Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp khai thác than

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.54 KB, 94 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn phải đối
mặt với cạnh tranh rất gay gắt. Các yếu tố của môi trường kinh doanh đã
tạo ra những cơ hội và cả những nguy cơ rủi ro ảnh hưởng tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngành công nghiệp nói chung và công nghiệp khai thác than nói
riêng là những ngành có nhiều rủi ro tiềm ẩn. Tuy nhiên, cho tới nay
trong các doanh nghiệp công nghiệp khai thác than ở nước ta, các vấn đề
về rủi ro và quản trị rủi ro chưa được nghiên cứu một cách hệ thống về
cơ sở lý thuyết cũng như vận dụng cơ sở lý thuyết đó để quản trị rủi ro
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì thế, cần thiết phải có một
nghiên cứu mang tính tổng quát, nhằm đưa ra các định hướng trong quá
trình quản trị rủi ro, với mục đích giảm thiểu các thiệt hại phát sinh khi
rủi ro đó xảy ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp công nghiệp khai thác than.
Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Hoàn thiện hệ thống quản trị
rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công
nghiệp khai thác than, áp dụng cho Công ty TNHH MTV than Nam
Mẫu – VINACOMIN ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
chuyên ngành Quản trị kinh doanh.

1


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu: của luận văn là tạo ra cơ sở khoa học cho
các nhận thức về rủi ro và quản trị rủi ro, góp phần hoàn thiện phương
pháp đưa ra các quyết định quản trị ở doanh nghiệp công nghiệp khai
thác than khi lập dự án đầu tư, xây dựng kế hoạch, tổ chức sản xuất v.v...
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


Đối tượng nghiên cứu: của luận văn là các rủi ro trong các doanh
nghiệp nói chung, doanh nghiệp khai thác than Hầm lò ở Quảng Ninh
nói riêng trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu những khái niệm cơ bản về rủi ro và quản trị rủi ro trong hoạt
động của DN.
- Nghiên cứu các phương pháp quản trị rủi ro trong hoạt động của DN
thường được sử dụng.
- Phân tích đánh giá hệ thống quản trị rủi ro Công ty TNHH một
thành viên Than Nam Mẫu-VINACOMIN
- Tìm biện pháp hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro trong hoạt động
của Công ty Than Nam Mẫu-VINACOMIN và áp dụng cho các Công ty
than hầm lò nói chung.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hoá các vấn đề có tính lý luận về rủi ro và quản trị rủi
ro.

2


- Điều tra, nghiên cứu hệ thống quản trị rủi ro trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của Công ty TNHH MTV than Nam Mẫu –
VINACOMIN.
- Tìm ra mặt mạnh, mặt yếu trong hệ thống quản trị rủi ro của
Công ty TNHH MTV than Nam Mẫu – VINACOMIN.
- Xây dựng các biện pháp hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro cho
Công ty.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hóa lại những vấn đề có tính lý luận và các khái niệm
về rủi ro và quản trị rủi ro trong sản xuất kinh doanh trong các doanh

nghiệp công nghiệp khai thác than, cụ thể là Công ty TNHH MTV than
Nam Mẫu - VINACOMIN.
- Lập phiếu điều tra về thực trạng quản trị rủi ro của DN.
- Lựa chọn hệ thống quản trị rủi ro phù hợp cho công tác khai thác
than.
Xây dựng được hệ thống các biện pháp quản trị rủi ro cho Công ty
Than Nam Mẫu- VINACOMIN.
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và bảng tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương :
Chương 1: Tổng quan lý luận về quản trị rủi ro trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Chương 2: Đánh giá hệ thống quản trị rủi ro trong hoạt động sản
3


xuất

kinh doanh của Công ty TNHH MTV than Nam Mẫu -

VINACOMIN
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tại
Công ty TNHH MTV than Nam Mẫu - VINACOMIN

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

1.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh
Có nhiều ý kiến về khái niệm rủi ro (RR), nhưng chung quy lại: rủi
ro là bất trắc, là sự cố không mong đợi, nếu rủi ro xảy ra sẽ gây mất mát,
thiệt hại về tính mạng, tinh thần, tài sản và danh tiếng của mọi doanh
nghiệp, mọi tổ chức.
1.1.1. Khái niệm cơ bản: Nguy cơ và rủi ro
1.1.1.1. Nguy cơ rủi ro (Risky): Nguy cơ là tình thế có thể gây ra
những biến cố bất lợi, ví dụ: nguy cơ chiến tranh, cháy nổ, dịch bệnh.
Nguy cơ càng cao thì tính bất ngờ của sự cố càng giảm và ngược lại.
Đến một mức nào đó, nguy cơ sẽ trở thành một hoàn cảnh mà chắc chắn
sự kiện bất ngờ sẽ xảy ra. Ví dụ: một công trình hầm lò không được
chống đỡ chắc chắn (nguy cơ rủi ro cao) thì nếu do một yếu tố tác động
nào đó mà công trình hầm lò bị đổ thì cũng chả có gì là quá bất ngờ (tính
bất ngờ giảm). Hay ta nói xác suất của sự sập hầm lò là cao hay rất cao.
Như vậy, nguy cơ rủi ro là những đe doạ nguy hiểm có thể xảy ra, được
đo lường bằng xác suất.
1.1.1.2. Rủi ro (Risks) "Rủi ro là những điều không chắc chắn đối
với những kết quả trong tương lai hay là những khả năng của kết quả
bất lợi". Nếu người ta xem xét rủi ro trong khả năng xuất hiện thường
xuyên, người ta có thể đo lường rủi ro dựa trên tỷ lệ với một bên là mức
độ chắc chắn xảy ra với bên còn lại là mức độ chắc chắn không xảy ra.

5


Khi xác suất mức độ chắc chắn xảy ra hoặc không xảy ra bằng nhau, thì
độ RR là lớn nhất, hay như người ta nói: “một mất, một còn”.
Rủi ro là sự kiện bất lợi, bất ngờ đã xảy ra gây tổn thất về người và
của.
Rủi ro có 03 tính chất:

+ Rủi ro là sự kiện bất ngờ xảy ra. Đó là sự kiện mà con người
không lường trước được một cách chắc chắn, nghĩa là nó có thể xuất
hiện vào một thời điểm bất kỳ trong tương lai, bất kỳ ở đâu và cũng
không thể xác định được tổn thất một cách chính xác.
+ Rủi ro là sự cố gây tổn thất. Tổn thất có thể là hữu hình và vô
hình.
+ Rủi ro là sự kiện ngoài mong đợi.
1.1.2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh
Rủi ro trong sản xuất kinh doanh (SXKD) đối với các doanh
nghiệp (DN) là sự biến động về giá trị kinh tế, thu nhập và danh tiếng do
những biến cố bất lợi xảy ra trong hoạt động và trong môi trường.
Rủi ro trong SXKD mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản như bất
kỳ một loại rủi ro nào. Tuy nhiên, trong SXKD thường có nhiều nhân tố
tác động, ảnh hưởng và làm gia tăng bất trắc. Những bất trắc dẫn đến
“những sai lệch bất lợi so với kết quả dự tính hay mong chờ” của doanh
nghiệp.
Nói cách khác, RR trong SXKD là khả năng xảy ra sự kiện không
mong đợi tác động ngược lại với thu nhập và vốn đầu tư.
Rủi ro sản xuất kinh doanh rất đa dạng và phức tạp bởi quá trình
SXKD chịu tác động từ nhiều yếu tố, không những từ những yếu tố
6


khách quan bên ngoài mà còn chính từ nội bộ doanh nghiệp, từ nền kinh
tế thế giới và từ chính nền kinh tế trong nước. Để có những chiến lược
và biện pháp quản trị rủi ro hiệu quả thì con người cần phải biết nhận
dạng, đánh giá và phân loại rủi ro.
1.2. Phân loại các loại rủi ro thường gặp trong kinh doanh
1.2.1. Xét theo tính chất của rủi ro
1.2.1.1. Rủi ro suy đoán: hay rủi ro đầu cơ (speculative Risks)

Đây là loại rủi ro gắn liền với khả năng thành bại trong hoạt dộng
của DN như : đầu tư, kinh doanh, đấu thầu, đầu cơ. Đặc trưng là trong
việc mua cổ phần , cổ phiếu – những người trong cuộc chơi suy rằng xác
suất thành công nhỏ hơn xác suất rủi ro. Độ rủi ro càng lớn thì khả năng
thu lợi nhuận càng cao. Cũng có thể có rủi ro không thể suy đoán được :
đó là những rủi ro mà tần số xuất hiện của nó bất thường và khó dự đoán
được.
1.2.1.2. Rủi ro thuần (Pure Risks)
Rủi ro thuần nếu đã xảy ra thì chỉ có thể dẫn đến những thiệt hại
mất mát mà không có cơ hội kiếm lời, các loại rủi ro này có thể xảy ra
hoặc không xảy ra như là: bão lụt, sóng thần, hỏa hoạn, động đất, khủng
hoảng kinh tế, đổ vỡ, hỏng tàu, đầu tư sai lầm, hợp đồng kinh doanh bị
vi phạm …
1.2.1.3. Rủi ro về mức cầu (Demand Risks)
Rủi ro này xảy ra khi đột nhiên mức cầu giảm xuống trong khi sản
phẩm đã được sản xuất hay máy móc, nguyên vật liệu đã mua, mọi khâu
sản xuất đã được chuẩn bị. Rủi ro này còn được gọi là rủi ro đầu ra.
1.2.1.4. Rủi ro đầu vào (Input Risks)
7


Rủi ro này xảy ra khi hợp đồng tiêu thụ sản phẩm hay hợp đồng
sản xuất, xây dựng đã ký, nhưng chi phí nguyên vật liệu, tiền công đột
ngột tăng.
1.2.1.5. Rủi ro tài chính ( Fanancial Risks)
Rủi ro này liên quan đến việc huy động vốn, đến sự thay đổi của tỷ
giá hối đoái. Những khoản phát sinh tăng mà không buộc khách
hàng chịu.
Rủi ro tài chính là rủi ro phát sinh từ độ nhạy cảm của các nhân
tố giá cả thị trường như lãi suất, tỷ giá, giá cả hàng hóa, chứng khoán

và những rủi ro do doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính - sử
dụng nguồn vốn vay - trong kinh doanh, tác động đến thu nhập của
doanh nghiệp.
a) Rủi ro lãi suất
Trong hoạt động kinh doanh, hầu như tất cả các doanh nghiệp đều
phải sử dụng vốn vay. Khi lập kế hoạch kinh doanh, tuy lãi suất tiền
vay đã được dự tính, song có rất nhiều nhân tố nằm ngoài tầm kiểm
soát của doanh nghiệp tác động đến lãi suất tiền vay. Khi lạm phát xảy
ra, những tính toán, dự kiến trong kế hoạch kinh doanh ban đầu bị đảo
lộn.
b) Rủi ro tỷ giá
Rủi ro tỷ giá là sự thay đổi tỷ giá ngoại tệ mà doanh nghiệp
không thể dự báo trước. Trong trường hợp các giao dịch của doanh
nghiệp thực hiện trên cơ sở tỷ giá ngoại tệ mà hàng hóa đã được định
giá trước, khi tỷ giá có sự biến động có thể tạo ra rủi ro dẫn đến
thua lỗ. Tùy theo quy mô sử dụng ngoại tệ, doanh nghiệp có thể
8


chịu số lỗ do rủi ro về tỷ giá nhiều hay ít. Ví dụ theo số liệu của Bộ Tài
chính, việc kinh doanh xăng dầu của các DN ở nước ta thời gian qua đã
lỗ trên 1 ngàn tỷ đồng do tỷ giá thay đổi.
c) Rủi ro biến động giá cả hàng hóa
Đối với các doanh nghiệp có các giao dịch mua, bán hàng hóa
theo hợp đồng cố định giá trong một thời gian dài, rủi ro biến động giá
cả hàng hóa có thể sẽ là một rủi ro lớn. Đặc biệt trong trường hợp
nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, giá cả hàng hóa thay đổi hàng ngày.
Đối với đa số doanh nghiệp sản xuất, sản phẩm đầu ra thường được ký
hợp đồng theo đơn hàng trước khi sản xuất, khi giá cả biến động,
nguyên vật liệu đầu vào tăng, nhưng giá bán sản phẩm đã cố định từ

trước, nguy cơ thua lỗ là rất lớn.
d) Rủi ro trong tín dụng thương mại (mua bán chịu)
Rủi ro tín dụng là tính không chắc chắn và tiềm ẩn về khoản
lỗ do không có khả năng thanh toán của bên đối tác. Rủi ro tín
dụng có thể từ nguyên nhân vì các đối tác không thực hiện đầy đủ
trách nhiệm pháp lý, chẳng hạn như lẽ ra phải thanh toán tiền mua
hàng, nhưng lại không thanh toán đúng hạn, hoặc thanh toán không
đầy đủ, hoặc thậm chí từ chối thanh toán vì nhiều lý do. Ở nước ta,
nhiều DN sau một thời gian hoạt động đã bị phá sản, thậm chí “biến
mất”. Điều này cũng làm gia tăng rủi ro tín dụng. Mặt khác tỉ lệ lạm
phát cao cũng góp phần gia tăng rủi ro tín dụng.
1.2.2. Xét loại theo đối tượng rủi ro
1.2.2.1. Rủi ro tài sản (Property Risks)
9


Rủi ro này liên quan đến việc mất tài sản : bị phá hoại, bị trộm
cắp...Rủi ro tài sản là các đối tượng có thể được lợi hoặc chịu tổn thất về
vật chất, tài sản tài chính hay tài sản vô hình (danh tiếng, hỗ trợ về chính
trị , quyền tác giả ) và các kết quả này xảy ra do phải chịu các yếu tố
mạo hiểm hoặc rủi ro. Tài sản có thể bị hư hỏng, tàn phá, mất mát hoặc
giám giá bằng nhiều cách khác nhau.
1.2.2.2. Rủi ro pháp lý
Rủi ro pháp lý xảy ra do các DN không hiểu thấu đáo về pháp luật
trong hoạt động SXKD, trong việc ký các hợp đồng kinh tế nhất là
những hợp đồng kinh tế có yếu tố nước ngoài. Rủi ro pháp lý cũng có
thể xảy ra khi DN không am hiểu luật pháp của nước đối tác. Như ta đã
biết, trên thế giới có các hệ thống pháp luật khác nhau như: luật đạo
giáo, luật dân sự,… các hệ thống luật đó thường có những điểm xung
đột, nếu không thấu hiểu sẽ dẫn đến rủi ro.

1.2.2.3. Rủi ro về nhân lực
Rủi ro về nhân lực là đối tượng liên quan đến “ tài sản con người”
của doanh nghiệp. Rủi ro có thể gây tổn thương hoặc tử vong cho con
người trong DN hay các đối tượng có liên quan đến doanh nghiệp như
khách hàng, người cung cấp, người cho vay, người giữ cổ phiếu… Về
phương diện rủi ro suy đoán, một nhân viên có thể xem là một đối tượng
rủi ro về nguồn lực nhưng năng suất của họ có thể đem lại kết quả tích
cực. Một thiết bị kỹ thuật cao có thể xem là nguồn tổn thất (nếu gây ra
tai nạn ) đồng thời lại là nguồn tạo ra lợi ích (làm tăng năng suất). Trong
trường hợp này, chiến lược quản trị rủi ro phải kết hợp các yếu tố làm
giảm tổn thất đồng thời cực đại được lợi ích (huấn luyện cho nhân viên).
10


Cuối cùng, ta không nên nghĩ rủi ro về nguồn lực luôn liên hệ với các
thiệt hại về thể xác, sự bất ổn về kinh tế cũng là những tổn thất phổ biến
đối với nguồn nhân lực (mất việc làm, chảy máu chất xám…). Vì vậy,
quản trị rủi ro về nguồn nhân lực phải quan tâm đến các lợi ích về cả
kinh tế và thể chất của con người.
Rủi ro do hành vi cá nhân (Personnel Risks)
Rủi ro này liên quan đến trách nhiệm cá nhân, bất cẩn, tham ô mà
vì lý do không có quy định rõ ràng nên khó buộc cá nhân đền bù...
1.2.3. Xét theo phạm vi ảnh hưởng của rủi ro
1.2.3.1. Rủi ro chung
Là những rủi ro chung cho mọi DN, mọi người nằm trong phạm vi
ảnh hưởng. Những rủi ro này thường phát sinh từ những nguyên nhân
nằm ngoài tầm kiểm soát của mọi người. Hậu quả của rủi ro này thường
rất nghiêm trọng, khó lường, ảnh hưởng tới cộng đồng và toàn xã hội
như : lạm phát, khủng hoảng, kinh tế, bão lụt, động đất kết hợp với sóng
thần, dịch bệnh có tính chất khu vực hay toàn cầu.

1.2.3.2. Rủi ro riêng biệt
Là rủi ro xảy ra cho từng DN, từng loại DN, từng loại hoạt dộng.
Rủi ro này xuất phát từ các biến cố chủ quan và khách quan của từng cá
nhân, tổ chức. Loại rủi ro này chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của từng cá
nhân hay tổ chức. Nếu xét đến hậu quả đối với một doanh nghiệp có thể
rất nghiêm trọng nhưng không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế - xã hội
như: cháy nổ, hỏng máy đột xuất, mất điện phải dừng sản xuất, rủi ro
thanh toán…
11


1.2.4. Xét theo nguyên nhân của rủi ro
1.2.4.1. Rủi ro bởi các nguyên nhân khách quan: đó là các yếu tố
xảy ra ngoài ý muốn của con người và không thể lường trước hoặc
không thể kiểm soát được. Các rủi ro này xảy ra từ môi trường tự nhiên
như : động đất, cháy nổ, bão lụt, hạn hán…; rủi ro do khủng hoảng kinh
tế hoặc có nguồn gốc từ chính sách kinh tế và điều hành vĩ mô của nhà
nước. Vì vậy, chúng rất khó kiểm soát và thường khó khống chế. Biện
pháp chống đỡ phụ thuộc vào khả năng dự báo và thích nghi của doanh
nghiệp.
1.2.4.2. Rủi ro bởi các nguyên nhân chủ quan: Là loại rủi ro do
hành vi trực tiếp của con người hoặc từ các tổ chức kinh doanh . Các rủi
ro thuộc các yếu tố chủ quan thường đa dạng và rất phức tạp nhưng có
thể chủ động dự báo và tìm cách khắc phục.
1.2.5. Xét theo phạm vi môi trường tác động
- Môi trường bên trong: bao gồm các bộ phận trong nội bộ doanh
nghiệp
- Môi trường bên ngoài: gồm các môi trường vĩ mô, thiên nhiên,
chính trị, luật pháp, kinh tế, văn hóa, xã hội, công nghệ, đối tác, khách hàng
và đối thủ cạnh tranh.

1.2.6. Xét theo lĩnh vực
- Rủi ro kinh tế, rủi ro chính trị : rủi ro thuộc loại này có thể là
do sự thay đổi chính sách của Chính phủ tác động đến hoạt động của
DN. Chính sách của Chính phủ đôi khi thay đổi, sự thay đổi có khi bất
lợi trong hoạt động SXKD của DN.
12


- Rủi ro chính trị, kinh tế cũng có thể do tác động của sự suy thoái
kinh tế, hoặc do kết cấu hạ tầng giao thông, viễn thông yếu kém,… dẫn
đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng lên. Tình trạng cúp điện,
hay ùn tắc giao thông cũng dẫn đến sự đổ vỡ kế hoạch sản xuất, kinh
doanh đã được trù tính.
- Nền kinh tế thiếu minh bạch, còn tồn tại nhiều bất bình đẳng đối
với các DN nhất là trong các chính sách về đất đai, mặt bằng sản xuất,
vay vốn...
- Tình trạng tham nhũng, các hoạt động kinh tế ngầm, bán hàng
hóa nhập lậu… không được ngăn chặn hữu hiệu cũng tạo nên rủi ro
cho những doanh nghiệp hoạt động tuân thủ luật lệ.
Tóm lại, chúng ta có thể phân loại các rủi ro theo các tiêu chí khác
nhau, mục đích của các cách phân loại đó là để nhận dạng và quản lý các
rủi ro được tốt hơn
1.3. Một số khái niệm khác có liên quan đến rủi ro và quản trị rủi ro
1.3.1. Chi phí rủi ro
Là toàn bộ những thiệt hại, mất mát về người và của trong việc
phòng ngừa, hạn chế, bồi thường tổn thất được quy thành tiền. Chi phí
rủi ro tồn tại ở 02 dạng: hữu hình và vô hình
1.3.1.1. Chi phí hữu hình: Là toàn bộ chi phí chi trả cho việc
phòng ngừa, khoanh lại, bồi thường tổn thất và phục hồi sản xuất, thị
trường, chi phí chia sẻ rủi ro (mua bảo hiểm).

- Các chi phí phát sinh trực tiếp từ hậu quả bất lợi do rủi ro đem
lại.
13


+ Những thiệt hại về giá trị các tài sản bị mất mát, thua lỗ hoặc hư
hỏng, những giảm sút về lợi nhuận thậm chí phá sản của doanh nghiệp.
+ Các chi phí phải bồi thường: Là các chi phí phải chi trả do cam
kết của các doanh nghiệp hay thuộc trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp đối với người thứ ba khi rủi ro xảy ra. Ví dụ như: bồi thường cho
người lao động bị tai nạn trong quá trình lao động theo cam kết hoặc
theo quy định của pháp luật.
- Chi phí trong quá trình khắc phục những tổn thất do rủi ro mang
lại.
+ Chi phí khoanh lại tổn thất: nhằm làm cho tổn thất không trầm
trọng hơn, không trở thành nguyên nhân cho các tổn thất khác hay làm
tăng nguy cơ cho các rủi ro liên quan.
+ Chi phí khắc phục rủi ro : Là toàn bộ chi phí liên quan đến phục
hồi sức khỏe của con người, phục hồi giá trị sử dụng của tài sản, phục
hồi hoạt động sản xuất- kinh doanh, thị phần , uy tín…
- Chi phí phòng ngừa rủi ro: Là toàn bộ các chi phí liên quan đến
tập huấn, tuyên truyền, trang thiết bị kỹ thuật, mua bảo hiểm…… liên
quan đến hoạt động quản trị rủi ro nhằm ngăn chặn, phòng ngừa , giảm
thiểu rủi ro.
1.3.1.2. Chi phí vô hình: Là toàn bộ những lợi nhuận đáng ra
được hưởng mà lại không được hưởng, những thiệt hại, mất thời cơ, mất
uy tín, mất bạn hàng và thị trường... Đây được coi là chi phí cơ hội mà
nhiều khi người ta không đánh giá hết, nhiều trường hợp, chi phí này
còn lớn hơn chi phí hữu hình nhiều lần.
- Nguồn thu nhập không có cơ hội nhận được.

14


- Chi phí xã hội và tổn thất về tinh thần.
+ Xét về mặt vĩ mô, một môi trường kinh doanh nhiều rủi ro sẽ
làm giảm hiệu quả của việc sử dụng vốn, gây thiệt hại cho nền kinh tế
nói chung. Mặt khác, môi trường rủi ro tăng sẽ làm mức bù đắp tổn thất
rủi ro khiến cho chi phí về vốn tăng lên, người tiêu dùng cuối cùng sẽ
phải gánh chịu những sự gia tăng của chi phí này.
+ Xét về mặt tinh thần, các rủi ro đặc biệt là các rủi ro thuần túy sẽ
gây ra tâm lý bất an, lo lắng cho những người bị đe dọa bởi rủi ro.
1.3.2. Tần số rủi ro (tần xuất rủi ro)
Là số lần xuất hiện của rủi ro trong một khoảng thời gian hay trong
tổng số lần lấy mẫu thống kê. Đây được gọi là khả năng xảy ra.
1.3.3. Mức độ nghiêm trọng của rủi ro
Trị giá bị thiệt hại, khả năng tài chính của chủ thể bị thiệt hại (cùng
một thiệt hại nhưng nếu khả năng của chủ thể yếu thì mức ảnh hưởng
đối với chủ thể đó là nghiêm trọng hơn), phạm vi ảnh hưởng, đối tượng
tổn thất: tổn thất về con người hay của cải. Nếu là con người thì nhẹ hay
nặng: bị thương , mất khả năng lao động ... tính mạng. Đây được coi là
mức độ ảnh hưởng.
1.3.4. Bù đắp rủi ro
Là những hoạt động cung cấp các nguồn lực như: xây dựng quỹ,
gây quỹ, mua bảo hiểm, sử dụng thư tín dụng trong kinh doanh ngoại
thương, các biện pháp phòng ngừa,dự trữ, các quy định thưởng phạt, các
ràng buộc trong hợp đồng... để bù đắp tổn thất khi rủi ro đã xảy ra.

15



1.4. Quản trị rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh
nghiệp
1.4.1. Khái niệm quản trị rủi ro trong hoạt động SXKD của Doanh
nghiệp
- Quản trị rủi ro (QTRR) trong hoạt động SXKD của DN ngày nay
được coi như một bộ phận không thể tách rời với hệ thống quản trị DN.
Điều đó có nghĩa là mọi hoạt động quản trị của doanh nghiệp (tổ chức
bộ máy quản lý, chiến lược, kế hoạch, điều hành, kiểm tra….) sẽ được
xem là không đầy đủ nếu thiếu hệ thống QTRR.
- Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận và xử lý rủi ro một cách có hệ
thống, khoa học, toàn diện thông qua các hoạt động nhận diện và đo
lường rủi ro, xây dựng và thực hiện các kế hoạch, các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn rủi ro xảy ra, tiến hành việc kiểm soát, giảm thiểu
những tổn thất gây cho doanh nghiệp một khi xảy ra rủi ro cũng như dự
phòng về tài chính để bù đắp tổn thất đó. Chức năng chủ yếu của QTRR
là nhận diện, đo lường, xây dựng hệ thống quản trị rủi ro từ cơ cấu tổ
chức, dự phòng các nguồn lực và quan trọng hơn là các biện pháp cụ
thể.
Theo báo cáo COSO1 về quản trị doanh nghiệp thì định nghĩa quản
trị rủi ro doanh nghiệp “là một quy trình được thiết lập bởi Hội đồng
quản trị, ban quản lý và các cán bộ có liên quan khác áp dụng trong
quá trình xây dựng chiến lược doanh nghiệp thực hiện xác định những
sự vụ có khả năng xảy ra gây ảnh hưởng đến doanh nghiệp đồng thời
quản trị rủi ro trong phạm vi cho phép nhằm đưa ra mức độ đảm bảo
trong việc đạt được mục tiêu của doanh nghiệp”.
COSO:

1

Committee of Sponsoring Organizations of the Treadway Commission


16


- Quản trị rủi ro theo nghĩa rộng hàm nghĩa rằng doanh nghiệp cần
phát huy, sử dụng năng lực của chính mình để đề phòng và chuẩn bị cho
sự biến động của thị trường hơn là chờ đợi sự biến động rồi mới tìm
cách đối phó lại. Mục tiêu của quản trị rủi ro không phải ngăn cấm, mà
là biết chấp nhận rủi ro, phải ý thức được rủi ro với kiến thức đầy đủ và
hiểu biết rõ ràng để có thể đo lường và giúp giảm nhẹ.
1.4.2. Mục tiêu, nhiệm vụ và tác dụng của quản trị rủi ro trong hoạt
động của doanh nghiệp
1.4.2.1. Mục tiêu: Quản trị rủi ro là những hoạt động tập trung
vào dự báo, phân tích để xây dựng một loạt các biện pháp hay một
chương trình để :
- Né tránh.
- Phòng ngừa.
- Ngăn chặn.
- Giảm thiểu rủi ro.
- Bù đắp tổn thất và giải quyết hậu quả khi rủi ro xảy ra.
- Chuyển giao rủi ro.
- Dự phòng nguồn tài chính để giải quyết khi RR xẩy ra.
Hay nói cách khác, mọi tổ chức mọi DN cần phải có một bộ phận
nhân lực, vật lực, một chương trình và một cơ chế vận hành để hệ thống
lại và đánh giá các nguy cơ tiềm ẩn rồi tìm giải pháp phòng tránh, giảm
thiểu các thiệt hại có thể xảy ra.Trong tình hình hiện nay của môi trường
hoạt động thì quản trị rủi ro ngày càng trở nên quan trọng và không thể
thiếu để bảo vệ con người và thành quả hoạt động của mọi tổ chức, mọi DN.
1.4.2.2. Nhiệm vụ
17



 Xây dựng chiến lược , chính sách kiểm soát rủi ro
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của quản trị rủi ro là phải
kiểm soát được rủi ro. Đối với một quyết định đầu tư hay giao dịch kinh
doanh cụ thể, có nhiều rủi ro tiềm tàng . Do vậy vấn đề ở đây là làm
thế nào kiểm soát được rủi ro, giới hạn tác động của nó trong phạm vi
cho phép.
Xây dựng chính sách quản trị rủi ro được xây dựng trong đó xác
định phương pháp tiếp cận đối với rủi ro và quản trị rủi ro. Đồng thời
chính sách quản trị rủi ro cũng nêu rõ trách nhiệm trong việc quản trị rủi
ro trong toàn bộ doanh nghiệp.
 Quy định trách nhiệm QTRR cụ thể cho từng bộ phận
Hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm xác định định hướng
chiến lược và cơ cấu cho chức năng quản trị rủi ro doanh nghiệp nhằm
đảm bảo hoạt động hiệu quả nhất. Các bộ phận chức năng trong doanh
nghiệp có trách nhiệm trước hết trong việc quản trị rủi ro hàng ngày, gắn
kết việc nhận thức và tuyên truyền về quản trị rủi ro trong bộ phận mình
công tác. Kiểm toán nội bộ là biện pháp giúp đảm bảo công tác quản trị
rủi ro được thực thi có hiệu quả thông qua việc đánh giá theo chương
trình, kế hoạch của kiểm toán nội bộ.
Tùy thuộc quy mô của doanh nghiệp có thể thiết lập một bộ phận
chuyên trách đảm nhiệm chức năng quản trị rủi ro trong doanh nghiệp.
Nhìn chung, nhiệm vụ của bộ phận này cần phải thực hiện bao gồm:
 Xây dựng chính sách và chiến lược quản trị rủi ro trong doanh
nghiệp;

18



 Thiết kế định hướng quản trị rủi ro ở cấp độ chiến lược và chức
năng;
 Xây dựng văn hóa nhận thức về rủi ro trong doanh nghiệp trong đó
có việc đào tạo về quản trị rủi ro trong doanh nghiệp;
 Xây dựng chính sách và tổ chức quản trị rủi ro nội bộ đối với các
bộ phận chức năng trong doanh nghiệp;
 Thiết kế và rà soát quy trình quản trị rủi ro;
 Điều phối các hoạt động chức năng khác nhau có liên quan đến
vấn đề quản trị rủi ro trong doanh nghiệp;
 Xây dựng các quy trình ứng phó với rủi ro trong đó có các chương
trình dự phòng và duy trì hoạt động kinh doanh thường xuyên;
 Chuẩn bị báo cáo về quản trị rủi ro đệ trình Hội đồng quản trị và
các đối tác liên quan của doanh nghiệp.
1.4.3. Quy trình quản trị rủi ro trong hoạt động SXKD của doanh
nghiệp
Quy trình quản trị rủi ro được thiết kế mang tính đồng bộ và có sự
gắn kết với việc xây dựng và thực thi chiến lược của doanh nghiệp. Về
cơ bản, quy trình quản trị rủi ro cần chứa đựng những giai đoạn hay
bước công việc cơ bản như xác định rủi ro, mô tả rủi ro, lượng hóa rủi
ro, phân tích rủi ro, xếp hạng rủi ro, đánh giá rủi ro, lập báo cáo về rủi ro,
xử lý rủi ro, theo dõi và rà soát quy trình trình quản trị rủi ro.
1.4.3.1. Nhận diện rủi ro:
- Để quản trị rủi ro, trước hết phải nhận diện được rủi ro. Nhận
diện rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro nảy
sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhận diện
19


rủi ro nhằm thu thập các thông tin về đối tượng có thể gặp rủi ro (con
người, tài sản, trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp), các nguồn phát

sinh rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, các loại tổn thất mà rủi ro có
thể gây ra cho doanh nghiệp.
- Hoạt động này được thực hiện thông qua việc theo dõi, nghiên
cứu xem xét môi trường xung quanh và nội bộ doanh nghiệp, toàn bộ
hoạt động của doanh nghiệp nhằm thống kê được tất cả các rủi ro, không
chỉ những rủi ro đã và đang xảy ra mà cả những rủi ro mới có thể xảy ra
đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở này những thống kê đó, sẽ tiến hành
phân tích rủi ro nhằm xác định nguyên nhân gây ra các rủi ro cũng như
các nhân tố làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro cho doanh nghiệp.
- Phương pháp nhận diện rủi ro
• Phương pháp dựa trên những rủi ro đã xảy ra trong quá
khứ
Phương pháp này dựa trên những rủi ro doanh nghiệp đã xảy ra
trong quá khứ để xác định những rủi ro mà doanh nghiệp có thể sẽ phải
đối mặt trong tương lai. Tuy nhiên, vì có những rủi ro mà DN chưa gặp
phải bao giờ. Để đảm bảo thực hiện được đẩy đủ các rủi ro nên các nhà
quản lý phải sử dụng kết hợp với phương pháp khác.
• Phương pháp lưu đồ
Để thực hiện phương pháp này thì cần phải dựng một lưu đồ thể
hiện các hoạt động của DN (hay tổ chức) để xác định vùng đó có nguy
cơ xảy ra rủi ro và xác định rủi ro có có thể xẩy ra ở những khâu nào?
Từ lưu đồ, kết hợp với bảng ghi chép, DN có thể đánh giá và lập được
kế hoạch QTRR.
20


• Phương pháp lập bảng liệt kê
- Bảng liệt kê dạng câu hỏi : Các câu hỏi xoay quanh các rủi ro mà
DN đã gặp phải, mức độ tổn thất, số lần xuất hiện rủi ro trong một
khoảng thời gian nhất định, những biện pháp phòng ngừa đã sử dụng,

hiệu quả của các biện pháp đó.
- Danh mục các nguy cơ: Liệt kê các rủi ro thường gặp.
- Danh mục các rủi ro được bảo hiểm: Nghiên cứu số liệu thống kê
của các Công ty bảo hiểm về các rủi ro có thể gặp phải làm cơ sở cho
việc xác định các rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải.
• Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia được thực hiện bằng cách phỏng vấn các
chuyên gia để họ cho ý kiến về các nguy cơ tiềm ẩn rủi ro và biện pháp
phòng tránh. Các chuyên gia có thể gồm:
-

Các nhà quản lý doanh nghiệp.

-

Các chuyên gia trong doanh nghiệp.

-

Các chuyên gia khác cùng ngành nghề.

-

Các đối tượng ngoài doanh nghiệp như: Chuyên viên kiểm

toán, luật sư, các nhà tư vấn về rủi ro, chuyên viên thống kê hay
các chuyên gia về bảo hiểm.
• Phương pháp nhận diện rủi ro từ các mối quan hệ của DN
Theo phương pháp này, DN xem xét các tiềm ẩn rủi ro từ các mối
quan hệ:

-

Từ chính sách.

-

Từ môi trường bên ngoài.

-

Từ môi trường thiên nhiên.
21


-

Từ đối tác (nhà cung cấp).

-

Từ khách hàng (nhà tiêu thụ sản phẩm).

-

Từ DN cùng ngành nghề.

-

Từ các nhà cho vay.
1.4.3.2. Đo lường rủi ro: Là đánh giá mức độ nghiêm trọng của


rủi ro để đưa ra các giải pháp đối phó.
a) Phân loại mức độ nghiêm trọng của rủi ro
 Nhóm 1, nhóm cực kỳ nguy hiểm: là những rủi ro có tần xuất xẩy
ra cao đồng thời mức thiệt hại lớn (người ta gọi là mức độ ảnh
hưởng), những rủi ro loại này có hậu quả là có thể dẫn đến sự tàn
phá DN, phá sản doanh nghiệp.
 Nhóm 2, nhóm nguy hiểm: là những rủi ro có tần xuất xảy ra
không nhiều nhưng hậu quả nghiêm trọng cũng như nhóm 1.
 Nhóm 3, nhóm quan trọng: bao gồm những rủi ro có thể xảy ra
nhiều, nhưng mức độ ảnh hưởng không lớn cho doanh nghiệp.
 Nhóm 4, Bao gồm những rủi ro có tần xuất xảy ra ít mà khi xảy ra
thiệt hại cũng không lớn.
b) Các phương pháp đo lường rủi ro
 Phương pháp định lượng tình huống đó
Để đánh giá khả năng xảy ra tổn thất có thể thực hiện thông qua
phân tích lượng hóa trên cơ sở lý thuyết xác suất. Ba biến số về rủi ro
thường tính toán phân phối xác suất là: Số tình huống có thể xảy ra (ví
dụ tốt, trung bình, xấu…); xác xuất xảy ra các tình huống đó (ví dụ tốt
20%, trung bình 50%, xấu 30%) và mức thiệt hại hay có lợi cho các tình
huống trên.
22


Rủi ro = xác xuất xuất hiện x mức tổn thất dự kiến


Phương pháp thống kê kinh nghiệm

+ Trường hợp RR xảy ra ít hơn 1 lần trong 1 năm (quý, tháng)

T = r/N -> P
Trong đó : T : Tần số rủi ro
P: Xác suất rủi ro
r: Số lần xảy ra RR trong thời gian quan sát
N: Tổng số năm (quý, tháng) quan sát
+ Trường hợp RR xảy ra theo số lần quan sát
T=Ti= Σri/n -> P1 (i=1,n)
Ti :Tần số RR thứ i
Pi : Xác suất rủi ro thứ i
Σri: Tổng số xuất hiện RR của i loại RR trong số lần quan sát
N : Tổng số lần quan sát
=> Phương pháp định lượng có ưu điểm lớn, chúng cung cấp các
thông tin định lượng giúp các nhà quản lý dễ hình dung hơn về khả năng
xảy ra và mức độ ảnh hưởng của các rủi ro. Tuy nhiên, các phương pháp
này cũng có những hạn chế như:
+ Mô hình phức tạp và dựa trên nhiều giả định về các đối tượng
đo lường.
+ Yêu cầu một cơ sở dữ liệu đủ lớn.
+ Việc kiểm tra tính xác thực kết quả của một số mô hình chỉ
được thực hiện sau một vài năm.
Mô hình rất nhạy cảm đối với sự biến động của môi trường kinh tế.

23


=> Những hạn chế trên cho thấy việc áp dụng mô hình định lượng
không phải là công việc đơn giản mà yêu cầu một nguồn lực lớn từ việc
chọn gói phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu và liên tục chỉnh sửa các giả
định để cập nhật các kết quả đo lường.
 Phương pháp định tính

Phương pháp đánh giá định tính là phương pháp dựa trên những
đánh giá của các chuyên gia, để từ đó xếp hạng các rủi ro và đưa ra một
báo cáo tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng đối với những rủi ro
khó đo lường bằng định lượng.


Phương pháp phân tích theo cảm quan : trên cơ sở phân
tích dự báo, kinh nghiệm rồi dự kiến các sự kiện có thể xảy ra.



Phương pháp chuyên gia : Nhiều chuyên gia cùng đánh giá,

từ đó đưa ra phương án tối ưu. Lấy ý kiến chuyên gia để xếp hạng rủi ro
là phương pháp nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Thông qua việc xếp hạng,
các yếu tố đánh giá định tính có thể chuyển thành đánh giá định lượng.
Công việc đánh giá trải qua ba bước:
+ Liệt kê và đánh giá định kỳ các rủi ro.
+ Chấm điểm rủi ro dựa trên các tiêu chí: mức độ nghiêm trọng,
tần số phát sinh, thời điểm có khả năng phát sinh….
+ Thông qua việc chấm điểm, các chuyên gia sẽ tập hợp và đưa ra
những chỉ tiêu để theo dõi sự biến đổi của rủi ro.


Dùng phương pháp ma trận để đo lường rủi ro

Theo phương pháp này thì cần thu thập số liệu và phân tích để
đánh giá mức độ rủi ro cao hay thấp:

24



- Tần suất xuất hiện của rủi ro: là số lần xảy ra tổn thất hay khả năng
xảy ra biến cố nguy hiểm đối với doanh nghiệp trong một khoảng
thoảng thời gian nhất định
- Mức độ nghiêm trọng của rủi ro là tổn thất, mất mát, nguy hiểm…
- Trên cơ sở kết quả thu thập được, lập ma trận xếp loại rủi ro như
sau:
Bảng 1.1.Ma trận xếp loại rủi ro
Mức độ nghiêm
trọng
Cao
Thấp

Tần xuất rủi ro có thể xảy ra
Thấp
Cao
II
I
IV

III

Trên bảng, ta thấy :
Ô I : Tập trung những rủi ro có mức độ nghiêm trọng cao và tần
suất xuất hiện cũng cao.
Ô II : Tập trung những rủi ro có mức độ nghiêm trọng cao nhưng
tần suất xuất hiện thấp.
Ô III : Tập trung những rủi ro có mức độ nghiêm trọng thấp nhưng
tần suất xuất hiện cao.

Ô IV : Tập trung những rủi ro có mức độ nghiêm trọng thấp và tần
suất xuất hiện cũng thấp
Để đánh giá rủi ro người ta sử dụng cả hai tiêu chí: mức độ tổn thất
và tần suất xuất hiện, trong đó, mức độ tổn thất đóng vai trò quyết định.
Vì vậy, sau khi đo lường, phân loại các rủi ro sẽ tập trung vào các biện
pháp quản lý trước hết vào những rủi ro thuộc nhóm I, sau đó theo thứ tự
đến những rủi ro nhóm II và III và sau cùng là nhóm IV.
25


×