Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

GIỚI THIỆU QUY CHẾ PHÁP LÝ MỘT SỐ VÙNG BIỂN VIỆT NAM PHÙ HỢP VỚI CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.79 KB, 20 trang )

GIỚI THIỆU QUY CHẾ PHÁP LÝ MỘT SỐ VÙNG BIỂN VIỆT NAM PHÙ HỢP
VỚI CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN 1982
Hà Nam Ninh
Đại học Khoa học và Công nghệ biển Tokyo
1. Giới thiệu sơ lược về hàng hải (maritime)
Như chúng ta đã biết, công nghiệp hàng hải là ngành công nghiệp liên quan tới vận
tải hàng hóa bằng đường biển (shipping). Nghiệp vụ chủ yếu của một công ty vận tải
biển (shipping company) là chuyên chở hàng hóa từ cảng A đến cảng B bằng đường
biển, lợi nhuận của họ là cước phí vận tải (freight).
Một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của ngành hàng hải là nghiệp vụ dẫn
đường (navigation). Để dẫn tàu an toàn (safe navigation), người sĩ quan hành hải
(navigation officer) cần phải tích lũy một số kiến thức nhất định, trong đó các kiến thức
về qui tắc phòng ngừa va chạm tàu thuyền trên biển [1] (regulations for preventing
collision at sea) và luật biển[2] (the law of the sea) cũng rất cần thiết.
2. Công Ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 - United Nations Convention
on the Law of the Sea 1982
Công ước về luật biển được Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng Mười Hai năm
1982, và đến ngày 16 tháng 11 năm 1994 đã bắt đầu có hiệu lực khi được 60 quốc gia
phê chuẩn. Do đó công ước này được gọi tắt là Luật Biển 1982 (UNCLOS82 - United
Nations Convention on the Law of the Sea 1982 – Công Ước của Liên Hợp Quốc về
Luật Biển 1982). Luật Biển 1982 không chỉ được áp dụng riêng cho ngành hàng hải.
Luật Biển 1982 còn có vai trò rất quan trọng đối với chủ quyền của các quốc gia ven
biển. Đồng thời luật biển này cũng quy định về quyền lợi của những quốc gia không có
biển.

Hình 1. Lô-gô của công ước của Liên hợp quốc về luật biển
Bài viết này sẽ giới thiệu sơ lược về một số vùng biển Việt Nam cùng một số quy chế
pháp lý chủ yếu của các vùng biển ấy, phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về luật
1



biển 1982.
3. Đường cơ sở (baseline)
“Đường cơ sở”[3] (baseline) là một đường mà căn cứ vào nó chính phủ quốc gia ven
biển sẽ tuyên bố bề rộng của “lãnh hải”[4] hướng về phía biển cả[5] được tính từ đường cơ
sở. Đường cơ sở cũng được dùng làm căn cứ gốc để xác định các vùng biển khác phía
ngoài lãnh hải. Thông thường, đường cơ sở là đường ngấn nước thủy triều thấp nhất.
Tuy nhiên, khi bờ biển có sự lồi lõm đáng kể, khi biển khoét xâu vào đất liền, hoặc khi
có những đảo ven bờ, quốc gia ven biển có quyền áp dụng đường cơ sở thẳng[6].
Ngày 12 tháng Mười Một năm 1982, Chính phủ Việt Nam đã ra tuyên bố về đường
cơ sở và vùng hải phận quốc gia (lãnh hải) cho vùng bờ biển từ cửa Vịnh Bắc Bộ cho
tới vùng biển trong vịnh Thái Lan. Việt Nam tuyên bố đường cơ sở thẳng với 11 đoạn
được nối qua 12 điểm men theo bờ biển [7]. Chi tiết về tọa độ của các điểm nối và hình vẽ
được nêu ra trong bảng 1 và hình 3.

Hình 2. Khái quát về các vùng biển theo UNCLOS82
Tọa độ và tên điểm trong bảng 1 được sao chép từ tuyên bố 12 tháng Mười Một
năm 1982 bởi Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đường cơ sở xác định
lãnh hải của Việt Nam (tuyên bố VN1982). Tuy nhiên, tên địa danh đã được người viết
điều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi của cơ quan quản lý hành chính hiện thời. Ký
hiệu N (north) có nghĩa là “vĩ độ bắc”, ký hiệu E (east) có nghĩa là “kinh độ đông”.

2


Bảng 1. Tọa độ các điểm nối đường cơ sở của Việt Nam
Tên
điểm

Tọa độ


Địa danh

O

Điểm nối giữa hai đường cơ sở của Việt Nam và
Cam-pu-chia, nằm giữa biển, trên đường nối từ Thổ
Chu

A1

N09015’0

E103027’0

Hòn Nhạn, quần đảo Thổ Chu, tỉnh Kiên Giang

A2

N08022’8

E104052’4

Hòn Đá Lẻ, phía cực nam của Hòn Khoai, tỉnh Cà
Mau

A3

N08037’8

E106037’5


Hòn Tài Lớn, Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

A4

0

N08 38’9

0

E106 40’3

Hòn Bông Lang, Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

A5

0

N08 39’7

0

E106 42’1

Hòn Bảy Cạnh, Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

A6

N09058’0


E109005’0

Hòn Hai, nhóm đảo Phú Quí, tỉnh Bình Thuận

A7

0

N12 39’0

0

E109 28’0

Hòn Đôi, tỉnh Khánh Hòa

A8

N12053’8

E109027’2

Mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú Yên

A9

N13054’0

E109021’0


Hòn Ông Căn, tỉnh Bình Định

A10

0

N15 23’1

0

E109 09’0

Đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

A11

N17010’0

E107020’6

Đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị

Cũng theo Tuyên bố VN1982, nước ta đã bảo lưu quyền bổ xung tuyên bố về
đường cơ sở và lãnh hải cho hai vùng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa[8].
4. Nội thủy (internal waters)
Theo công ước UNCLOS82, “nội thủy”[9] là vùng nước tính từ đường cơ sở về phía
đất liền của quốc gia ven biển.

3



Hình 3. Đường cơ sở của Việt Nam theo tuyên bố VN1982
Căn cứ theo tuyên bố VN1982, vùng nội thủy của Việt Nam là các vùng biển phía
trong đường cơ sở (vẽ trong hình 3) và các vùng nước nối liền với các vùng biển ấy.
Cũng theo tuyên bố VN1982, nước ta đã khẳng định vùng biển phía tây kinh tuyến
108 độ trong Vịnh Bắc Bộ là vùng nội thủy của Việt Nam theo tính chất của vùng nước
4


lịch sử[10].
Việt Nam có chủ quyền toàn vẹn đầy đủ và tuyệt đối trong vùng nội thủy của
mình. Có thể hiểu một cách đơn giản rằng “vùng nội thủy được coi như một phần lãnh
thổ kéo dài ra phía biển của tổ quốc”. Ở đó ta có thể áp đặt mọi luật lệ của nhà nước lên
mọi đối tượng có hoạt động trong vùng nội thủy đó. Bất cứ sự vi phạm nào đối với vùng
nội thủy của Việt Nam của tổ chức hay cá nhân nước ngoài, khi chưa được sự cho phép
của cơ quan quản lý hành chính đại diện cho chính phủ Việt Nam, hành vi đó dù vô tình
hay cố ý đều bị coi là vi phạm chủ quyền và luật pháp Việt Nam. Đối với hàng hải, các
tàu biển treo cờ quốc tịch nước ngoài khi muốn đi vào vùng nội thủy của Việt Nam đều
phải làm thủ tục xin phép tại cơ quan biên phòng Việt Nam theo pháp luật hiện hành.
5. Lãnh hải (territorial sea)
“Lãnh hải” (territorial sea) là vùng biển liền kề với nội thủy, bề rộng của lãnh hải [11]
(một số tài liệu dùng từ “hải phận quốc gia”) tùy thuộc vào sự lựa chọn của chính phủ
quốc gia ven biển. Tuy nhiền theo công ước UNCLOS82, bề rộng của lãnh hải không
vượt quá 12 hải lý[12] tính từ đường cơ sở. Việt Nam đã tuyên bố trong VN1982 về bề
rộng lãnh hải là 12 hải lý.
Trong vùng lãnh hải quốc gia ven biển có chủ quyền toàn vẹn và đầy đủ [13]. Quốc
gia ven biển có quyền thực thi mọi biện pháp để bảo vệ chủ quyền trên vùng lãnh hải.
Tuy nhiên, trên vùng lãnh hải của một quốc gia, tàu thuyền dân sự được hưởng quyền
“đi qua không gây hại” (innocent passage) [14]. Như vậy chủ quyền của quốc gia ven biển

đối với vùng lãnh hải là chủ quyền toàn vẹn đầy đủ nhưng không tuyệt đối. Quy định
về hành động đi qua không gây hại[15] được giải thích rất chi tiết trong công ước
UNCLOS82.

5


Quốc gia bờ biển có
chủ quyền toàn vẹn
đầy đủ và tuyệt đối

Quốc gia bờ
biển có
quyền chế
Tầu thuyền tài liên quan
được phép +Thuế quan
đi qua
+Tài chính

không gây
hại

+Biên phòng

+Y tế

Tàu bay
được quyền
tự do qua lại


Tầu thuyền được tự do đi lại
Lãnh thổ

Nội thủy

Lãnh hải

Tiếp giáp
lãnh hải

Biển cả

Vùng đặc quyền kinh
Quốc gia
tế
bờ biển có
chủ quyền Quốc gia ven biển được
toàn vẹn
quyền khai thác tài
nguyên trong lòng biển
đầy đủ
nhưng
không
tuyệt đối
Vùng thềm lục địa
Quốc gia ven biển được quyền
khai thác tài nguyên trên đáy biển
và trong lòng đất dưới đáy biển

Hình 4. Qui chế pháp lý của các vùng biển


6. Vùng tiếp giáp lãnh hải (contiguous zone)
Vùng tiếp giáp lãnh hải[16] là vùng biển liền kề với vùng lãnh hải. Vùng tiếp giáp
lãnh hải được tính bắt đầu từ mép ngoài của lãnh hải và mở rộng cho tới khoảng cách 24
hải lý từ đường cơ sở.
Trong tuyên bố VN1982, Việt Nam tuyên bố bề rộng vùng lãnh hải là 12 hải lý và
vùng tiếp giáp lãnh hải là 24 hải lý từ đường cơ sở.
Trên vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia bờ biển được quyền cưỡng chế pháp lý đối
với các đối tượng nước ngoài khi họ có hành động phương hại đến các luật lệ về thuế
khóa, tài chính, biên phòng và y tế của vùng lãnh thổ và lãnh hải.
6


7. Vùng đặc quyền kinh tế (exclusive economic zone)
Vùng đặc quyền kinh tế[17] là vùng biển phía ngoài và liền kề với vùng lãnh hải của
quốc gia ven biển. Quốc gia ven biển có quyền tuyên bố quyền lợi vùng đặc quyền kinh
tế tới giới hạn phía ngoài cùng không quá 200 hải lý từ đường cơ sở. Quốc gia ven biển
có quyền thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên tự nhiên trong vùng đặc
quyền kinh tế. Quốc gia ven biển có quyền thực hiện quyền khai thác quản lý tài nguyên
đó trong lòng biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển. Nội dung chi tiết về qui chế
pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế được ghi rõ trong công ước UNCLOS82 phần 5
(part V).
Trên thực tế khu vực Biển Đông, vùng đặc quyền kinh tế của các nước lân cận lại
trùm lẫn lên nhau. Nội dung này sẽ được nói đến ở những phần sau.
8. Thềm lục địa (continental shelf)
Thềm lục địa[18] của quốc gia bờ biển là phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển,
bắt đầu tính từ mép ngoài của lãnh hải tới mép ngoài của thềm lục địa địa lý hoặc 200
hải lý (NM) từ đường cơ sở. Trong trường hợp thềm lục địa địa lý tiếp tục kéo dài thoai
thoải vượt qua giới hạn 200 hải lý thì quốc gia ven biển có quyền mở rộng vùng thềm
lục địa vượt ra ngoài 200 hải lý (NM) nhưng không vượt quá 350 hải lý (NM) từ đường

cơ sở.
Quốc gia ven biển có quyền khảo sát và khai thác tài nguyên trong vùng thềm lục
địa.
200NM

200NM
350NM

Vùng thềm
lục địa

200NM
350NM

Vùng thềm
lục địa

350NM

Vùng thềm lục địa

Hình 5. Xác định thềm lục địa theo UNCLOS82

9. Biển cả (high sea)
Biển cả[19] là vùng biển phía ngoài vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven
biển. Các quốc gia có biển và quốc gia không có biển đều được chung hưởng nguồn lợi
tài nguyên từ khu vực biển cả.
7



10. Phân chia vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở khu vực Biển Đông.
Phương án phân chia vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa tại Biển Đông
theo đường trung tuyến[20].

Hình 6. Chia Biển Đông theo đường trung tuyến
Như chúng ta đã biết, khoảng cách bờ biển giữa các nước có quyền lợi kinh tế liên
quan đến Biển Đông không đủ lớn để các nước tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa tách biệt với nhau. Những chuyên gia của Liên hợp quốc trong lĩnh vực
8


này đã đề nghị phương án phân chia theo đường trung tuyến như trong hình 6.
Phương án chia Biển Đông (vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) theo đường
trung tuyến là phương pháp khá công bằng. Vùng diện tích biển mà quốc gia ven biển
được quyền khai thác tài nguyên tỉ lệ thuận với chiều dài bờ biển quốc gia. Quốc gia
nào có đường bờ biển dài thì phần diện tích vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
cũng lớn.
Tuy nhiên các quốc gia trong vùng đều không áp dụng phương án phân chia như
vậy. Mỗi một quốc gia đều có những tuyên bố riêng biệt về vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Hình 7 chỉ ra sự tranh chấp giữa các quốc gia liên quan tới khu vực Biển
Đông.

Hình 7. Các quốc gia tuyên bố quyền lợi tại Biển Đông
Trong những tuyên bố liên quan tới Biển Đông, tuyên bố của Trung Quốc là một
tuyên bố bất công bằng nhất. Ranh giới do Trung Quốc vạch ra cách xa bờ biển tỉnh Hải
Nam của họ tới hơn 900 hải lý (NM), và khoảng cách gần nhất tới các nước khu vực
Đông Nam Á chỉ là 50 hải lý. Tuyên bố này của Trung Quốc hoàn toàn trái ngược với
9



cơ sở của công ước UNCLOS82.
11. Mối quan hệ Việt-Trung liên quan tới Biển Đông.
Trải mấy ngàn năm lịch sử, người Hán bên Trung Quốc liên tục có các hành động
bành chướng lân bang. Họ không những sử dụng sức mạnh quân sự để xâm phạm lẫn
nhau, ngay cả khi chưa thực sự chiếm đóng thì cũng tuyên bố sự cai trị “khống” của họ.
Trong sử Trung Quốc còn chép lại việc Hán cao tổ (202TCN) lấy “khống” đất của Triệu
Đà[21] để phong cho Ngô Nhuế. Đến khi nhà Hán thôn tính Nam Việt của họ Triệu
(111TCN), vua Hán lại tiếp tục sáp nhập “khống” Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam của
các vua Hùng[22] vào với nước Hán. Cứ tuyên bố trước đã, để đó, đến 144 năm sau (năm
43) thì cho Mã Viện sang chiếm đóng thật. Mưu đồ bành chướng [23] của người Hán chưa
bao giờ dừng lại qua hai nghìn năm, cái kịch bản xưa cứ diễn đi diễn lại cho đến tận
ngày nay.
Hai quần đảo trên Biển Đông là Hoàng Sa và Trường Sa vốn đã thuộc chủ quyền
của Việt Nam từ thế kỷ 17. Tuy nhiên trong suốt thời gian khoảng trăm năm qua (từ
năm 1909), khi thì dùng quân sự, khi thì bằng những tuyên bố cai trị “khống”, lân bang
liên tục gặm nhấm đất đai của tổ tiên[24].
Thời gian đây, cuộc hải chiến Hoàng Sa [25] ngày 19 tháng 1 năm 1974, 54 người
lính Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh. Quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm
từ đó đến nay. Mười bốn năm sau, ngày 14 tháng 3 năm 1988, người TQ tiếp tục gây ra
cuộc hải chiến Trường Sa[26]. Chiến sự diễn ra tại khu vực các đảo Gạc Ma, Cô Lin, và
Len Đao. Trong trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, Việt Nam bị bắn cháy chìm 3 tàu,
3 chiến sĩ hy sinh, 11 người khác bị thương, 70 người bị mất tích. Sau này Trung Quốc
đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt, 61 người vẫn mất tích và được xem là đã
tử trận. Việt Nam bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao. Trung Quốc
chiếm đảo Gạc Ma từ ngày 16 tháng 3 năm 1988 và vẫn giữ cho đến nay. Hành động
dùng quân sự để chiếm đoạt biển đảo năm 1974 và 1988 của Trung Quốc là hành động
vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, ảnh hưởng đến hòa bình thế giới, đi ngược lại
lợi ích chung hưởng hòa bình của nhân loại.
Không những thế, Trung Quốc còn liên tục có những tuyên bố gây tranh cãi trong
thời gian qua. Đó là cuối năm 2005, Trung Quốc công bố tấm bản đồ vùng đặc quyền

kinh tế và thềm lục địa của Trung Quốc tại biển Đông (hình 8). Theo Công ước
UNCLOS82, một quốc gia ven biển chỉ được phép tuyên bố vùng thềm lục địa đến giới
hạn xa nhất là 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Tuy nhiên, với tấm bản đồ ấy, nơi xa nhất
cách đường cơ sở của Trung Quốc hơn 900 hải lý. Nơi gần bờ biển Việt Nam nhất chỉ
có 50 hải lý (khoảng 90km). Cuối năm 2007, chỉ hai năm sau tuyên bố gây tranh cãi
trên, Quốc vụ viện Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố cấp huyện Tam Sa [27]
10


(Hình 9) trực thuộc tỉnh Hải Nam để “quản lý” Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Mỗi khi Trung Quốc có động thái vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên khu vực
Biển Đông, chính phủ Việt Nam đều lên tiếng chính thức phản đối. Tuy nhiên, sau tuyên
bố thành lập Tam Sa của Trung Quốc, không chỉ chính phủ lên tiếng phản đối, mà còn
có rất nhiều người Việt Nam biểu tình [28] phản đối hành động vi phạm nghiêm trọng chủ
quyền nước ta. Đó là những cuộc biểu tình ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, ở Mỹ, Pháp,
Anh… và một số nơi khác. Trong khi đó một cựu quan chức ngoại giao [29] của Trung
Quốc lấy lý do hội nhập quốc tế để chống chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước của
người Việt Nam. Trong khi họ đề cao chủ nghĩa dân tộc cho nhân dân của họ, họ lại
mưu đồ chống chủ nghĩa dân tộc của chúng ta. Trung ương Đảng ta đã rất sáng suốt khi
đề ra đường lối “hội nhập nhưng không hòa tan”, người Việt sẽ mãi là người Việt.
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả nhưng chủ quyền của Việt Nam là bất khả xâm
phạm.

Hình 8. Tuyên bố của Trung Quốc
”ranh giới” trên biển

Hình 9. Tuyên bố của Quốc vụ viện
Trung Quốc – thành lập Tam Sa

11



12. Lời kết.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về “Chiến lược kinh tế biến Việt Nam đến năm
2020” đã nêu rõ đến năm 2020 đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu
từ biển, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước.
Tuy nhiên, còn khá nhiều người chưa hiểu về nguồn lợi từ biển và những vấn đề
liên quan đến chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Bởi vậy để có thể thực hiện
NQTW4 khóa X “Chiến lược kinh tế biến Việt Nam đến năm 2020”, đã rất cấp bách,
bằng nhiều phương pháp và phương tiện phổ biến cho mọi người dân những kiến thức
liên quan tới quyền lợi của nước ta tại Biển Đông. Người ta cần biết nhiều hơn nữa về
những người như nhà sử học Dương Trung Quốc, tiến sỹ Nguyễn Nhã, giáo sư Hoàng
Xuân Hãn,… Quĩ nghiên cứu Biển Đông (SEAS Foundation) cũng tập hợp được các
học giả yêu nước để cùng tìm đến một giải pháp hòa bình cho Biển Đông.
Song song với việc củng cố kiến thức về Biển Đông, chúng ta cũng cần phải nâng
cao tinh thần dân tộc đặc biệt là giới thanh niên trí thức – chủ nhân tương lai của đất
nước. Điều này cũng đã được Trung ương đưa vào nghị quyết[30] để thực hiện.
Chú thích
[1] Công Ước về Luật Quốc Tế cho Phòng Ngừa Va Chạm Tàu Thuyền Trên Biển 1972
- Convention on the International Regulations for Preventing Collisions at Sea,
1972 (COLREGs). Công ước này do Tổ chức Hàng hải Quốc tế ban hành. Một số
URL tham khảo nội dung bằng tiếng Anh:
/> />Trang web của Tổ chức Hàng hải Quốc tế - International Maritime Organization
(IMO): />[2] Công Ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 - United Nations Convention on
the Law of the Sea 1982 (UNCLOS82). Một số URL tham khảo nội dung bằng tiếng
Anh:
/> />[3] Đường cơ sở - UNCLOS82, Part II, Article 5, “baseline”
[4] Lãnh hải - hải phận - UNCLOS82, Part II, “territorial sea”
Legal status of the territorial sea, of the air space over the territorial sea and of its
bed and subsoil

1. The sovereignty of a coastal State extends, beyond its land territory and internal
waters and, in the case of an archipelagic State, its archipelagic waters, to an adjacent
12


belt of sea, described as the territorial sea.
2. This sovereignty extends to the air space over the territorial sea as well as to its bed
and subsoil.
3. The sovereignty over the territorial sea is exercised subject to this Convention and
to other rules of international law.
[5] Biển cả - UNCLOS82, Part III, “high sea”
[6] Đường cơ sở thẳng - UNCLOS82, Part II, Article 7, “straight baseline”
[7] Tuyên bố 12 tháng Mười Một năm 1982 bởi Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam về đường cơ sở xác định lãnh hải của Việt Nam - Statement of 12 November
1982 by the Government of the Socialist Republic of Vietnam on the Territorial
Sea Baseline of Vietnam (Tuyên bố VN1982).
[8] (Tuyên bố VN1982) – Đường cơ sở cho Hoàng Sa và Trường Sa - (4) The baseline
for measuring the breadth of the territorial sea of the Hoang Sa and Truong Sa
Archipelagos will be determined in a coming instrument in conformity with
paragraph 5 of the 12 May 1977 statement of the Government of the Socialist
Republic of Viet Nam.
[9] Nội thủy - UNCLOS82, Part II, Article 8 “internal waters”
[10] Vịnh Bắc Bộ là vùng nước nội thủy theo qui chế vùng nước lịch sử - (Tuyên bố
VN1982) (3) The Gulf of Bac Bo (Tonkin Gulf) is a gulf situated between the
Socialist Republic of Viet Nam and the People's Republic of China; the maritime
frontier in the gulf between Viet Nam and China is delineated according to the 26
June 1887 Convention of frontier boundary signed between France and the Qing
Dynasty of China.
The part of the gulf appertaining to Viet Nam constitutes the historic waters and is
subjected to the juridical régime of internal waters of the Socialist Republic of Viet

Nam.
The baseline from Con Co Island to the mouth of the gulf will be defined following
the settlement of the problem relating to the closing line of the gulf.
[11] Bề rộng lãnh hải - UNCLOS82, Part II, Article 3 “breadth of territorial sea”
Breadth of the territorial sea
Every State has the right to establish the breadth of its territorial sea up to a limit not
exceeding 12 nautical miles, measured from baselines determined in accordance with
this Convention.
[12] Hải lý - Nautical mile - là chiều dài của 1 phút cung kinh tuyến, (1 hải lý) 1NM =
1852 m.
[13] Qui chế pháp lý vùng lãnh hải - UNCLOS82, Part II, Article 2
13


[14] Quyền đi qua không gây hại – “Innocent passage in the territorial sea” UNCLOS82, Part II, Section 3.
[15] Qui chế đi qua không gây hại - UNCLOS82, Part II, Section 3.
Article17
Right of innocent passage
Subject to this Convention, ships of all States, whether coastal or land-locked, enjoy
the right of innocent passage through the territorial sea.
Article18
Meaning of passage
1. Passage means navigation through the territorial sea for the purpose of:
(a) traversing that sea without entering internal waters or calling at a roadstead or port
facility outside internal waters; or
(b) proceeding to or from internal waters or a call at such roadstead or port facility.
2. Passage shall be continuous and expeditious. However, passage includes stopping
and anchoring, but only in so far as the same are incidental to ordinary navigation or
are rendered necessary by force majeure or distress or for the purpose of rendering
assistance to persons, ships or aircraft in danger or distress.

Article19
Meaning of innocent passage
1. Passage is innocent so long as it is not prejudicial to the peace, good order or
security of the coastal State. Such passage shall take place in conformity with this
Convention and with other rules of international law.
2. Passage of a foreign ship shall be considered to be prejudicial to the peace, good
order or security of the coastal State if in the territorial sea it engages in any of the
following activities:
(a) any threat or use of force against the sovereignty, territorial integrity or political
independence of the coastal State, or in any other manner in violation of the
principles of international law embodied in the Charter of the United Nations;
(b) any exercise or practice with weapons of any kind;
(c) any act aimed at collecting information to the prejudice of the defence or security
of the coastal State;
(d) any act of propaganda aimed at affecting the defence or security of the coastal
State;
(e) the launching, landing or taking on board of any aircraft;
(f) the launching, landing or taking on board of any military device;
14


(g) the loading or unloading of any commodity, currency or person contrary to the
customs, fiscal, immigration or sanitary laws and regulations of the coastal State;
(h) any act of wilful and serious pollution contrary to this Convention;
(i) any fishing activities;
(j) the carrying out of research or survey activities;
(k) any act aimed at interfering with any systems of communication or any other
facilities or installations of the coastal State;
(l) any other activity not having a direct bearing on passage.
[16] Vùng tiếp giáp lãnh hải – “contiguous zone” - UNCLOS82, Part II, Section 4,

Article 33.
Contiguous zone
1. In a zone contiguous to its territorial sea, described as the contiguous zone, the
coastal State may exercise the control necessary to:
(a) prevent infringement of its customs, fiscal, immigration or sanitary laws and
regulations within its territory or territorial sea;
(b) punish infringement of the above laws and regulations committed within its
territory or territorial sea.
2. The contiguous zone may not extend beyond 24 nautical miles from the baselines
from which the breadth of the territorial sea is measured.
[17] Vùng đặc quyền kinh tế – “exclusive economic zone” - UNCLOS82, Part V.
Specific legal regime of the exclusive economic zone
The exclusive economic zone is an area beyond and adjacent to the territorial sea,
subject to the specific legal regime established in this Part, under which the rights and
jurisdiction of the coastal State and the rights and freedoms of other States are
governed by the relevant provisions of this Convention.
[18] Vùng thềm lục địa – “continental shelf” - UNCLOS82, Part VI.
Rights of the coastal State over the continental shelf
1. The coastal State exercises over the continental shelf sovereign rights for the
purpose of exploring it and exploiting its natural resources.
2. The rights referred to in paragraph 1 are exclusive in the sense that if the coastal
State does not explore the continental shelf or exploit its natural resources, no one
may undertake these activities without the express consent of the coastal State.
3. The rights of the coastal State over the continental shelf do not depend on
occupation, effective or notional, or on any express proclamation.
4. The natural resources referred to in this Part consist of the mineral and other nonliving resources of the seabed and subsoil together with living organisms belonging to
15


sedentary species, that is to say, organisms which, at the harvestable stage, either are

immobile on or under the seabed or are unable to move except in constant physical
contact with the seabed or the subsoil.
[19] Biển cả - “high sea” - UNCLOS82, Part III.
[20] Đường trung tuyến: là tập hợp những điểm thỏa mãn điều kiện cách đều điểm gần
nhất trên bờ biển của các quốc gia lân cận.
[21] Bài số 5 trong loạt bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn
động của Hoàng Hải Vân đăng trên báo Thanh Niên Online từ 26 tháng Hai năm
2008 đến mùng 6 tháng Ba năm 2008. Thiền sư giáo sư Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát:
“Sử Trung Quốc còn chép rằng năm 202 (trước CN) Hán Cao tổ Lưu Bang, ông cố
của Hán Vũ đế lấy các đất Tượng Quận, Quế Lâm, Nam Hải của Triệu Đà phong cho
Ngô Nhuế, nhưng ba nơi đó là của Triệu Đà. "Đà chưa hàng, xa đoạt khống, lấy
phong cho Nhuế vậy".
Số 1: />Số 2: />Số 3: />Số 4: />Số 5: />Số 6: />Số 7: />[22] Bài số 5 trong loạt bài Thiền sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn
động. Thiền sư giáo sư Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát: “Không có cái gọi là thời kỳ
"Bắc thuộc lần thứ nhất". Việc lập 9 quận, trong đó có Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật
Nam thuộc Hán chỉ là sự "đoạt khống" đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước
bành trướng của nhà Hán mà thôi”
[23] Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa – Tạp chí Sử Địa số 29 – 1975 – Chủ
nhiệm: TS Nguyễn Nhã. “Một gương sáng lịch sử là mỗi khi thế nước suy hèn vì chia
rẽ và nội loạn thì mỗi khi lân bang lấn cõi: Hồ chịu mất đất Cổ-lân (thuộc Lạng Sơn
1405), Mạc dâng đất La-phù (Quảng Ninh 1540), Trịnh mất đất nhiều rộng ở biên
giới tây bắc và triều Nguyễn khi bị quân Pháp đặt chế độ bảo hộ, ta đã mất nhiều đất,
nhất là mỏ đồng Tụ-long.” (Trích trong bài “Đúng ba trăm năm trước” của Hoàng
Xuân Hãn, Sử Địa, số 27 và 28, 1974, tr 215)
[24]
Quĩ
nghiên
cứu
Biển
Đông

(SEAS
Foundation)
/>Xác định được tiềm năng của biển đảo tổ tiên người Việt Nam chúng ta đã xác nhận
chủ quyền trên các quần đảo mà chúng ta phát hiện ra. Ngay từ thế kỷ thứ 17, triều
16


đình Việt Nam đã thực thi quyền làm chủ của mình trên Quần đảo Hoàng Sa ( 黄沙群
島 Paracel Archipelago) và Quần đảo Trường Sa ( 長沙群島 Spratly Archipelago).
Chủ quyền đó được thực thi liên tục suốt hơn ba thế kỷ cho đến ngày nay. Tuy nhiên
mấy chục năm gần đây Việt Nam ngày càng mất dần chủ quyền của mình trên vùng
biển đảo do sự xâm lấn của nước láng giềng Trung Quốc.
Năm 1909: Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh thám thính quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1920: Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp khai thác quần đảo Hoàng Sa. Pháp
từ chối.
Bắt đầu năm 1920: Pháp kiểm soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.
Ngày 30-3-1921: Tổng đốc Lưỡng Quảng sáp nhập Hoàng Sa với Hải Nam. Pháp
không phản đối.
Bắt đầu từ năm 1925: Tiến hành những thí nghiệm khoa học trên đảo do Dr. Krempt,
Giám đốc Viện Hải dương học Nha Trang tổ chức.
8-3-1921: Toàn quyền Đông Dương tuyên bố hai quần đảo: Hoàng Sa và Trường Sa
là lãnh thổ của Pháp.
Năm 1927: Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.
Năm 1930: Ba tàu Pháp: La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale chiếm quần đảo
Trường Sa và cắm cờ Pháp trên quần đảo này.
Năm 1931: Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa, ban quyền
khai thác cho Công ty Anglo-Chinese Development. Pháp phản đối.
Năm 1932: Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử trên quần đảo
Hoàng Sa. Pháp sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1933: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng đề nghị

với Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối.
Năm 1938: Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng
người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1946: Nhật bại trận phải rút lui. Pháp trở lại Pattle (An Vĩnh) nhưng vì chiến
cuộc ở Việt Nam nên phải rút.
Năm 1947: Quân của Tưởng Giới Thạch đổ bộ lên đảo Woody (đảo Phú Lâm) của
quần đảo Hoàng Sa. Pháp phản đối và gửi quân Pháp - Việt trở lại đảo. Hai bên đàm
phán tại Paris. Pháp đề nghị đưa ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối.
Năm 1950: Quân của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Woody.
Năm 1951: Tại Hội nghị San Francisco, Nhật tuyên bố từ bỏ tất cả các đảo, Đại diện
chính phủ Bảo Đại là Thủ tướng Trần Văn Hữu khẳng định chủ quyền của Việt Nam
trên hai quần đảo mà không có nước nào lên tiếng phản đối.
Năm 1956: Quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Đội canh của Pháp trên đảo Pattle
17


được thay thế bởi đội canh của Việt Nam. Trung Quốc cho quân chiếm phía Đông của
quần đảo Hoàng Sa, tức nhóm Amphitrite (Nhóm Đông). Trong khi phía Tây, nhóm
Crescent (Lưỡi Liềm), vẫn do quân Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ.
Ngày 1-6-1956: Ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ
quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo.
Ngày 22-8-1956: Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà cắm cờ trên quần đảo
Trường Sa và dựng bia đá.
Ngày 4/9/1958: Chu Ân Lai, Thủ tướng nước CHNDTH công khai tuyên bố với quốc
tế về quyết định của Chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của
Hoa Lục, có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải rõ ràng (trong đó bao gồm
cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Năm 1961: Việt Nam Cộng hoà sáp nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Quảng Nam.
Năm 1973: Quần đảo Trường Sa được sáp nhập vào tỉnh Phước Tuy.
[25]

Quĩ
nghiên
cứu
Biển
Đông
(SEAS
Foundation)
/>Ngày 19/1/1974: Trung Quốc oanh tạc và chiếm Hoàng Sa, giết chết 54 lính Việt
Nam Cộng hòa. Quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ đó đến nay. Từ
sau ngày 9/1/1974, Trung Quốc tập hợp nhiều học giả viết tài liệu nhằm chứng minh
chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa (Tây Sa) và Trường Sa (Nam
Sa). Hai tác giả nổi bật của họ là Hàn Chấn Hoa (Tổng hợp sử liệu các đảo Nam Hải
nước ta) và Lý Kim Thành.
Năm 1987: Trung Quốc thực hiện nhiều cuộc tuần tiễu ở Trường Sa và xây căn cứ
quân sự ở đây.
[26]
Quĩ
nghiên
cứu
Biển
Đông
(SEAS
Foundation)
/>Ngày 14/3/1988: Trung Quốc bắn chìm ba tàu hải quân Việt Nam. Trên 70 người lính
Việt Nam bị mất tích. Trung Quốc đã chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra
cứu quân Việt Nam.
Tháng 4/1988: Trung Quốc tách Hải Nam ra khỏi tỉnh Quảng Đông để thành lập tỉnh
mới, trong đó có Trường Sa và Hoàng Sa
Năm 1989: Trung Quốc chiếm thêm một đảo/đá nữa của Quần đảo Trường Sa.
Năm 1992: Trung Quốc chiếm thêm một số đảo/đá nữa.

Năm 1994: Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu cho
Công ty Crestone.
Năm 2004: Việt Nam mở tuyến du lịch đến ba đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt
Nam nắm giữ. Trung Quốc phản đối.
18


Tháng 1/2005: Hải quân Trung Quốc bắn chết 8 ngư dân Việt Nam đang đánh cá ở
vùng biển chủ quyền Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ.
Năm 2006: Trung Quốc mở tuyến du lịch Trường Sa và Hoàng Sa, xây sân bay và bến
cảng ở đây. Việt Nam phản đối.
Tháng 9/2006: Hải quân Trung Quốc bắn xối xả vào ngư dân Việt Nam vào khu vực
Quần đảo Hoàng Sa tránh bão.
Ngày 9/7/2007: Hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư
dân Việt Nam trong vùng biển Quần đảo Trường Sa.
[27]
Quĩ
nghiên
cứu
Biển
Đông
(SEAS
Foundation)
/>Tháng 11/2007, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền "không bàn cãi" (undisputable
sovereignty) trên hai quần đảo này bằng cách lập huyện Tam Sa quản lý ba quần đảo
trên biển đông, bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngoài Trung Quốc liên tục xâm chiếm đảo đá và gây mất ổn định trong khu vực Biển
Đông, các nước khác trong khu vực gồm Đài Loan, Phi-líp-pin, Brunei, Malaysia
cũng tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Tình hình diễn biến trên khu
vực Biển Đông đang cho thấy sự mất ổn định trong khu vực và ảnh hưởng nghiêm

trọng tới an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế của Việt Nam.
[28]
Quĩ
nghiên
cứu
Biển
Đông
(SEAS
Foundation)
/>Từ các tình hình và sự kiện trên, nhân dân Việt Nam vô cùng căm phẫn trước hành
động ngang ngược của Trung Quốc. Nhiều người đã xuống đường biểu tình trước Đại
sứ quán và Lãnh sự quán Trung Quốc ở Hà Nội và Hồ Chí Minh vào các ngày
9/12/2007 và 16/12/2007. Tình hình trên Biển Đông, đặc biệt tranh chấp trong khu
vực hai Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang là mối quan tâm của nhiều người Việt
Nam.
[29] BBC Tiếng Việt, TQ đặt VN trong hướng đối ngoại 2008,
/>rns.shtml
Cựu đại sứ Trung Quốc tại Pháp, ông Ngô Kiến Dân, hiện là Hiệu trưởng Đại học
Ngoại giao Trung Quốc trả lời báo Quốc tế Tiên Khu về chuyện “một số vấn đề
không thuận lợi cho quan hệ Trung-Việt” như sau:
“Nguyên tắc cơ bản của chúng ta là giải quyết khác biệt trên cơ sở hai bên cùng có
lợi, thông qua trao đổi, đàm phán. Ở một số nước, chủ nghĩa dân tộc đang lên cao. Nó
không đồng thuận với xu hướng toàn cầu là hợp tác quốc tế. Không nước nào có thể
đóng cửa mà có được tăng trưởng,"
19


Giáo sư Ngô Kiến Dân cũng bày tỏ quan điểm rằng:
"Hai bên cần công nhận rằng việc để tinh thần dân tộc chủ nghĩa trào ra sẽ làm tổn
hại quyền lợi của cả hai. Hai nước cũng cần hợp tác để ngăn chặn chủ nghĩa dân tộc

bằng đàm phán và trao đổi thông tin”.
[30] Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 5/2/2007
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững.
/>topic=191&subtopic=9&leader_topic=700&id=BT210422182
Khơi dậy mạnh mẽ lòng tự tôn, tự hào về lịch sử, truyền thống dân tộc; bảo vệ và làm
phong phú thêm các giá trị truyền thống, phát huy vai trò nền tảng và động lực tinh
thần của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Kết hợp hài hòa giữa giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa
tiên tiến và tăng cường giao lưu với các nền văn hóa bên ngoài.

20



×