Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tại seabank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 74 trang )



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài

Tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân
hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Nam
Á gọi tắt là SeaBank nói riêng. Trong những năm qua, hoạt động tín dụng ngân
hàng đã đạt được những thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung
của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên tín dụng là nơi hội tụ nhiều rủi ro và gây ra
những hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động của Ngân hàng. Rủi ro tín dụng có
tác động rất lớn đối với hoạt động ngân hàng, nó không chỉ gây sự biến động lớn
trong lợi nhuận mà còn có thể ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng phá sản của ngân
hàng. Gần đây, công tác quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại đã
được chú trọng hơn song nhìn chung chưa được tiến hành một cách bài bản.
Theo nhận định của World Bank, về cơ bản trong môi trường pháp lý thời gian
gần đây, các tổ chức tín dụng vẫn đang ở giai đoạn đầu của quá trình thực hiện
các chính sách tín dụng chặt chẽ và các thông lệ tín dụng tốt nhất. Một trong
những biểu hiện rõ nét nhất là việc các NHTM Việt Nam coi trọng và ưu tiên về
tốc độ tăng trưởng tài sản hơn là lợi nhuận và vấn đề an toàn vốn. Với tình trạng
như vậy, trong khi tín dụng vẫn là hoạt động chính của ngân hàng với tỷ lệ dư nợ
tín dụng so với tổng tài sản trung bình hiện ở mức cao khoảng 50%, thì hoạt
động rủi ro tín dụng có ý nghĩa sống còn đối với ngân hàng và cũng có nghĩa là
sự ổn định của cả nền kinh tế. Vì vậy, quản trị rủi ro tín dụng - một vấn đề còn
nhiều mới mẻ để triển khai trong thực tiễn là mối quan tâm hàng đầu của các
ngân hàng thương mại hiện nay.
Với những ý nghĩa như vậy, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại SeaBank,
Tác giả đã lựa chọn Đề tài: “Hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tại
SeaBank”.




2

2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu các hệ thống lý luận và các ứng dụng thực tế trong quản trị rủi
ro tín dụng của Ngân hàng thương mại trên Thế giới. Đánh giá thực trạng quản
trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Seabank. Đưa ra các đề xuất nhằm quản trị một
cách hữu hiệu các rủi ro tín dụng tại Seabank.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tại Seabank - Chi
nhánh Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của Đề tài chỉ giới hạn ở một loại rủi ro cụ thể của
Ngân hàng là rủi ro tín dụng (Rủi ro trong cấp tín dụng – một mặt của rủi ro tín
dụng).
4. Đóng góp của Luận văn
Với những nhu cầu và mục đích như trên, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ
giúp cho lãnh đạo Seabank biết được các giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại
Seabank trong điều kiện hiện nay và có thể áp dụng để đưa công tác quản trị rủi
ro tín dụng tại Ngân hàng trở nên hiệu quả hơn.
5. Tên và Kết cấu của Luận văn
Tên Luận văn
:
“Hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tại
Seabank”
Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Seabank
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại Seabank






3


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng và rủi ro tín dụng
1.1.1. Các rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi. Kinh
tế thị trường làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, bình đẳng hoá hoạt động
của các thành phần này và thúc đẩy cạnh tranh lẫn nhau. Rủi ro – tuy là sự bất
trắc gây ra mất mát thiệt hại, là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố
không mong đợi, song lại là hiện tượng đồng hành với các hoạt động kinh doanh
trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không nằm ngoài tác động trên, với
các hoạt động ngân hàng hầu như không có lọai nghiệp vụ nào, không có loại
dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro. Bởi lẽ, ngân hàng được coi là một
tổ chức kinh doanh tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, vì vậy ngân hàng
thường xuyên đối mặt với nhiều loại rủi ro. Ngoài các loại rủi ro thông thường
mà các doanh nghiệp khác thường gặp phải, các ngân hàng còn phải đối mặt với
các rủi ro cơ bản trong lĩnh vực ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi
ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Sau đây là
sáu loại rủi ro được coi là những rủi ro cơ bản của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng: là rủi ro bị tổn thất tài sản khi bên vay là những khách
hàng hay các ngân hàng không có khả năng thanh toán khoản vay theo đúng các
điều khoản trong hợp đồng tín dụng đã ký với ngân hàng.

Rủi ro lãi suất: là loại rủi ro xảy ra do sự biến động của lãi suất thị trường
có thể dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.


4

Rủi ro hối đoái: là loại rủi ro phát sinh khi tỷ giá biến đổi ngoài ý muốn và
có thể dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản: là rủi ro khi ngân hàng không đủ tiền để đáp ứng các
khoản phải trả khi đến hạn thanh toán do tài sản của ngân hàng không có khả
năng thanh khoản hay không thể huy động đủ vốn.
Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá
hay giá cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Rủi ro thị trường xảy ra
khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị
trường.
Rủi ro hoạt động: là loại rủi ro tổn thất tài sản xảy ra do hoạt động kém hiệu
quả, ví dụ như hệ thống thông tin không đầy đủ, hoạt động có vấn đề, có vi phạm
trong hệ thống kiểm soát nội bộ, có sự gian lận hay những thảm hoạ không lường
trước được.
1.1.2. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Trong điều kiện hiện nay, việc cấp tín dụng vẫn là một hoạt động cơ bản nhất
của ngân hàng và đồng thời, rủi ro tín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường
xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động ngân hàng. Sở dĩ
như vậy vì đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm quá nửa
giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Vì thế, rủi
ro tín dụng cũng được rất nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm về
rủi ro tín dụng:




Rủi ro tín dụng được hiểu là những tổn thất do khách hàng không trả được
nợ hoặc sự giảm sút chất lượng tín dụng của những khoản vay.
( Peter S.Rose ,2001)



Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy
đủ gốc và lãi của khoản vay hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ
hạn. (Nguyễn Văn Tiến, 2005)


5




Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thì: “ Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức
tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình theo cam kết”
1.1.3. Các loại hình rủi ro tín dụng
Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng, việc sử dụng cách phân loại tuỳ thuộc
vào mục đích nghiên cứu, mục đích quản lý. Đối với ngân hàng, việc phân loại
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và cả
mô hình tổ chức nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các yếu tố làm phát sinh rủi ro
và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, giữa các khâu. Thực tế cho
thấy, sự phân tách trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể thì sẽ càng làm cho việc
quản lý rủi ro hiệu quả. Do vậy, căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, có thể chia
rủi ro tín dụng thành nhiều loại khác nhau như căn cứ vào đối tượng, phạm vi,

các giai đoạn cấp tín dụng, các sản phẩm của ngân hàng trong hoạt động tín
dụng, tính chất của rủi ro và kỳ hạn của các khoản vay:



Nếu phân theo đối tượng sử dụng thì có 3 nhóm chính là: (i) Rủi ro khách
hàng cá thể; (ii) Rủi ro công ty/ tổ chức kinh tế; (iii) Rủi ro quốc gia hay khu vực
địa lý.



Nếu phân theo phạm vi thì có thể chia ra 2 loại: (i) Rủi ro cá lẻ/giao dịch
(được hiểu là rủi ro gắn với một giao dịch cụ thể nào đó, như đối với một khoản
vay của khách hàng. Loại rủi ro này gắn liền và xuất phát chủ yếu do đặc điểm
cá biệt của một khoản vay/khách hàng); (ii) Rủi ro hệ thống (rủi ro gắn với một
nhóm khách hàng, chẳng hạn đối với một ngành, thậm chí cả một nền kinh tế.
Loại rủi ro này mang tính chất vĩ mô và liên quan đến việc quản lý danh mục tín
dụng).


6




Nếu phân theo giai đoạn phát sinh rủi ro thì có 3 loại: (i) Rủi ro trong thẩm
định, tức là đánh giá sai khách hàng; (ii) Rủi ro khi cho vay, chẳng hạn như giải
ngân sai mục đích làm cho khoản vay không phát huy hiệu quả; (iii) Rủi ro trong
khi quản lý, xử lý thu nợ.




Nếu phân loại theo sản phẩm thì có 2 loại sau: (i) Rủi ro các sản phẩm nội
bảng (cho vay, thấu chi); (ii) Rủi ro các sản phẩm ngoại bảng (chiết khấu, thư tín
dụng, bảo lãnh).



Nếu căn cứ vào tính chất của rủi ro: (i) Rủi ro khách quan xảy ra do thiên
tai, địch hoạ, người vay trốn chạy, mất tích; (ii) Rủi ro chủ quan xảy ra do người
vay hoặc người cho vay vô tình hoặc cố ý làm cho thất thoát vốn vay.



Nếu căn cứ thời hạn khoản vay:(i) Rủi ro theo các khoản vay ngắn hạn;
(ii) Rủi ro theo các khoản vay trung dài hạn.
1.1.4. Nguyên nhân rủi ro tín dụng
Các ngân hàng khi cho vay luôn phải đối mặt với rủi ro. Với khả năng cho
vay, các ngân hàng thương mại thúc đẩy quá trình đầu tư, sản xuất và lưu thông
hàng hoá, do đó góp một ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế và đối với các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, để xác định nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng, cần tập
trung vào một số nguyên nhân sau:
1.1.4.1. Nguyên nhân từ phía người vay:
Rủi ro tín dụng từ phía người vay là một trong những loại rủi ro thường đem lại
tổn thất nhiều nhất cho ngân hàng. Các nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng
không trả được nợ cho ngân hàng có rất nhiều, có thể sắp xếp theo hai nhóm như
sau:
Nhóm nguyên nhân khách quan, là những tác động ngoài ý chí của khách hàng
như do thiên tai, hoả hoạn, do sự ổn định của các chính sách kinh tế chưa chắc
chắn, thay đổi đột ngột chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch, do



7

hành lang văn bản pháp lý chưa phù hợp, do biến động của thị trường trong và
ngoài nước, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi.
Nhóm nguyên nhân chủ quan, là nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng. Trước
hết là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn rất ít so với
nhu cầu. Năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối
tác, bạn hàng làm ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh. Công nghệ sản
xuất không đủ khả năng tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Trong đó có
trường hợp, ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng do khách hàng cố ý lừa đảo ngân
hàng, cho dù công việc kinh doanh có lãi họ vẫn không trả nợ ngân hàng đúng
hạn với hy vọng sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt, sử dụng vốn vay không đúng
mục đích hoặc chây ì để không trả nợ ngân hàng. Để đạt được mục đích, người
đi vay thường dùng mọi biện pháp để ứng phó với ngân hàng như cung cấp sai
thông tin bao gồm thông tin về doanh nghiệp, về mặt hàng kinh doanh, khả năng
trả nợ, làm khả năng đánh giá của cán bộ ngân hàng không chính xác.
1.4.1.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng (người cho vay):
Nguyên nhân đầu tiên thuộc về ngân hàng phải kể đến là việc không chấp hành
nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Qua khảo sát nhiều ngân hàng
đã cho một khách hàng vay vượt 15% vốn tự có.
Nguyên nhân thứ 2 về phía ngân hàng là chính sách tín dụng và quy trình cho
vay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng để tính toán điều kiện
và khả năng trả nợ hoặc phương pháp xem xét phân tích còn hạn chế, chưa
chính xác.
Nguyên nhân thứ 3 là kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng như việc
xác định hạn mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù
hợp, chủ yếu là tín dụng trực tiếp.
Nguyên nhân thứ 4 là thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng

tin cậy, kịp thời, chính xác để xem xét, phân tích trước khi cấp tín dụng.


8

Nguyên nhân nữa phải kể đến đó là năng lực và phẩm chất cán bộ tín dụng và
vấn đề quản lý sử dụng, đãi ngộ của cán bộ ngân hàng.
1.4.1.3. Nguyên nhân từ bên ngoài:
Bao gồm môi trường kinh tế, môi trường pháp lý và những điều kiện khách quan
khác liên quan tới khoản vay.
Môi trường kinh tế ảnh hưởng rất lớn tới sự thành công hay thất bại, lạm phát
cũng là vấn đề khiến các ngân hàng luôn phải cảnh giác vì người đi vay phải vay
một khoản lớn hơn cho mục đích của mình và chịu chi phí cũng lớn hơn. Khi nền
kinh tế hưng thịnh, mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn biến tích cực, hoạt động
kinh doanh tốt thì khoản vay được đảm bảo (nếu không gặp rủi ro khác) và
ngược lại.
Môi trường pháp lý trong kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý có tác động
đến hoạt động kinh doanh, bao gồm hệ thống pháp luật, hệ thống các biện pháp
đảm bảo cho pháp luật được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật
của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Nếu hệ thống pháp luật không
đầy đủ, đồng bộ thì sẽ không đảm bảo sự lành mạnh, hiệu quả và dễ gặp rủi ro.
1.2. Quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Khái niệm về quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro của NHTM có thể hiểu là quá trình tác động có tổ chức, có hướng
đích của các nhà quản trị NH lên các đối tượng quản trị và khách thể kinh doanh
nhằm mục tiêu phòng ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh từ đó
nâng cao mức độ an toàn, khả năng sinh lời và đạt được các mục tiêu tăng trưởng
trong ngắn hạn và dài hạn của mỗi NHTM. Hay nói một cách cụ thể hơn thì
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các
chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn,

hiệu quả và phát triển bền vững; Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế
và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh


9

thu, giảm chi phí và nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh cả
trong ngắn hạn và dài hạn của ngân hàng. Theo quan điểm hiện đại hiện được
các ngân hàng áp dụng phổ biến, quản trị rủi ro tín dụng nhằm tối đa hoá lợi
nhuận được điều chỉnh theo yếu tố rủi ro bằng cách duy trì mức độ rủi ro tín
dụng trong một phạm vi chấp nhận được. Hiệu quả quản trị rủi ro là một phần
trọng yếu trong cách tiếp cận quản trị rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò
cốt yếu cho sự thành công của ngân hàng trong dài hạn (Basel, 2000)
1.2.2. Chính sách quản trị rủi ro tín dụng
Theo Greuning, H., và S.B. Bratanovic (2003), có 3 nhóm chính sách cơ bản liên
quan đến quản trị rủi ro tín dụng là: (i) các chính sách nhằm giới hạn hoặc giảm
rủi ro tín dụng; (ii) các chính sách liên quan đến phân loại tài sản; (iii) và các
chính sách liên quan đến trích lập dự phòng rủi ro/ tổn thất để bù đắp cho các rủi
ro dự kiến.
1.2.2.1. Giới hạn rủi ro tín dụng
Các chính sách này đề cập đến 4 giới hạn là giới hạn rủi ro, cho vay khách hàng
có quan hệ, giới hạn theo ngành và cơ cấu lại các khoản nợ.

••

Giới hạn rủi ro: Luật pháp các nước đều đưa ra các giới hạn này nhằm ngăn
chặn các ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một khách hàng hoặc một
nhóm khách hàng. Giới hạn này thường được thiết lập trên cơ sở mức vốn của
ngân hàng. Khi thiết lập các giới hạn, ngân hàng cần tính toán đầy đủ các loại
hình rủi ro tín dụng (chẳng hạn như phải đề cập đến cả bảo lãnh, chấp nhận

thanh toán, L/C, v.v)

••

Cho vay khách hàng có quan hệ: Việc cho vay loại khách hàng này là khá
nguy hiểm do ngân hàng có xu hướng cho vay không dựa trên các điều kiện
thương mại.

••

Giới hạn theo ngành/lĩnh vực: Chính sách này nhằm ngăn chặn ngân hàng bị
tổn thất do hàng loạt khách hàng gặp khó khăn với cùng lý do. Các giới hạn được


10

thiết lập theo ngành, lĩnh vực hay thậm chí theo khu vực địa lý. Tuy nhiên, trong
thực tế việc theo dõi các giới hạn này khá khó khăn vì các ngân hàng không có
hệ thống báo cáo theo ngành chuẩn hoặc bản thân khách hàng sử dụng vốn vào
các lĩnh vực rất khác nhau.

••

Cơ cấu lại các khoản nợ: Chính sách này đề cập đến nguyên tắc, quy định
việc áp dụng các hình thức xử lý nợ như miễn giảm lãi, chuyển đổi nợ thành cổ
phần v.v. Theo thông lệ tốt nhất, các hình thức này phải do Hội đồng quản trị
duyệt.
1.2.2.2. Phân loại tài sản
Đây được coi là công cụ chủ chốt cho quản trị rủi ro tín dụng. Về nguyên tắc,
việc phân loại phải được tiến hành ngay khi cấp tín dụng và được đánh giá vài

lần trong một năm. Các ngân hàng có thể có cách phân loại khác nhau, nhưng
thông thường có 5 loại được sử dụng là: nợ tiêu chuẩn hay thông thường, nợ cần
theo dõi, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ có vấn đề và nợ mất vốn (Bảng 2.1). Ba loại
cuối được coi là nợ xấu. Tuy nhiên, các cách thức phân loại sau đây dựa trên 5
nhóm được áp dụng tại rất nhiều quốc gia và cũng được Ngân hàng Thế giới
khuyến nghị:
Bảng 1.1 – Phương pháp phân loại tài sản thông dụng
TT
Loại tài sản Mô tả
1 Tiêu chuẩn/ thông thường Không có nghi ngờ gì về năng lực trả nợ
2 Cần theo dõi Các khoản nợ hiện bình thường nhưng có
thể/ khả năng gặp khó khăn trả nợ trong
trường hợp có yếu tố không thuận lợi. Ví
dụ về loại này là các khoản cho vay mà hồ
sơ, hợp đồng không chặt chẽ hoặc tài sản
bảo đảm khó quản lý



11

3 Dưới tiêu chuẩn Các khoản nợ đã xác định rõ là có yếu tố
không thuận lợi sẽ tác động tiêu cưc đến
khả năng trả nợ. Ví dụ về loại này gồm
việc cho vay các khách hàng có dòng tiền
không đảm bảo, khách hàng thiếu vốn, nợ
quá hạn trên 90 ngày
4 Nợ có vấn đề Có các đặc tính của nợ dưới tiêu chuẩn,
nhưng đã có thể khẳng định tình trạng khó
khăn của khoản nợ trên cơ sở các thông tin

hiện có. Các khoản nợ quá hạn trên 180
ngày được xếp vào loại này.
5 Nợ mất vốn Các khoản nợ đã xác định được là khó thu
hồi về cả mặt thực tế và mong muốn. Ví dụ
về loại này là các khoản quá hạn trên 1
năm.
Nguồn: World Bank 2008
1.2.2.3. Trích lập dự phòng tổn thất tín dụng
Mục đích của việc trích lập dự phòng là nhằm giúp ngân hàng có khả năng
chống chọi lại các tổn thất dự kiến. Phân loại tài sản là cơ sở cho chính sách này,
đồng thời các yếu tố khác như kinh nghiệm thu hồi nợ vay trong quá khứ, tốc độ
tăng trưởng tín dụng, sự thay đổi trong điều kiện kinh tế cũng được đề cập đến
khi xây dựng chính sách trích lập dự phòng tổn thất tín dụng. Bảng 1.2 đưa ra
gợi ý về mức trích dự phòng rủi ro cho các nền tài chính chưa thực sự phát triển.






12


Bảng 1.2 - Tỷ lệ trích dự phòng tổn thất tín dụng đối với các nước
có nền tài chính chưa phát triển

Loại tài sản Tỷ lệ trích dự phòng
1 Tiêu chuẩn/ thông thường 1-2%
2 Cần theo dõi 5-10%
3 Dưới tiêu chuẩn 15-30%

4 Nợ có vấn đề 50-75%
5 Nợ mất vốn 100%
(Nguồn: World Bank 2008)
Hiện có 2 cách tiếp cận khi xây dựng chính sách trích lập dự phòng tổn thất tín
dụng. Cách thứ nhất là duy trì khoản nợ xấu trên bảng tổng kết tài sản cho tới khi
nào không có biện pháp/ khả năng thu hồi nợ thì mới sử dụng dự phòng tổn thất.
Theo phương pháp này thì giá trị dự phòng có thể tăng lên khá cao. Cách thứ hai
là tất cả các khoản nợ xấu đều được xoá ngay trên cơ sở dự phòng tổn thất tín
dụng. Cách này làm cho giá trị trích lập dự phòng tổn thất có thể rất nhỏ so với
tổng dư nợ
1.2.3. Cơ cấu tổ chức/bộ máy quản trị rủi ro
Song song với sự chuyển hướng về phương pháp, kỹ thuật và chiến lược, hoạt
động quản trị rủi ro của ngân hàng cũng đã có những thay đổi về mặt tổ chức bộ
máy. Do các rủi ro ngày càng có liên hệ chặt chẽ và quan trọng hơn là các loại
rủi ro có mối quan hệ phi tuyến tính, hoạt động quản trị rủi ro đang được tổ chức
theo hướng tập trung hoá. Như mô phỏng tại hình 1.2, nếu như trước đây mỗi
loại rủi ro có một bộ phận độc lập quản lý và báo cáo trực tiếp lên ban điều hành
thì hiện nay các bộ phận này được gộp lại trong một Uỷ ban rủi ro trực tiếp do


13

Ban điều hành quản lý. Sự hợp nhất này cho phép Ban điều hành có cái nhìn
tổng hợp, tránh mâu thuẫn về các khía cạnh rủi ro.
Mô hình hiện đại đều có sự tách bạch rõ tràng giữa nhiệm vụ quản trị rủi ro và
kinh doanh, đây được coi là nguyên tắc hàng đầu nhằm đảm bảo rủi ro được
nhận biết và quản trị một cách hiệu quả. Bộ phận quản trị rủi ro tín dụng là một
bộ phận nằm trong mảng quản trị rủi ro nói chung. Hệ thống quản trị rủi ro được
tách độc lập với bộ phận kinh doanh/ khách hàng và báo cáo trực tiếp lên cấp
lãnh đạo cao nhất. Mô hình tách bạch giữa bộ phận rủi ro và bộ phận kinh doanh

là mô hình phổ biến. Bộ phận quản trị rủi ro tín dụng cũng được tổ chức một
cách tách bạch giữa bộ phận xây dựng chính sách, báo cáo với bộ phận quản lý
và xây dựng mô hình.
Mô hình hiện đại có những ưu điểm sau:



Tách bạch rõ ràng nhiệm vụ giữa bộ phận kinh doanh và bộ phận quản lý
rủi ro, bộ phận tác nghiệp.



Tập trung toàn bộ trong một Uỷ ban rủi ro trực tiếp do Ban điều hành quản
lý do vậy sẽ chuyên sâu hơn và phía Ban điều hành sẽ có cái nhìn tổng hợp hơn
trên tổng thể các rủi ro có thể đã và đang xảy tại ngân hàng.



Tiến tới thực hiện quản trị rủi ro theo ngành dọc.
Hình 1.1- Xu hướng thay đổi mô hình tổ chức quản trị rủi ro ngân hàng




14


1.2.4. Phương pháp đánh giá chất lượng quản trị rủi ro tín dụng của Ngân
hàng thương mại
Nếu như quản trị rủi ro tín dụng có vai trò quan trọng sống còn với ngân hàng thì

làm thế nào để đánh giá hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của một ngân hàng có
hiệu quả hay không là một vấn đề còn quan trọng hơn. Ngân hàng không chỉ
nhận thức vai trò của quản trị rủi ro tín dụng mà còn phải biết cách xây dựng một
hệ thống quản trị rủi ro tín dụng đáp ứng được mục tiêu đề ra.


15

Greuning, H., và S.B. Bratanovic (2003) cho rằng, việc phân tích, đánh giá về
hiệu quả hoạt động quản trị rủi ro nói chung tại một ngân hàng cần phải đánh giá
các yếu tố: (i) Việc thiết lập một cơ cấu tổ chức từ cấp lãnh đạo cao nhất chịu
chuyên trách về quản trị rủi ro và điều phối triển khai các chính sách, quyết định
của ALCO; (ii) có chiến lược quản trị rõ ràng, chính thức và các chính sách liên
quan đến mục tiêu cụ thể; (iii) các chỉ tiêu, giới hạn rõ ràng nhằm tạo ra sự nhất
quán trong quyết định; (iv) các cơ sở kinh doanh phải dựa trên cơ sở phân tích
định lượng và định tính, phù hợp với các giới hạn rủi ro đã xác định; (v) thông
tin phải được thu thập đầy đủ, hệ thống, nhất quán và kịp thời; (vi) xây dựng các
mô hình toán để phân tích giả định tác động của tình hình môi trường kinh tế đối
với tình trạng rủi ro của ngân hàng.
Thống nhất với quan điểm của Greuning, H., và S.B. Bratanovic (2003), nhưng
chi tiết hơn, Basel (2000) chú trọng đến quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng và đã
đưa ra 17 nguyên tắc cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng gồm: (i)
xây dựng và thường xuyên đánh giá chiến lược quản lý rủi ro tín dụng; (ii) xây
dựng chính sách và thủ tục để xác định, đo lường, quản lý và kiểm soát rủi ro;
(iii) xác định và quản lý rủi ro ở tất cả các sản phẩm và hoạt động; (iv) xây dựng
một hệ thống tiêu chuẩn cấp tín dụng rõ ràng; (v) xây dựng các hạn mức chung
và cho các cấp; (vi) thủ tục phê duyệt tín dụng rõ ràng; (vii) việc mở rộng tín
dụng phải nằm trong tầm kiểm soát; (viii) phải có cơ chế quản lý thường xuyên
danh mục rủi ro; (ix) Có hệ thống quản lý các khoản tín dụng cụ thể; (x) xây
dựng hệ thống xếp loại rủi ro nội bộ; (xi) có hệ thống thông tin thích hợp và hiệu

quả; (xii) có hệ thống quản lý chất lượng danh mục dư nợ; (xiii) đánh giá được
các xu hướng của nền kinh tế; (xiv) có hệ thống đánh giá chất lượng quản lý rủi
ro tín dụng một cách độc lập; (xv) duy trì mức độ rủi ro ở mức phù hợp với tiêu
chuẩn nội bộ; (xvi) có hệ thống cảnh báo và thực hiện các biện pháp sớm trong


16

tình trạng có thể xảy ra rủi ro tín dụng; và (xvii) phải có hệ thống kiểm soát hoạt
động hiệu quả.
Mặc dù số lượng, trọng tâm sử dụng các chỉ tiêu có khác nhau, tuỳ thuộc vào
mục đích, mức độ phát triển của ngân hàng được đánh giá nhưng phương pháp
đánh giá cơ bản dựa vào 4 trụ cột: 3 trụ cột liên quan đến các yếu tố thuộc chủ
quan của ngân hàng (xây dựng môi trường quản trị rủi ro tín dụng; thực hành
quy trình cấp tín dụng lành mạnh; duy trì hoạt động theo dõi, đo lường rủi ro) và
1 trụ cột liên quan đến vai trò của cơ quan giám sát và/ hoặc cơ quan kiểm toán
bên ngoài. Đây là khuôn khổ phân tích dùng để đánh giá hoạt động quản trị rủi
ro tín dụng đồng thời các ngân hàng có thể sử dụng khuôn khổ này để xây dựng,
đánh giá hệ thống quản trị rủi ro tín dụng của mình. Khuôn khổ phân tích được
mô tả như trong hình dưới đây:
Hình 1.2- Khuôn khổ phân tích hoạt động quản trị rủi ro tín dụng






17

Môi trường:

Môi trường được hiểu là quan điểm, văn hoá, chiến lược cũng như nguyên tắc
ứng xử về rủi ro tín dụng mà một ngân hàng xây dựng và áp dụng trong toàn hệ
thống ngân hàng. Các yếu tố này tạo ra một môi trường để mọi bộ phận, cán bộ
ngân hàng triển khai hoạt động quản trị rủi ro tín dụng một cách cụ thể. Một môi
trường được coi là hợp lý khi đảm bảo các yếu tố sau:

••

Xây dựng được chiến lược rõ ràng về rủi ro tín dụng và chiến lược này
được đánh giá lại một cách thường xuyên, ít nhất 1 năm 1 lần.

••

Ngân hàng phải xác định đầy đủ các loại rủi ro có thể gặp phải, đặc biệt là
các loại rủi ro mới. Các sản phẩm chỉ được áp dụng khi rủi ro đã được phân tích
và có các biện pháp quản lý, kiểm soát tương ứng hiệu quả.

••

Xác định và phân rõ trách nhiệm, trong đó Hội đồng quản trị nhận thức
được rõ trách nhiệm cuối cùng và vai trò phê duyệt chiến lược, chính sách rủi ro
tín dụng; Ban điều hành / quản lý chịu trách nhiệm triển khai.
Quy trình:
Quy trình đề cập đến việc thiết lập các giới hạn, tiêu thức, điều kiện rõ ràng
và việc tuân thủ chặt chẽ các giới hạn, tiêu thức đó trong cấp tín dụng. Một ngân
hàng được coi là hoạt động trong quy trình lành mạnh khi xây dựng được các
yếu tố:

••


Thiết lập các tiêu chí cụ thể cho việc cấp tín dụng, từ việc cấp tín dụng lần
đầu đến việc gia hạn, mở rộng nhằm đảm bảo mọi khoản tín dụng đều được giám
sát, quản lý chặt chẽ, đặc biệt là đối với các khách hàng có quan hệ với ngân
hàng.

••

Xây dựng các giới hạn rủi ro cho từng khách hàng, nhóm khách hàng liên
quan, cả đối với các giao dịch nội bảng cũng như ngoại bảng; giới hạn theo cấp
thẩm quyền.



18

Kiểm soát, theo dõi đo lường:
Kiểm soát, theo dõi đo lường đề cập đến các giải pháp giám sát, quản lý tín
dụng. Cần phải đạt được các yếu tố:

••

Có hệ thống thông tin, dữ liệu cho phép theo dõi thường xuyên, chính xác
và đầy đủ mức độ rủi ro tín dụng, cả nội bảng và ngoại bảng; cập nhật thông tin
về xu hướng thị trường, phát triển kinh tế.

••

Xây dựng và áp dụng hệ thống xếp hạng rủi ro nội bộ

••


Có hệ thống kiểm soát nội bộ để giám sát quá trình quản trị rủi ro tín dụng.

••

Có kế hoạch hành động trong các trường hợp khẩn cấp, nghiêm trọng về
rủi ro tín dụng.
Vai trò của cơ quan giám sát/ kiểm toán bên ngoài:
Ba trụ cột trên là rất quan trọng và là điều kiện tiên quyết, song chưa đủ để đảm
bảo cho ngân hàng có được một cơ chế quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả. Cơ quan
giám sát/ kiểm toán bên ngoài đóng vai trò khách quan đánh giá và buộc các
ngân hàng phải thiết lập được các trụ cột này. Để đảm bảo hiệu quả, cơ quan
giám sát/ kiểm toán bên ngoài cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:

••

Đặt ra các yêu cầu buộc các ngân hàng phải xây dựng và áp dụng hệ thống
quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả; các cơ quan này cũng phải có bộ phận đánh giá
định kỳ hoạt động của hệ thống này.

••

Thiết lập các giới hạn rủi ro đối với một khách hàng, nhóm khách hàng
cho các ngân hàng cũng như các báo cáo bắt buộc để theo dõi tình hình.











19

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SEABANK
2.1. Khái quát về Seabank
Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Nam Á (Seabank) được thành lập
năm 1994 và là một trong những Ngân hàng TMCP ra đời sớm nhất và nằm
trong Top 10 ngân hàng TMCP lớn nhất Việt Nam. Kể từ ngày thành lập đến
nay, Seabank đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, hoàn thiện và đạt được
những thành công nhất định. Việc đổi mới toàn diện luôn là chiến lược ưu tiên
hàng đầu của Seabank với mục tiêu trở thành một ngân hàng thương mại cổ phần
hiện đại.
Năm 2009 đánh dấu bước chuyển đổi toàn diện của Seabank, từ định
hướng kinh doanh mới đến diện mạo mới và phong cách mới với việc triển khai
chiến lược nhân hàng bán lẻ, hướng tới đối tượng khách hàng mục tiêu cá nhân
và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cuối năm 2009 Seabank chính thức công bố Bộ
nhận diện thương hiệu mới và Hội sở của ngân hàng được chuyển về 25Trần
Hưng Đạo– Hoàn Kiếm – Hà Nội. Đây là những sự thay đổi mang tính chất bước
ngoặt cho định hướng phát triển mới của Seabank, hướng đến mục tiêu trở thành
ngân hàng bán lẻ tiêu biểu tại Việt Nam.
Trong thời gian qua, Seabank đã xây dựng cho mình một chiến lược phát
triển hiệu quả và bền vững. Đó là việc xây dựng Seabank trở thành ngân hàng
bán lẻ tiêu biểu tại Việt Nam, hiện đại hóa phần mềm quản trị ngân hàng, mở
rộng lưới hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu
của khách hàng một cách hoàn hảo nhất.
Hình ảnh về một ngân hàng hiện đại, tăng trưởng bền vững, luôn vì lợi ích

của khách hàng đã từng bước được công nhận bởi những khách hàng của
Seabank. Với phương châm phát triển toàn diện, an toàn, hiệu quả và bền vững
.


20

vì thế

Seabank đã có bước phát triển hết sức nhanh chóng; đến nay Seabank đã
có 104 điểm giao dịch trên khắp lãnh thổ Việt Nam

Kể từ khi thành lập, Seabank không ngừng thay đổi trước những biến
động của thị trường cho phù hợp với môi trường kinh doanh cạnh tranh đa dạng.
Đó là các tổ chức tài chính ngày càng gia tăng về số lượng cũng như mở rộng về
quy mô, tạo ra cạnh tranh về thu hút huy động vốn cũng như việc mở rộng và
tăng trưởng sử dụng vốn. Điều đó được thể hiện rõ vào cuối năm 2009, SeaBank
đã đạt được mức vốn điều lệ là 5.068 tỷ đồng (bảng số liệu 2.1).
Bảng số liệu 2.1: Vốn điều lệ và tổng tài sản của SeaBank qua các năm
(Đơn vị tính: tỷ đồng)

TT

Năm 2007 2008 2009
Tổng tài sản 26.241 22.269 30.597
Vốn điều lệ 3000 4.068 5.068
(Nguồn: Báo cáo thường niên của SeaBank năm 2009)

2.1.1. Mô hình tổ chức:























21




















































22

2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Seabank
Kết quả kinh doanh trong năm 2010 là tiền đề hết sức thuận lợi để
Seabank thực hiện nhiệm vụ phát triển, đạt và vượt chỉ tiêu – kế hoạch năm 2011
và những năm sau. Đồng thời cũng tạo cho Ngân hàng có một vị thế mới, thúc
đẩy quá trình mở rộng và đa dạng hóa kinh doanh với phương châm phát triển
toàn diện – bền vững – an toàn – hiệu quả.
Với các lĩnh vực hoạt động kinh doanh đặc thù của mình như: tín dụng cá
nhân, dịch vụ ngân hàng dành cho cá nhân và doanh nghiệp, dịch vụ bảo lãnh,
dịch vụ thanh toán quốc tế… Seabank đang nỗ lực hoàn thiện sự phong phú đa
dạng cũng như chất lượng phục vụ tốt nhất tới khách hàng. Chính vì vậy mà
trong những năm qua Seabank đạt được những thành công rất lớn, thể hiện qua
kết quả hoạt động kinh doanh rất rõ nét (Bảng 2.2).


















23































24

Thu nhập lãi thuần
Thu nhập lãi thuần của Seabank tăng trưởng qua các năm, năm 2009 thu nhập lãi
thuần của Seabank đạt 700.858 triệu đồng, đến năm 2010 thu nhập lãi tăng lên
1.124.320 triệu đồng, tương đương mức tăng 60,42%. Năm 2010 có được sự
tăng trưởng vượt trội trên là do tình hình kinh tế bước đầu ổn định sau khủng
hoảng, NHNN đã có nhiều biện pháp hiệu quả nhằm bình ổn lãi suất, chỉ đạo các
tổ chức tín dụng thực hiện quyết toán hỗ trợ lãi suất đối với các khoản cho vay
ngắn hạn bằng VND phát sinh trong năm 2009 và triển khai cho vay hỗ trợ lãi
suất trong năm 2010 theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Các chính sách
trên đã tác động đến tình hình tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung và
Seabank nói riêng. Cụ thể thu nhập lãi thuần năm 2010 tăng lên so với năm 2009
là do chênh lệch giữa thu nhập và chi phí từ các khoản tiền gửi và cho vay tại tổ
chức tín dụng, các khoản cho vay và ứng trước của khách hàng, thu nhập từ đầu
tư chứng khoán tăng lên. Trong đó, năm 2010 thu nhập từ các khoản cho vay và

ứng trước của khách hàng chiếm tỷ trọng khá lớn (chiếm 50,16%), tăng lên
939.705 (tương đương 111.24%) triệu đồng so với năm 2009, thu nhập từ khoản
đầu tư chứng khoán năm 2010 cũng tăng lên đáng kể (tương đương 332,5%) so
với năm 2009.
Từ năm 2009, Seabank đã trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức
thẻ quốc tế lớn nhất thế giới là MasterCard và Visa Card thông qua phương thức
tín chấp. SeaBank ban hành nhiều sản phẩm thẻ quốc tế MasterCard, Visa Card
có phạm vi sử dụng trên toàn cầu với thể loại loại thẻ Chip EMV hiện đại. Chính
vì vậy, thu nhập từ các khoản cho vay và ứng trước của khách hàng, đặc biệt là
khách hàng cá nhân tăng lên đáng kể. Thêm vào đó, Seabank còn nhận được sự
hỗ trợ từ phía tập đoàn tài chính Societe Generale – tập đoàn tài chính ngân hàng
hàng đầu Châu Âu với 145 năm kinh nghiệm, trong việc cơ cấu nhân sự, quản trị
rủi ro, phát triển mạng lưới và xây dựng mô hình ngân hàng bán lẻ. Đây cũng là


25

một trong những nguyên nhân chính làm thu nhập lãi thuần của Seabank có bước
tăng cao so với năm 2009.
Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ
Năm 2010, lãi thuần từ hoạt động dịch vụ của Seabank đạt 204.756 triệu
đồng, tăng 104.049 triệu đồng so với năm 2009, tương đương mức tăng 129,58%
so với năm 2009.
Có được sự tăng trưởng trên là do chính sách phát triển của Seabank đẩy
mạnh hoạt động kinh doanh bán lẻ từ năm 2009, mạng lưới kênh phân phối đặc
biệt được chú trọng nên đã tăng thêm 72 điểm giao dịch so với năm 2008. Việc
Seabank phát hành trực tiếp 2 loại thẻ quốc tế Master Card và Visa Card cũng
làm tăng đáng kể lượng khách hàng cá nhân sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân
hàng. Vì vậy, thu nhập từ hoạt động dịch vụ năm 2010 bao gồm thu nhập từ dịch
vụ bảo lãnh, dịch vụ thanh toán và tiền mặt, dịch vụ tư vấn, và các dịch vụ khác

tăng lên so với năm 2009, đặc biệt là dịch vụ thanh toán và tiền mặt tăng tới
100,44%.
Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
Năm 2008, lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối là 16.899 triệu
đồng, đến năm 2009 đạt 30.615 triệu đồng, tăng 13.716 triệu đồng. Nguyên nhân
là do đến đầu năm 2009 ngân hàng mới chính thức được NHNN xác nhận đủ
điều kiện hoạt động cung ứng các dich vụ ngoại hối, chính vì vậy lợi nhuận từ
hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân hàng mới bước đầu tăng trưởng từ năm
2009.
Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối năm 2010 đã có tăng trưởng
vượt trội so với năm 2009, cụ thể: năm 2010 đạt 77.998 triệu đồng, tăng 47.383
triệu đồng, tương đương với mức tăng 155% so với năm 2009.


×