Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

PHÂN TÍCH TÍNH TẠO HÌNH TRONG BÀI THƠ TRÀNG GIANG CỦA HUY CẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.62 KB, 7 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP
KHOA: SP VĂN – SỬ – ĐỊA

PHÂN TÍCH TÍNH TẠO HÌNH
TRONG BÀI THƠ TRÀNG GIANG
CỦA HUY CẬN

GVHD: Nguyễn Thị Kim Tiến
MÔN: Các loại hình nghệ thuật Việt Nam
NHÓM SVTH:
1. Phạm Thanh Lâm
2. Phạm Thị Huyền Trinh
3. Võ Thị Kim Huệ
4. Võ Thị Bích Tuyền
5. Nguyễn Thị Bích Vân

Đồng Tháp, 04 - 2015
1


ĐỀ: Anh/chị hãy phân tích tính tạo hình trong bài thơ “Tràng giang” của Huy
Cận.
BÀI LÀM
1. Đôi nét về tính tạo hình:
- Nghệ thuật tạo hình: nghĩa là tái hiện lại các hình khối, màu sắc, dáng vẻ của
con người, thiên nhiên, đồ vật làm cho người xem có thể ngắm nhìn, chiêm ngưỡng
một cách trực tiếp. Hình tượng nghệ thuật tạo hình có khả năng diễn tả sinh động cụ
thể đời sống trong một hình thái y như thật.
- Ngoài ra, tính tạo hình còn được thể hiện trong văn học. Nó được xác lập gián
tiếp qua ngôn từ giàu hình ảnh có màu sắc, âm thanh, nhạc điệu,… có khả năng gây


ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí tưởng tượng và cảm nghĩ của người đọc.
Để hiểu rõ thêm vấn đề tính tạo hình được thể hiện trong văn học như thế nào?
Nhóm xin đi vào phân tích ngôn từ mà tác giả sử dụng ở từng khổ thơ trong bài thơ
“Tràng giang” của Huy Cận để làm rõ tính tạo hình trong văn học.
2. Tính tạo hình được thể hiện trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
2.1. Câu đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Ngay ở câu đề từ ta đã thấy Huy Cận đang đứng trước khung cảnh cô liêu của
“sông dài trời rộng”. Đã phần nào qua hình ảnh đó đã thể hiện được nỗi sầu mênh
mông xa vắng dâng lên lúc hoàng hôn. Từng câu chữ trong bài thơ trang trọng cổ
kính gợi cho chúng ta liên tưởng đến được nỗi buồn bâng khuâng mang mát nhớ nhà,
nhớ quê hương đất nước.
2.2. Khổ 1:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Ở bốn câu thơ đầu này thông qua nghệ thuật dùng ngôn từ điêu luyện của nhà
thơ chúng ta có thể thấy được hình ảnh dòng sông mênh mông sóng nước, “Tràng
2


giang” là dòng sông của nỗi buồn li biệt được nhắc đi nhắc lại trong thi ca cổ Trung
Quốc dòng sông ấy đã đi vào hồn thơ của Huy Cận. Nhưng cái mới của nhà thơ Huy
Cận khi dùng ngôn từ để tạo hình ảnh được thể hiện qua cách dùng từ biến âm: biến
trường thành tràng và cách phối âm, với vần “ang” lan tỏ nhà thơ đã rất thành công
trong công việc tạo âm hưởng buồn và gợi cảm giác mênh mông xa vắng của dòng
sông:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp.”
Trên dòng sông ấy, nhà thơ nhìn thấy những hình ảnh đầy tính tạo hình của con
sóng nhỏ nhấp nhô dao động “sóng gợn”, nhưng thông qua hình ảnh đó lại dâng lên

trong lòng nhà thơ một nỗi buồn trùng điệp, “buồn điệp điệp”. Tính tạo hình càng
được tô đậm hơn qua từ láy “điệp điệp” đã nhấn mạnh hơn nỗi buồn, nỗi buồn cứ
chồng chất lên nhau không dứt.
Cũng chính trên hình ảnh của dòng sông mênh mang sống nước ấy nhà thơ đã
chấm phá vài nét tạo hình qua các câu:
“Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Ở đây có hình ảnh của thuyền nhưng “thuyền xuôi mái”, có hình ảnh của nước
nhưng là nước sóng. Cả hai hình ảnh như là ngịch đối nhau “thuyền về - nước lại” .
Thông qua hình ảnh và ngôn từ đã sử dụng ở đây nó đã gợi ta liên tưởng đến nỗi
buồn chia xa. Thuyền và nước là những hình ảnh muôn đời gắn bó sóng đôi với
nhau, nhưng qua tâm trạng của nhà thơ, cảnh vật cũng chia li đôi ngã và thế là tạo
thành “nỗi sầu trăm ngã”, nỗi sầu như lan tỏa ra một không gian rộng lớn.
Tính tạo hình thông qua ngôn từ trong bài thơ còn được thể hiện khá đặc biệt
qua hình ảnh rất nên thơ và đầy sức gợi cảm “củi một cành khô lạc mấy dòng”. Chỉ
một hình ảnh của củi khô mục trôi dạc trên muôn trùng sóng nước nhưng lại có sức
gợi tả rất cao. Nó gợi ta liên tưởng đến những nỗi lênh đênh về những kiếp đời nhỏ
bé vật vờ trôi nổi giữa mênh mông vô định của cuộc đời. Với cách dùng hình ảnh
3


tượng trưng “con thuyền, cành củi khô” đã nói lên được vấn đề có tính chất triết lí
về con người trong cuộc đời cũ.
Ở khổ thơ đầu, từng câu chữ, từng hình ảnh đều đặc sắc ở chỗ: nó vừa gợi tả
được hình ảnh của tràng giang, vừa gợi ta liên tưởng được thông qua hình ảnh đó là
cả tâm sự buồn của thi nhân.
2.3. Khổ 2: Sang khổ thơ thứ hai nhà thơ cho chúng ta thấy được bố cục của
một bức tranh thông qua hình ảnh không gian được mở rộng ra ba chiều: chiều cao,
chiều rộng và chiều sâu, tạo nên không gian vũ trụ bao la và nỗi sầu của nhà thơ

cũng cao vút vô tận:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Bức tranh tràng giang có thêm hình ảnh của những chiếc “cồn” của những làng
xóm bên kia sông. Vì thế mà hai câu thơ đầu đã gợi cho ta liên tưởng một cảm giác
man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Ông đã vô tình phác họa ra một
cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê: bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn
đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng đây
không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Đặc biệt tác giả sử dụng hai từ láy “lơ thơ”
và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang
cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi ta liên tưởng đến sự ít ỏi, bé nhỏ “đìu hiu” lại gợi sự
quạnh quẽ. Giữa khung cảnh “cồn nhỏ”, gió “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo,
tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên: “Đâu tiếng làng xa
vãn chợ chiều”.
Ở đây có thêm nhiều chi tiết, hình ảnh: Cồn đất, gió thổi, tiếng chợ búa, tiếng
làng xa, bến sông,… đáng lẽ với những chi tiết đó bức tranh thiên nhiên trở nên sinh
động rộn ràng hơn nhưng trái lại tất cả mênh mông hơn và hẳm hiu hơn dường như
tâm trạng nhà thơ hoàn toàn vô vạnh, đơn lẽ nên dưới con mắt của nhà thơ cảnh vật
4


trở nên hiu quạnh buồn bã hơn. Huy Cận đã đem vào thơ minh hình ảnh “một cồn
cát thưa thớt”, “một ngọn gió đìu hiu” và cả những âm thanh lao xao lúc có lúc
không của buổi chợ chiều đặt vào không gian rộng lớn sâu thẩm. Cảnh vật đã hoang
vắng lại càng hoang vắng hơn và con người dường như nhỏ bé hơn trong cái cao
rộng của đất trời.
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Đến đây bức tranh trong không gian đã được tác giả chuyển sang chiều khác,
chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời, chiều sâu qua “sâu chót vót”. Những
cặp từ đối nhau “nắng xuống – trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian
và gợi ra cả sự chia lìa: “lên – xuống”. Nắng xuống và trời lên để lại một khoảng
trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết
hợp từ ngữ độc đáo “sâu chót vót”. Cụm từ “Sâu chót vót” mà ông sử dụng đã tạo
cho chúng ta một cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải
có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu. Gam cảm xúc buồn, trầm
lắng. Không những thế đôi mắt của nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của
nắng, mà đôi mắt ấy còn nhìn xuyên thấu vào cả vũ trụ, vào cả không gian bao la, vô
tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài – trời rộng” đã diễn tả được
cái bao la vô cùng vô tận của đất trời. Nhà thơ cảm thấy choáng ngợp, thấy mình nhỏ
bé đơn độc trước cảnh tràng giang mênh mông ấy. Hình ảnh “bến cô liêu” với âm
hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi cho ta thấy một nỗi
buồn nhân thế, nỗi buồn về sự quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ
thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
2.4. Khổ 3:
Chính cái tâm trạng của nỗi buồn cô đơn và sự gợn ngợp trước vũ trụ bao la đã
dẫn Huy Cận đến khung cảnh tưởng như không có dấu vết nào của sự sống:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
5


Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Trước mắt nhà thơ là hình ảnh một dòng tràng giang mênh mông không hề có
lấy “một chuyến đò ngang” cũng không hề có “một nhịp cầu nào” để nối liền đôi bờ
vắng lặng. Nghĩa là qua những câu từ gợi hình ảnh đó đã được nhà thơ sử dụng nhằm
giúp ta hình dung được cảnh vật ở đây không hề có một phương tiện nào để con

người, lòng người, tình người đến được với nhau. Thành ra sông rộng lại càng rộng,
mênh mông hơn với đôi bờ vắng lặng. Đặc biệt, ông đã sử dụng những từ ngữ phủ
định “không” được nhắc đi nhắc lại như là xóa đi tất cả dấu hiệu của sự sống.
Cảnh vật đó được mở rộng hơn ra với hình ảnh của bờ với bãi. Ở đây tác giả lại
tô lên bức tranh của mình thêm ít màu xanh và sắc vàng, tô cho bức tranh. Một bức
tranh sẽ đẹp hơn khi tác giả chấm phá vài màu sắc như xanh, vàng hay màu núi bạc.
Nhưng tác giả ở đây lại sử dụng tất cả những gam màu đó đều là gam màu lạnh nên
tưởng rằng bức tranh sẽ sinh động hơn nhưng đằng sau đó là nỗi buồn, là sự cô đơn
mà nhà thơ muốn người đọc hiểu được thông qua ngôn từ trong bài thơ của ông. Bởi
bức tranh có bãi, có bờ nối tiếp nhau nhưng không bao giờ gắn bó với nhau: “hết bờ
xanh rồi mới đến bãi vàng”. Hình như ẩn trong bức tranh đó là giữa chúng có một
ranh giới rõ rệt.
Cũng trên hình ảnh của dòng sông ấy lại xuất hiện hình ảnh của những “đám
bèo” thay thế cho “một cành củi khô”. Bèo thì có nhiều nhưng là những đám bèo
trôi dạt thụ động vô định hết ngày này đến ngày khác. Câu thơ một lần nữa gợi tả liên
tưởng đến hình ảnh của một lớp nhà thơ trước cách mạng tháng 8 chưa tìm được
hướng đi cho mình và chưa làm được gì có ích cho cuộc đời như Huy Cận. Từ đó
giúp ta hiểu hơn tấm lòng yêu nước của nhà thơ một cách kín đáo tha thiết của nhà
thơ Huy Cận.
2.5. Khổ 4:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
6


Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Nếu như ở ba khổ thơ trên tác giả chấm phá vài đường nét bằng ngôn từ sắc sảo
của mình để vẽ nên một bức tranh đầy hình ảnh và thông qua đó tác giả đã giúp
người đọc, người nghe liên tưởng đến một bức tranh đầy tâm trạng với nỗi buồn của

nhà thơ thì đến khổ thơ cuối đã hóa thành nỗi nhớ nhà sâu thẳm. Tuy nhiên, qua ngôn
từ ở hai câu thơ đầu vẫn gợi ra một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đẹp, chiều xuống,
mặt trời xuống thấp, những đám mây cứ đùn lên nhau hết đám này đến lớp khác
trông giống như núi bạc. Trong không gian bao la hùng vĩ đó lại xuất hiện hình ảnh
một cánh chim nhỏ chao nghiêng đến tội nghiệp “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng
chiều sa”. Hình ảnh cánh chim như đang chở nặng tâm tình buồn nhớ của nhà thơ
cho nên nó mới “sa” để rồi đến hai câu thơ cuối cùng nhà thơ bọc bạch nỗi lòng của
mình “lòng quê – nhớ nhà”. Đó chình là tâm tình quê của nhà thơ. Tấm lòng nhớ
quê hương tha thiết, sâu nặng và rất mảnh liệt.
3. Kết luận:
Nói tóm lại, qua bài thơ “Tràng giang” với nhiều hình ảnh mang đầy tâm trạng
của tác giả giúp chúng ta thấy rõ được nghệ thuật tạo hình được thể hiện qua việc xác
lập ngôn từ. Hay nói khác hơn tác giả đã lựa chọn từ ngữ độc đáo, biện pháp thích
hợp để làm tăng tính hình tượng giàu hình ảnh trong bài thơ. Trong bài thơ Huy Cận
đã chấm phá rất nhiều đường nét để tạo nên những hình ảnh, màu sắc,… đầy sức liên
tưởng. Nó giúp cho người đọc, người nghe nhận ra được sự kết hợp giữa vẻ đẹp cổ
điển và hiện đại, tạo cho bài thơ một không gian mênh mông, hùng vĩ. Huy Cận đã
bộc lộ nỗi sầu của mình trước thiên nhiên hoang sơ nhưng thấm đượm tình người và
lòng yêu nước da diết.

7



×