát triển. Khi một quốc gia có mức độ hội nhập kinh tế
thế giới và khu vực càng sâu, rộng càng có tác dụng thu hút nhiều vốn đầu tư vào
trong nước. Có ba tiêu chí chủ yếu được các nhà đầu tư quan tâm để đánh giá khả
năng thu hút đầu tư của nước sở tại được nhắc đến là giá nhân công của nước sở tại
so với những quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội tương tự, tình hình xuất khẩu sang
nước thứ ba của quốc gia đó và cơ hội tăng trưởng của thị trường.
Thứ sáu là cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh
lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới,
quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội; các quốc gia lớn, họ tham gia ngày càng
nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương
mại và nhiều lĩnh vực khác. Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để các nước
có điều kiện phát triển; sự hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng cạnh tranh
cũng trở nên gay gắt.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh
chóng là cơ sở tạo nên sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia đưa
xã hội loài người bước sang một nền văn minh mới. Những ngành công nghiệp mới
đều là những ngành đòi hỏi số vốn đầu tư ban đầu lớn, đội ngũ lao động lành nghề,
có năng lực chuyên môn, những trang thiết bị hiện đại, đắt tiền, và đem lại những
sản phẩm mới chất lượng và giá trị gia tăng cao đáp ứng tốt những nhu cầu ngày
càng khắt khe của người tiêu dùng. Chính những nhu cầu này đã thúc đẩy hoạt động
đầu tư quốc tế. Khi cuộc cách mạng khoa học càng phát triển thì đầu tư trực tiếp
22
nước ngoài sẽ càng trở nên cần thiết đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát
triển, đây là cách lựa chọn hiệu quả để thu hẹp khoảng cách giữa những quốc gia
này đối với các nước công nghiệp phát triển.
Thứ bẩy là xu thế vận động của dòng vốn đầu tư quốc tế. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài bắt đầu hình thành vào khoảng đầu thế kỷ hai mươi, cho đến nay hoạt
động này đã có nhiều biến đổi sâu sắc, quy mô đầu tư ngày càng tăng, thị trường
ngày càng mở rộng và lĩnh vực đầu tư ngày càng đa dạng có vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế thế giới.
Sự vận động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian đầu tập
trung ở các nước đang phát triển. tuy nhiên cho đến cuối thế kỷ hai mươi thì dòng
vốn đó có xu hướng chảy tới các quốc gia công nghiệp phát triển. Những thay đổi
xu thế của dòng vốn đầu tư quốc tế chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, trong đó chủ
yếu là do tác động từ sự suy thoái cùng với khung hoảng kinh tế ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Được đánh giá là chìa khóa cho sự tăng trưởng, các quốc gia đang
phát triển không ngừng nỗ lực kêu gọi đầu tư phát triển và đã đạt được nhiều thành
công đáng kể trong những năm qua.
Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong khu vực kinh tế năng động của Châu Á
được nhiều nhà đầu tư quan tâm đến, nước ta có nhiều thuận lợi trong thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Việc bãi bỏ những cản trở thương mại và đầu tư quốc tế, tái
điều chỉnh cơ cấu và cải cách nền kinh tế cũng như việc tự do hoá trong lưu thông
vốn quốc tế là những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Đã có nhiều khu vực tự do hoá thương mại được hình thành là kết quả tất yếu
toàn cầu hoá nền kinh tế thê giới. Bên cạnh đó những hiệp ước đầu tư song phương
đã thực sự thúc đẩy và bảo hộ hợp pháp cho những hoạt động của các nhà đầu tư
quốc tế và dự án của họ tại các nước tiếp nhận đầu tư. Các nguyên tắc đối xử ưu đãi
và công bằng đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng được các quốc gia hết sức
xem trọng, nó cũng được coi là động lực thúc đẩy cho hoạt động đầu tư nước ngoài
trở nên mạnh mẽ hơn trên quy mô toàn thế giới.
23
1.2.3.2. Những nhân tố từ môi trường bên trong địa phương
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ phụ thuộc vào những nhân tố
bên ngoài của địa phương, nó còn chịu sự ảnh hưởng to lớn từ những nhân tố bên
trong địa phương. Có thể chia những nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động thu hút đầu
tư trực tiếp nước ngoài thuộc môi trường bên trong địa phương thành những nhóm
nhân tố chính sau:
a) Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của địa phương
Lợi thế của địa phương trong thu hút FDI cho phát triển công nghiệp trước tiên
cần xem xét các yếu tố về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên khoáng sản.
Các yếu tố này cần được xác định trong phạm vi một tỉnh, có sự so sánh với các
tỉnh trong vùng, với toàn vùng trong mối quan hệ với thị trường trong nước và quốc
tế.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của một địa phương là những nét đặc trưng
cơ bản để phân biệt giữa các địa phương trong một quốc gia, những điều kiện này là
cơ sở quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của một địa phương và cũng là một
trong những nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự khác biệt lớn trong phát triển kinh tế
của các địa phương. Vị trí địa lý thuận lợi của địa phương biểu hiện ở mối liên kết
của địa phương với các vùng kinh tế của đất nước cùng với các điều kiện thuận lợi
cho việc lưu thông hàng hóa từ địa phương tới các khu vực kinh tế khác.
Một địa phương khi hội tụ đủ các điều kiện tốt như có vị trí địa lý thuận lợi,
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng là những ưu thế cạnh tranh
lớn trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Vấn đề quan trọng là chính quyền địa
phương sẽ làm những gì để tận dụng lợi thế cạnh tranh đó. Trong hoạt động thu hút
đầu tư, những yếu tố này ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư. Khi
có vị trí địa lý thuận lợi cùng với những điều kiện tự nhiên được ưu ái sẽ tạo nên lợi
thế so sánh cho địa phương trong thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu
tư trong lưu thông hàng hóa và tạo dựng quan hệ với thị trường bên ngoài, đồng
thời là cơ hội cho nhà đầu tư khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn
có tại địa điểm đầu tư.
24
b) Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương
Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài được xét đến đầu tiên là cơ sở hạ tầng và nguồn lực về con người,
bao gồm những yếu tố chính như số lượng và chất lượng lao động của địa phương,
sự phát triển của khoa học công nghệ, cơ sở hạ tầng công nghiệp, hạ tầng đường
giao thông, mạng lưới điện, nước, cảng, dịch vụ viễn thông.... Đây là yếu tố không
thế thiếu đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các địa phương nhận đầu tư
có thể tận dụng lợi thể này để tăng cường thu hút đầu tư thông qua việc xây dựng và
phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời đảm bảo phát triển nguồn nhân lực dồi dào, đủ
chất lượng đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư. Những điều kiện này ở các nước
đang phát triển thường là hết sức khó khăn bởi nền kinh tế còn kém phát triển, cơ sở
hạ tầng nghèo nàn và ít được đầu tư, trong khi đó lao động dồi dào nhưng chưa qua
đào tạo. Nguồn lao động dồi dào ở nước ta là một lợi thế cạnh tranh lớn trong thu
hút đầu tư, tuy nhiên lợi thế này không mang tính bền vững nếu chúng ta không có
chính sách cải thiện chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.
Bên cạnh những nhân tố trên, một số nhân tố khác có ảnh hưởng lớn đến nhà
thu hút đầu tư nước ngoài là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế địa phương, quy mô
thị trường và thu nhập bình quân đầu người, thị hiếu tiêu dùng của người dân. Trong
lựa chọn địa điểm đầu tư, tính hiệu quả là một khía cạnh được các nhà đầu tư xem xét
kỹ lưỡng trong quyết định chọn địa điểm đầu tư. Hiệu quả này được xem xét thông
qua chi phí về nguồn lực và các chi phí khác như chi phí vận tải, chi phí viễn thông
và các chi phí trung gian khác.
Hiện nay một lực lượng giữ vai trò quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là quần chúng nhân dân. Vai trò quan
trọng của người dân không chỉ vì có số lượng đông đảo, mà còn là tập hợp người
tiêu dùng, người lao động, người tham gia và sáng tạo trong tất cả hoạt động của
nền kinh tế. Tập quán, bản sắc văn hoá là những yếu tố căn bản để hình thành sức
mạnh riêng biệt của một địa phương. Người dân có văn hoá, kỷ luật, tay nghề và
25
trình độ quản lý sẽ là lợi thế cạnh tranh dài hạn; thói quen tiêu dùng là động lực
thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển; đức tính thân thiện là tiềm năng để thu hút du
lịch và hợp tác kinh doanh; cần cù, sáng tạo là sức mạnh để tạo nên sự phát triển
bền vững. Vì vậy, chính quyền cần phải hoạch định được chiến lược phù hợp để
định hướng, giáo dục, thúc đẩy vai trò của công chúng trong tiến trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Sự khác biệt về văn hóa xã hội giữa chủ đầu tư và người lao động nước sở tại
cũng là yếu tố cần quan tâm, điều này cũng có thể trở thành lực cản đáng kể nếu
không có sự nỗ lực từ phía chính quyền và từ phía bản thân các nhà đầu tư trong
quan hệ với người lao động. Mâu thuẫn trong mối quan hệ này không chỉ ảnh
hưởng lớn đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn có thể gây bất ổn về
kinh tế và chính trị, trật tự xã hội tại địa phương, làm giảm đi hình ảnh đẹp về một
môi trường đầu tư đáng tin cậy.
c) Vai trò tích cực của chính quyền địa phương trong thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Quan điểm của chính quyền địa phương trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Quan điểm trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố quan trọng có
vai trò ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay
trong thu hút đầu tư nước ngoài ở nước ta có hai quan điểm chủ đạo. Quan điểm thứ
nhất chú trọng vào việc tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về mặt số lượng,
bất kể vào lĩnh vực nào quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư. Quan điểm này là một
quan điểm đang hiện diện ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài theo quan điểm này hiện nay đã mang đến thành công trước
mắt cho nhiều địa phương trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên
về lâu dài thu hút đầu tư theo những suy nghĩ như trên đang dần bộc lộ nhiều bất
cập mà hậu quả của nó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương như: mất cân đối cơ cấu kinh tế, gây ô nhiễm môi trường, sử dụng không có
hiệu quả các nguồn lực…
Từ những bất cập trên, quan điểm thứ hai đã hình thành, theo đó quan điểm