Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH thương mại và công nghiệp mỹ việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.27 KB, 126 trang )

1

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
KTQT nói chung và kế toán quản trị chi phí nói riêng ngày
càng trở nên quan trọng, khẳng định được vai trò của nó trong việc
cung cấp thông tin cho quản trị mà KTTC không đảm trách được.
Thông tin KTQT chi phí cung cấp hướng đến diễn biến trong tương
lai nhằm giúp nhà quản lý hoạch định, tổ chức, điều hành, kiểm soát
và đưa ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với các mục tiêu đã xác
lập. Đây chính là công cụ có thể giúp các doanh nghiệp SXKD đứng
vững trong những cơn bão táp cạnh tranh của thị trường, nếu DN nào
biết sử dụng công cụ này.
Các DN Việt Nam ra đời, hoạt động trong những điều kiện hết sức
khó khăn. Khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp phải
cạnh tranh tự tồn tại và phát triển. Công ty TNHH Thương mại và Công
nghiệp Mỹ Việt là doanh nghiệp sản xuất, sự cạnh tranh lại càng khốc
liệt. Nhưng nhận thức và việc vận dụng kế toán quản trị chi phí ở DN
còn như mới mẻ, sơ khai, chưa được quan tâm đúng mức.
Xuất phát từ yêu cầu mang tính khách quan cả về lý luận và thực
tiễn, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu:“Hoàn thiện kế toán quản trị chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại
và Công nghiệp Mỹ Việt”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài


2

- .... Hệ thống hóa bản chất, vai trò, đặc điểm của KTQT chi phí
trong các DN SXKD.


- Khảo sát, đánh giá công tác KTQT chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm ở Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ
Việt qua đó đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác KTQT
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phù hợp với đặc thù của
Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt trong cơ chế thị
trường.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt đã có kế
toán quản trị chưa?
- Kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở Công
ty đang được thực hiện như thế nào? Có hiệu quả không? Có giúp ích
các nhà quản lý trong việc ra quyết định không?
- Các giải pháp để hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm ở Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ
Việt?
-. .
Các điều kiện để thực hiện các giải pháp hoàn thiện kế toán
quản trị CFSX và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệplà gì?
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu kế toán quản trị chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm bình nước nóng và tấm lợp Olympic của Công
ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng một số phương pháp để tiến hành đánh giá khảo
sát và định hướng công tác KTQT chi phí sản xuất và tính giá thành


3

sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt

như sau:
- Sử dụng tài liệu thứ cấp về chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm tại Công ty kết hợp với phỏng vấn trực tiếp kế toán trưởng và
những nhân viên kế toán phần hành có liên quan đến chi phí để khảo
sát công tác kế toán QTCP.
- Phỏng vấn trực tiếp trưởng các phòng chức năng, như: kinh
doanh, sản xuất,… và cả ban giám đốc Công ty để tìm hiểu nhu cầu
thông tin về quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩmtại đơn
vị.
- So sánh, đối chiếu giữa thực tiễn với lý thuyết về kế toán quản trị
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm để có hướng đề xuất về
công tác kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
1.6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Hoàn thiện công tác KTQT chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm là một trong những nội dung quan trọng và cần thiết trong
quá trình hoàn thiện hệ thống QLDN, góp phần khẳng định chức
năng cung cấp thông tin của hệ thống KT trong quản lý. Thực trạng
KTQT chi phí ở Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt
còn những hạn chế vì vậy việc hoàn thiện công tác KTQT chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm ở Công ty là cần thiết. Trên cơ sở nghiên
cứu, tổng hợp, phân tích cả về lý luận cũng như thực tiễn, luận văn đã
giải quyết được một số nội dung sau:
Thứ nhất, đã hệ thống hóa được những lý luận cơ bản về kế
toán QTCPSX và giá thành sản phẩm, làm tiền đề cho việc đánh giá
thực trạng và tìm ra các giải pháp khắc phục những tồn tại về quản trị


4

chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở Công ty TNHH Thương mại

và Công nghiệp Mỹ Việt.
Thứ hai, Phản ánh được thực trạng KTQT chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm của Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ
Việt, bao gồm: Nhận diện các cách phân loại CP, công tác lập dự toán
CP, tập hợp CPSX và tính giá thành SP. Từ đó chỉ ra những hạn chế
cần phải hoàn thiện về kế toán QTCPSX và giá thành sản phẩm ở
Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt.
Thứ ba, để hoàn thiện công tác kế toán QT CPSX tại Công ty TNHH
Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt, luận văn đã đưa ra các giải
pháp: đề xuất cách phân loại CPSX theo cách ứng xử của CP nhằm
phục vụ cho nhu cầu hạch toán và quản lý CP; tính đúng, tính đủ
CPSX vào đối tượng chịu CP để phục vụ cho công tác tính giá thành
được chính xác; hoàn thiện phương pháp phân bổ chi phí sản xuất
chung; hoàn thiện hệ thống b/cáo thực hiện về CPSX nhằm cung cấp
thông tin phục vụ cho công tác quản trị CP.
Với những nội dung đã trình bày, nhìn chung luận văn đã đáp
ứng được mục tiêu nghiên cứu.Tuy nhiên, nền kinh tế còn nhiều diễn
biến phức tạp trong khi KTQT mới chỉ được đề cập trong thời gian gần
đây và còn khá mới mẻ đối với các DN nói chung, và Công ty TNHH
Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt nói riêng, các giải pháp hoàn
thiện kế toán QTCPSX và giá thành sản phẩm trong Công ty TNHH
Thương mại và Công nghiệp Mỹ Việt được rút ra từ nghiên cứu lý
luận và thực tiễn biến động không ngừng.Vì vậy, vẫn còn nhiều vấn đề
cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện và luận văn chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong được sự đóng


5

góp ý kiến của các nhà khoa học, các thầy cô và đồng nghiệp để luận

văn được hoàn chỉnh hơn.
1.7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về kế toán quản trị chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
Chương 3: Thực trạng kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại và Công nghiệp
Mỹ Việt
Chương 4: Giải pháp hoàn thiện kế toán quản trị chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm tại Công ty TNHH Thương mại và Công
nghiệp Mỹ Việt


6

CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

2.1 Tổng quan về kế toán quản trị
2.1.1. Khái niệm và bản chất của kế toán quản trị
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghịêp, kế toán góp phần rất quan trọng vào công tác quản lý các hoạt
động kinh tế, tài chính. Việc thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin
về tình hình thu nhập, chi phí, so sánh thu nhập với chi phí để xác định
kết quả là một trong những yêu cầu của KTTC. Song doanh nghiệp sản


7


xuất nhiều loại sản phẩm, kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ
khác nhau, muốn biết chi phí, thu nhập và kết quả của từng loại sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ nhằm tổng hợp lại trong một cơ cấu hệ thống
kế toán phục vụ cho yêu cầu của quản trị doanh nghiệp thì KTTC
không đáp ứng được yêu cầu này. Do đó, các doanh nghiệp tổ chức hệ
thống KTQT để trước hết nhằm xây dựng các dự toán chi phí, dự toán
thu nhập và kết quả của từng loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Sau đó
phải tiến hành theo dõi, kiểm tra suốt quá trình chi phí sản xuất, mua
bán hàng hoá dịch vụ, tính toán giá thành sản phẩm, giá vốn hàng mua,
hàng bán, doanh thu và kết quả của từng loại sản phẩm, hàng hoá, dịch
vụ để đáp ứng yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của KTQT là kế toán chi phí, nghiên cứu chủ yếu
về quá trình tính toán giá phí sản phẩm như giá phí tiếp liệu, giá phí
sản xuất nhằm đề ra các quyết định cho phù hợp, xác định giá trị hàng
tồn kho và kết quả kinh doanh theo từng hoạt động. Dần dần cùng với
sự phát triển của khoa học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng
có những bước phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ năm 1957 trở lại đây,
nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới đã đi sâu nghiên
cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán phục vụ cho yêu cầu
quản lý. Sự phát triển mạnh mẽ của kế toán đã đặt ra hướng nghiên
cứu các công cụ kiểm soát và lập kế hoạch, thu nhận và xử lý thông tin
phục vụ cho công việc ra quyết định gọi là KTQT.
Cho đến nay đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về KTQT,
tuy nhiên có thể hiểu KTQT là một khoa học thu thập, xử lý và cung
cấp những thông tin định lượng về hoạt động của đơn vị một cách cụ


8


thể, giúp các nhà quản lý trong quá trình ra quyết định liên quan đến
việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và đánh giá
tình hình thực hiện các hoạt động của đơn vị.
Như vậy, cùng với sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường, KTQT
đã ra đời và trở thành công cụ quan trọng trợ giúp cho những người
làm công tác quản lý ra quyết định sản xuất kinh doanh và là phương
tiện để thực hiện kiểm soát quản lý trong doanh nghiệp.
Từ các nội dung trên, có thể đưa ra những nét cơ bản về bản chất
của kế toán quản trị như sau:

Kế toán quản trị không chỉ thu nhận, xử lý, và cung cấp các
thông tin về các nghiệp vụ kinh tế đã thực sự hoàn thành, đã ghi chép
hệ thống hóa trong các sổ kế toán mà còn xử lý và cung cấp các thông
tin phục vụ cho việc ra quyết định quản lý. Để có các thông tin này, kế
toán quản trị phải sử dụng các phương pháp khoa học để phân tích, xử
lý chúng một cách cụ thể phù hợp với nhu cầu thông tin của nhà quản
trị, hệ thống hóa các thông tin theo một trình tự dễ hiểu và giải trình
quá trình phân tích theo những chỉ tiêu cụ thể phục vụ cho công tác
quản trị.

Kế toán quản trị chỉ cung cấp những thông tin về hoạt động
kinh tế tài chính trong phạm vi yêu cầu quản lý nội bộ của doanh
nghiệp. Những thông tin đó chỉ có ý nghĩa đối với những người, những
bộ phận và nhà điều hành, quản lý doanh nghiệp mà không có ý nghĩa
với các đối tượng bên ngoài. Vì vậy có thể nói kế toán quản trị là loại
kế toán dành cho người làm công tác quản lý trong khi đó kế toán tài
chính không phục vụ trực tiếp cho mục đích này.


9



Kế toán quản trị là một bộ phận của công tác kế toán nói
chung và là công cụ không thể thiếu đối với công tác quản lý nội bộ
doanh nghiệp.
Sự góp mặt của kế toán tài chính và kế toán quản trị làm cho hệ
thống kế toán của doanh nghiệp trở nên đầy đủ hơn nhưng giữa chúng
hoàn toàn không đồng nhất. Do đó, việc đưa ra hai bộ phận trong hệ
thống kế toán của doanh nghiệp là kế toán tài chính và kế toán quản trị
nhằm mục đích làm rõ những điểm khác biệt, trên cơ sở đó để thấy vị
trí cũng như mối quan hệ của hai bộ phận trong doanh nghiệp.
 Những điểm giống nhau giữa kế toán quản trị và kế toán tài
chính:

Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều đề cập đến các sự
kiện kinh tế trong doanh nghiệp và đều quan tâm đến tài sản, nợ phải
trả, nguồn vốn sở hữu, doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, quá trình lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp.

Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều dựa trên hệ thống
ghi chép ban đầu của kế toán. Hệ thống ghi chép ban đầu là cơ sở để
kế toán tài chình soạn thảo các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp cho
các đối tượng ở bên ngoài. Đối với kế toán quản trị, hệ thống đó cũng
là cơ sở để vận dụng, xử lý nhằm tạo ra các thông tin thích hợp cho
việc ra quyết định của các nhà quản trị. Kế toán quản trị sử dụng rộng
rãi các ghi chép hàng ngày của kế toán tài chính, mặc dù có khai triển
và tăng them số liệu cũng như nội dung của các thông tin.

Kế toán quản trị và kế toán tài chính đều biểu hiện trách
nhiệm của người quản lý. Kế toán tài chính thể hiện trách nhiệm của

người quản lý cấp cao còn kế toán quản trị thể hiện trách nhiệm của
nhà quản lý các cấp bên trong doanh nghiệp.


10

 Những điểm khác biệt giữa kế toán quản trị và kế toán tài
chính:
Biểu số 1.1: Những điểm khách nhau giữa kế toán quản trị và kế
toán tài chính
1.

2.

3.

4.
5.
6.

7.

Chỉ tiêu
Đối tượng
sử dụng
thông tin
Đặc điểm
của thông
tin cung
cấp

Các
nguyên
tắc cung
cấp thông
tin
Phạm vi
thông tin
Kỳ báo
cáo
Mức độ
chính xác

Kế toán quản trị
Kế toán tài chính
Nhà quản trị bên trong Những đối tượng bên
doanh nghiệp
ngoài doanh nghiệp
Linh hoạt, thích hợp,
hướng về tương lai, biểu
hiện bằng giá trị và hiện
vật
Do người quản lý quyết
định, hữu ích cho quản
lý, không có nguyên tắc
chung

Từng bộ phận, từng
khâu công việc
Thường xuyên, theo
từng yêu cầu quản lý

Chú trọng tính kịp thời,
ít chú trọng tính chính
xác
Tính pháp Không có tính pháp lệnh


Phản ánh quá khứ
khách quan, biểu hiện
bằng giá trị
Tuân thủ các nguyên
tắc, chuẩn mực kế toán

Toàn doanh nghiệp
Định kỳ (tháng, quý,
năm)
Tính chính xác cao hơn

Có tính pháp lệnh


11

2.1.2. Vai trò của kế toán quản trị trong việc thực hiện chức năng
quản lý
Kế toán quản trị có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức
năng quản lý của các cấp quản trị doanh nghiệp. Thông tin do kế toán
quản trị cung cấp phục vụ cho các hoạt động quản lý từ lập kế hoạch,
tổ chức điều hành, kiểm soát và ra quyết định.

Trong việc lập kế hoạch:


Các kế hoạch của nhà quản lý được các nhân viên kế toán
biểu thị một cách định lượng thông qua việc thiết lập các dự toán – đây
là hình thức biểu hiện định lượng của các mục tiêu quản trị. Để thực
hiện chức năng lập kế hoạch, các nhà quản lý cần những thông tin kịp
thời, chính xác và có cơ sở mà những thông tin này chủ yếu do kế toán
quản trị cung cấp.

Trong việc tổ chức và điều hành:

Nhà quản lý có nhu cầu rất lớn về thông tin kế toán, nhất là
thông tin kế toán quản trị trong việc lãnh đạo và quản lý hoạt động
hàng ngày. Trong việc tổ chức, nhà quản lý sẽ quyết định cách liên kết
tốt nhất giữa tổ chức, con người với các nguồn lực lại với nhau sao cho
kế hoạch được thực hiện có hiệu quả nhất. Trong việc điều hành, các
nhà quản lý giám sát hoạt động hàng ngày và giữ cho cả tổ chức hoạt
động trôi chảy.

Trong việc kiểm soát:

Sau khi đã lập kế hoạch và tổ chức thực hiện, nhà quản lý
phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Để thực hiện chức
năng kiểm tra, các nhà quản lý sử dụng các bước công việc cần thiết để
đảm bảo cho từng bộ phận và cả tổ chức đi theo đúng kế hoạch đã


12

vạch ra. Trong quá trình kiểm soát, nhà quản lý sẽ so sánh hoạt động
thực tiễn với kế hoạch đã thiết lập dựa trên những báo cáo do kế toán

quản trị cung cấp. So sánh này sẽ chỉ ra ở khâu nào công việc thực
hiện chưa đạt yêu cầu, và cần sự hiệu chỉnh để hoàn thành nhiệm vụ và
mục tiêu đã thiết lập.

Trong việc ra quyết định:

Ra quyết định là việc thực hiện những lựa chọn hợp lý
trong số các phương án khác nhau. Ra quyết định không phải là một
chức năng riêng biệt, nó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các
khâu trong qúa trình quản lý một tổ chức, từ khâu lập kế hoạch, tổ
chức thực hiện cho đến kiểm tra đánh giá. Chức năng ra quyết định
được vận dụng liên tục trong suốt quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Thông tin kế toán quản trị cung cấp chính là nhân tố chính
giúp các nhà quản lý thực hiện chức năng ra quyết định.
Như vậy, kế toán quản trị luôn gắn liền với các chức năng quản
lý của nhà quản trị. Các nhà quản trị muốn thực hiện tốt các chức năng
quản lý thì cần phải có các thông tin cần thiết. Và thông tin do kế toán
quản trị cung cấp chính là nguồn cung cấp thông tin chủ yếu, dù không
phải là nguồn cung cấp thông tin duy nhất.
2.2. Kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp
2.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của kế toán quản trị chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm
2.2.1.1. Khái niệm


13

KTQT chi phí, giá thành là một chức năng quản trị có ý thức chứ
không phải là một chương trình cụ thể, nó mang tính liên tục và đều

đặn nhằm kiểm soát tốt chi phí, giá thành để thu lợi và tái đầu tư cho
tương lai.
2.2.1.2. Ý nghĩa của kế toán quản trị chi phí sản xuất và giá thành sản
phẩm
Chi phí và giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ là các chỉ tiêu
quan trọng trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ cho công tác
quản lý doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với doanh thu, kết
quả (lãi, lỗ) hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy đây là chỉ
tiêu rất được các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm.
Mục đích sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp luôn là lợi
nhuận tối đa. Vì thế họ quan tâm đến công tác quản lý chi phí, giá
thành để xem phải bỏ ra những chi phí nào, mức độ bao nhiêu và kết
quả sản xuất thu được là gì?...Song nếu chỉ biết một cách tổng thể,
khái quát như vậy thì chưa đủ để đảm bảo một quá trình sản xuất kinh
doanh hiệu quả. Một trong những yêu cầu của quản lý doanh nghiệp là
phải chi tiết hoá các nội dung về chi phí, giá thành đối với từng loại
hoạt động, từng loại sản phẩm, dịch vụ do vậy khi bước vào nền kinh
tế thị trường các doanh nghiệp đã tiến hành đa dạng hoá các hoạt động
sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể tiến hành nhiều loại hoạt
động khác nhau trên cơ sở ngành nghề, giấy phép kinh doanh đã được
cấp: vừa sản xuất tiêu thụ sản phẩm, vừa mua - bán vật tư, hàng hoá…


14

Trong mỗi hoạt động lại bao gồm nhiều sản phẩm, vật tư, hàng hoá,
dịch vụ khác nhau. Một câu hỏi đặt ra là phải làm thế nào để có thể
quản lý hiệu quả các hoạt động đó và kiểm soát các khoản mục phát
sinh một cách tốt nhất?. Câu hỏi này chỉ được trả lời khi có sự tham
gia của KTQT chi phí, giá thành, doanh thu và kết quả. Do vậy, KTQT

chi phí, giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch cụ là nội dung không thể
thiếu được trong toàn bộ nội dung tổ chức công tác kế toán của doanh
nghiệp và nó có ý nghĩa thiết thực đối với các nhà quản trị doanh
nghiệp bởi một số lý do chủ yếu sau:
-

Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp có thông tin hữu

ích về chi phí, giá thành của từng hoạt động, sản phẩm, lao vụ, dịch
vụ.

-

Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp doanh nghiệp đưa

ra được các quyết định phù hợp cho việc mở rộng hoặc thu hẹp quy
mô hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua số KTQT chi phí, giá thành cùng với số liệu của
KTQT doanh thu, kết quả mà các nhà quản lý có quyết định đúng đắn
trong việc mở rộng một hoạt động nào đó hoặc trong từng loại hoạt
động thì mở rộng đối với loại sản phẩm, dịch vụ nào và ngược lại.


15

Điều này có ý nghĩa quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
-

Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp quyết định ngừng


hay tiếp tục sản xuất kinh doanh cũng như các quyết định nên tự sản
xuất hay nên đi mua hoặc chuyển hướng kinh doanh, đầu tư…
-

Giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp định được giá bán

sản phẩm dịch vụ, hàng tồn kho…từ đó có chính sách giá cả hợp lý.
Có thể nhận thấy những thông tin mà KTQT chi phí, giá thành
sản phẩm, dịch vụ, lao vụ cung cấp là những thông tin cần thiết, nhanh
chóng, kịp thời giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đề ra được các
quyết định phù hợp với tình hình thực tế và có ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận trong kỳ.Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định một điều rằng
KTQT chi phí, giá thành là công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi nhiều
thời gian, công sức và chỉ khi nào doanh nghiệp thực hiện tốt, đầy đủ
các nội dung liên quan thì KTQT chi phí, giá thành mới có thể phát
huy được hết vai trò to lớn của nó.
2.2.2.Nội dung kế toán quản trị chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm
2.2.2.1. Chi phí và phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Chi phí là nhân tố chủ yếu tác động đến kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. rất quan trọng. Trong kế toán tài chính, chi phí được


16

nhìn nhận như những khoản chi phí thực tế phát sinh gắn liền với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm các chi phí phát
sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh thông thường của doanh
nghiệp và các chi phí khác để đạt được một loại sản phẩm, dịch vụ

nhất định, mục đích cụ thể trong kinh doanh. Chi phí được định lượng
và thể hiện dưới dạng một lượng tiền chi ra, khấu hao tài sản cố định,
một khoản nợ dịch vụ, nợ thuế, cũng như những khoản phí tổn góp
phần làm giảm vốn sở hữu của doanh nghiệp. Các chi phí này được kế
toán ghi nhận dựa trên cơ sở các chứng từ kế toán hợp lệ chứng minh
việc phát sinh của chúng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Do đặc điểm thông tin kế toán quản trị cung cấp mang tính thích
hợp, hữu ích, kịp thời cho việc ra quyết định của các nhà quản trị nên
ngoài việc nhận thức chi phí như trong kế toán tài chính, các nhà quản
trị còn phải nhận thức chi phí theo góc độ nhận diện thông tin để phục
vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Do đó chi phí có thể là những
phí tổn thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh được tổng
hợp theo từng bộ phận, từng trung tâm chi phí, cũng như xác định trị
giá hàng tồn kho trong từng khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm soát chi phí đối với
nhà quản trị là rất quan trọng. Nhận diện các chi phí sao cho hữu ích
và thích hợp là một phương pháp nghiệp vụ của kế toán quản trị theo
quan điểm “ Chi phí được phân thành nhiều loại khác nhau nhằm thỏa
mãn các mục đích khác nhau của nhà quản trị”.


17

 Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
 Mục đích của cách phân loại chi phí theo chức năng hoạt
động trong kế toán quản trị là:
 Xác định rõ vị trí, chức năng hoạt động của chi phí trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.
 Là căn cứ để xác định giá thành sản phẩm và tập hợp chi

phí
 Cung cấp thông tin có hệ thống cho việc lập báo cáo tài
chính
Theo cách phân loại này chi phí được chia thành:

Chi phí sản xuất: là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc
chế tạo sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ phục vụ trong một kỳ nhất
định.
Chi phí sản xuất bao gồm 3 yếu tố cơ bản:

Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí của những loại
nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị và có thể
xác định được một cách tách biệt, rõ ràng, cụ thể cho từng sản phẩm.
Ngoài nguyên vật liệu trực tiếp còn có nguyên vật liệu gián tiếp,
nguyên vật liệu gián tiếp là những nguyên vật liệu có tham gia vào
việc cấu thành thực thể của sản phẩm nhưng có giá trị nhỏ và không
thể xác định cụ thể, rõ ràng cho từng sản phẩm.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể xác định cho từng đơn vị
sản phẩm nên được tính thẳng vào đơn vị sản phẩm. Chi phí nguyên
vật liệu gián tiếp không thể xác định tách biệt cho từng đơn vị sản
phẩm nên không thể tính trực tiếp vào từng đơn vị sản phẩm mà phải
đưa vào chi phí sản xuất chung rồi phân bổ sau.

Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí thanh toán cho công
nhân trực tiếp chế tạo sản phẩm. Giống như ci phí nguyên vật liệu trực


18

tiếp, chi phí nhân công trực tiếp có thể xác định rõ ràng cụ thể và tách

biệt cho từng đơn vị sản phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị
sản phẩm.

Ngoài lao động trực tiếp còn có lao động gián tiếp. Lao
động gián tiếp là những lao động không trực tiếp tạo ra sản phẩm
nhưng cần thiết cho quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động sản xuất của lao động trực tiếp. (VD: quản đốc phân xưởng, nhân
viên bảo trì máy...). Chi phí nhân công gián tiếp không thể phân bổ
cho từng sản phẩm cá biệt mà phải đưa vào chi phí sản xuất chung để
phân bổ sau.

Ngoài ra trong cơ cấu chi phí lao động, còn có các khoản
mục chi phí cũng thuộc vào chi phí lao động như chi phí của thời gian
ngừng sản xuất, chi phí phụ trội, chi phí phúc lợi lao động.

Chi phí sản xuất chung : gồm tất cả các chi phí sản xuất
ngoại trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
(VD: chi phí khấu hao, chi phí bảo dưỡng máy móc…)

Chi phí sản xuất chung cũng được tính vào sản phẩm cùng
với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Do
đặc điểm của chi phí sản xuất chung không thể tính trực tiếp vào sản
phẩm được nên chúng sẽ được tính vào sản phẩm qua việc phân bổ
theo các tiêu thức thích hợp.
Chi phí nguyên

Chi phí nguyên
vật liệu

Sơ đồ: Phân loại chi phí theo chức

vật liệunăng
trực tiếphoạt động
Chi phí nguyên
vật liệu gián tiếp

Chi phí sản xuất
chung

Chi phí khác ở
phân xưởng

Chi phí nhân
công gián tiếp
Chi phí nhân
công

Chi phí nhân
công trực tiếp

Sản
phẩm


19


Chi phí ngoài sản xuất
Để tổ chức và thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp
còn phải chịu một số khoản chi phí ở khâu ngoài sản xuất, được gọi là
chi phí ngoài sản xuất. Chi phí ngoài sản xuất được chia thành hai loại:


Chi phí lưu thông và tiếp thị: bao gồm các khoản chi phí
cần thiết để đẩy mạnh quá trình lưu thông hàng hóa và để đảm bảo
việc đưa hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng. (VD: chi phí quảng
cáo, tiếp thị, vận chuyển, bốc dỡ…)

Chi phí quản lý: là những khoản chi phí liên quan đến việc
tổ chức hành chính và các hoạt động văn phòng làm việc của doanh
nghiệp. Các khoản này không thể sắp xếp vào loại chi phí sản xuất hay
chi phí lưu thông. Chi phí quản lý bao gồm; chi phí văn phòng phẩm,
chi phí khấu hao văn phòng…
Bên cạnh việc phân chia chi phí thành chi phí sản xuất, chi phí
ngoài sản xuất, trong kế toán quản trị chi phí còn được phân loại thành
chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.

Chi phí sản phẩm: là các khoản chi gắn liền với quá trình
sản xuất, chế tạo sản phẩm hay quá trình mua hàng hóa về để bán.
Trong doanh nghiệp sản xuất, chi phí sản phẩm bao gồm: chi phí
nguyên, vật liệu trực tiếp; chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản
xuất chung. Khi sản phẩm, hàng hóa chưa được bán ra, chi phí sản
phẩm nằm trong giá trị hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán. Khi


20

sản phẩm, hàng hóa được tiêu thụ, chi phí sản phẩm được chuyển
thành giá vốn hàng bán trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.

Chi phí thời kỳ: là các chi phí để hoạt động kinh doanh
trong kỳ, không tạo nên giá trị hàng tồn kho mà ảnh hưởng trực tiếp

đến kết quả lợi nhuận của kỳ mà chúng phát sinh. Theo hệ thống kế
toán hiện hành, chi phí thời kỳ bao gồm: chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp.
 Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí
Khi mức độ hoạt động kinh doanh thay đổi, nhà quản trị cần thấy
trước chi phí sẽ biến động như thế nào, biến động bao nhiêu và chi phí
nào sẽ phải biến động để tương ứng với biến động của mức hoạt động,
theo đó chi phí sản xuất kinh doanh được phân thành: biến phí, định
phí và chi phí hỗn hợp.

Biến phí: là các khoản chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ với
sự thay đổi của mức độ hoạt động như chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp, chi phí nhân công trực tiếp… Xét về tính chất tác động, biến phí
được chia làm 2 loại: biến phí tỷ lệ và biến phí cấp bậc.

Biến phí tỷ lệ: là loại biến phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực
tiếp với biến động của mức hoạt động căn cứ, nghĩa là biến phí trung
bình của một đơn vị khối lượng hoạt động thì không thay đổi. Thuộc
loại này có: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực
tiếp, chi phí khấu hao TSCĐ theo sản lượng.

Biến phí cấp bậc: là loại biến phí chỉ thay đổi khi mức độ
hoạt động biến động nhiều và rõ ràng.
Trường hợp tổng biến phí tăng nhanh hơn tốc độ khối lượng thực
hiện, biến phí trung bình của một đơn vị khối lượng hoạt động cũng
tăng lên. Nguyên nhân là do khi cường độ lao động tăng lên vượt quá


21


giới hạn bình thường, hiệu lực các yếu tố sản xuất sẽ giảm sút hoặc khi
có sự gia tăng khối lượng sản xuất, đòi hỏi tăng nhiều hơn các chi phí
sản xuất.
Trường hợp tổng biến phí tăng chậm hơn khối lượng hoạt động,
biến phí trung bình của một đơn vị khối lượng giảm xuống. Trường
hợp này xảy ra khi mức độ hoạt động gia tăng, đã tạo nên các điều
kiện để sử dụng có hiệu quả hơn các yếu tố của quá trình sản xuất.

Định phí: là những khoản chi phí không biến đổi khi mức
độ hoạt động thay đổi nhưng khi tính cho một đơn vị hoạt động thì
định phí thay đổi. Định phí được chia thành các loại sau:

Định phí tuyệt đối: là định phí mà tổng số không thay đổi
khi có sự thay đổi về khối lượng hoạt động, còn định phí trung bình thì
giảm đi.

Định phí tương đối: trong trường hợp khả năng các yếu tố
sản xuất tiềm năng đã khai thác tối đa, muốn tăng được khối lượng
hoạt động cần phải bổ sung đầu tư các khả năng sản xuất tiềm tàng
mới.

Định phí bắt buộc: là định phí không thể thay đổi một cách
nhanh chóng vì chúng thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc tổ chức
cơ bản của DN. Định phí bắt buộc có đặc trưng cơ bản sau: có bản
chất sử dụng lâu dài, không thể giảm bớt trong một thời gian ngắn.

Định phí tùy ý: là các định phí có thể thay đổi nhanh chóng
bằng các quyết định của các nhà quản trị.

Chi phí hỗn hợp: là loại chi phí mà bản thân nó gồm các

yếu tố biến phí lẫn định phí. Ở mức độ hoạt động cơ bản, chi phí hỗn
hợp thể hiện các đặc điểm của định phí, quá mức đó nó lại thể hiện đặc
điểm của biến phí.


22

Phần định phí phản ánh phần chi phí căn bản, tối thiểu để duy trì
sự phục vụ và để giữ cho dịch vụ đó luôn luôn ở tình trạng sẵn sàng
phục vụ.
Phần biến phí phản ánh phần thực tế phục vụ hoặc phần vượt quá
mức căn bản, do đó phần này sẽ biến thiên tỷ lệ thuận với mức sử
dụng trên mức căn bản.
Để phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều
tiết chi phí hỗn hợp, nhà quản trị cần phân tích chi phí hỗn hợp cho
phù hợp. Các phương pháp phân tích thường được kế toán quản trị sử
dụng là:

Phương pháp cực đại cực tiểu: căn cứ trên chi phí phát sinh
và mức hoạt động qua các thời kỳ, xác định số liệu chênh lệch của chi
phí tương ứng với mức độ hoạt động cao nhất và thấp nhất trong kỳ
hạch toán, từ đó xác định biến phí đơn vị. Căn cứ vào kết quả tính
được, các mức hoạt động, chi phí ứng với các mức hoạt động đó để
xác định chi phí.

Phương pháp bình phương bé nhất: theo phương pháp này
ta xây dựng một phương trình có dạng như sau:
ΣXY = aΣX + bΣX2
ΣY = na + bΣX
Trong đó: X là mức độ hoạt động

Y là chi phí hỗn hợp
a là chi phí hoạt động
b là biến phí đơn vị


23

n là số đơn vị quan sát
Từ phương trình trên ta tìm được các ẩn số a, b
Trên cơ sở phân tích chi phí hỗn hợp, thiết lập được phương trình
diễn biến chi phí có dạng : Y = a + bX
Việc phân biệt định phí và biến phí giúp cho các nhà quản trị
doanh nghiệp xác định đúng phương hướng và biện pháp nâng cao
hiệu quả của chi phí SXKD, tiết kiệm tổng biến phí và biến phí đơn vị,
phấn đấu để nâng cao hiệu lực của định phí trong sản xuất kinh doanh.
 Phân loại chi phí trong các báo cáo tài chính
Khi xem xét mối quan hệ của chi phí sản phẩm với các báo cáo
tài chính thì không thể phân tách được các chức năng ứng xử của chi
phí trong từng chức năng. Ví dụ trong phần chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp, chi phí sản xuất chung bao gồm cả định phí và
biến phí. Báo cáo kết quả kinh doanh lập theo chức năng chi phí rất
cần thiết để báo cáo ra bên ngoài, nhưng nó vẫn bị hạn chế khi các nhà
quản trị nội bộ doanh nghiệp sử dụng để phân tích mối quan hệ chi phí
- khối lượng – lợi nhuận.
Do vậy, để phục vụ cho mục đích sử dụng nội bộ của nhà quản
trị trong doanh nghiệp, việc phân tích chi phí thành định phí và biến
phí là rất cần thiết khi lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Sơ đồ : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
STT
CHỈ TIÊU

1
Doanh thu

SỐ TIỀN


24

2
3
4
5
6
7
8

Biến phí sản xuất
Biến phí bán hàng
Số dư đảm phí
Định phí sản xuất
Định phí bán hàng
Định phí QLDN
Lợi nhuận thuần

 Phân loại chi phí nhằm mục đích ra quyết định

Chi phí trực tiếp là những khoản chi phí có thể tính thẳng
và tính toàn bộ cho đối tượng chịu chi phí. Chi phí trực tiếp gắn liền
với đối tượng tập hợp chi phí, phát sinh, tồn tại, phát triển và mất đi
cùng với sự phát sinh, tồn tại, phát triển của đối tượng tập hợp chi phí.


Chi phí gián tiếp là những khoản chi phí mà không thể tính
thẳng toàn bộ cho đối tượng đó mà phải thực hiện phân bổ. Chi phí
gián tiếp là những khoản chi phí gắn liền với các hoạt động phục vụ,
hỗ trợ cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của đối tượng tập hợp chi
phí do đó không thể tính toàn bộ cho bất kỳ đối tượng tập hợp chi phí
cá biệt nào.
Cách phân loại này có ý nghĩa thuần túy về mặt hạch toán. Đối
với các chi phí gián tiếp cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp,
bảo đảm tính khoa học và hợp lý của tiêu chuẩn phân bổ. Chất lượng
thông tin kế toán quản trị cung cấp phụ thuộc rất nhiều đến việc lựa
chọn tiêu thức phân bổ chi phí.
Căn cứ vào thẩm quyền các cấp ra quyết định chi phối đến chi
phí, các chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí kiểm soát
được và chi phí không kiểm soát được.

Chi phí kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là chi phí
mà cấp quản lý đó có quyền quyết định về khoản chi phí đó. Ví dụ như


25

chi phí tiếp khách sẽ là chi phí kiểm soát được của nhà quản trị bán
hàng nếu người này có quyền ra quyết định tổng số tiền chi và cách
tiếp khách.

Chi phí không kiểm soát được ở một cấp quản lý nào đó là
ch phí mà cấp đó không có thẩm quyền chi phối, ra quyết định. Nhà
quản trị không thể dự đoán mức phát sinh của nó trong kỳ và sự phát
sinh đó vượt quá tầm kiểm soát, quyết định của nhà quản trị.

Việc phân biệt chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát
được có ý nghĩa quan trọng trong việc lập báo cáo kết quả của bộ
phận.

Chi phí chênh lệch là những khoản chi phí có ở phương án
này nhưng chỉ một phần hoặc không có ở phương án khác và đó là một
trong những căn cứ quan trọng để lựa chọ phương án đầu tư hoặc
phương án SXKD.

Chi phí cơ hội là lợi ích bị mất vì chọn phương án và hành
động này thay vì phương án hành động khác. Như vậy, ngoài những
chi phí kinh doanh đã được tập hợp, phản ánh trên sổ sách kế toán,
trước khi quyết định, nhà quản trị còn phải xem xét chi phí cơ hội phát
sinh do những yếu tố kinh doanh đó có thể được sử dụng theo cách
khác nhưng vẫn mang lại lợi nhuận cho họ.

Chi phí chìm là một loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu
và vẫn sẽ phải chịu dù doanh nghiệp chọn phương án hành động nào.
Chi phí chìm không bao giờ thích hợp với việc ra quyết định vì chúng
không có tính chênh lệch.
2.2.2.2. Lập dự toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm


Lập dự toán chi phí sản xuất


×