Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cái cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.56 KB, 34 trang )

Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân trong tiến trình cái cách tư pháp
Phan Đức Phương
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Tuân
Năm bảo vệ: 2007
Abstract: Phân tích cơ sở lý luận về tổ chức quyền lực Nhà nước, quyền tư pháp để làm
rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước, các quan
điểm về đổi mới, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân. Từ đó làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân ở nước
ta và nêu nguyên nhân, hạn chế trong tiến trình cải cách tư pháp. Đề xuất những phương
hướng cơ bản và kiến nghị về xác định lại thẩm quyền xét xử và thiết kế mới mô hình tổ
chức của các tòa án; nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử; nâng cao
năng lực, phẩm chất và địa vị pháp lý của thẩm pháp, hội thẩm nhân dân, nhằm đổi mới
và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, xây dựng hệ thống tòa án trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử nói chung
Keywords: Cải cách tư pháp; Pháp luật Việt Nam; Tòa án

Content
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều văn kiện
Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Nghị


quyết nêu rõ:


Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan
tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính
lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp
huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ
án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào
thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao theo
hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh
nghiệm trong ngành.
Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo hướng
chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ
án liên quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh, nâng cao chất lượng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp.[9,tr.5].
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam cũng
nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách họat động xét xử làm trọng tâm, thực hiện
cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp… [15,tr.126].
Như vậy, cả Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đều xác định tòa án nhân dân phải tiến hành đổi

mới tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ
động chuẩn bị tất cả các điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động
phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề về lý luận và thực tiễn
được đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân đòi hỏi phải được quan tâm
nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp " để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và
lịch sử nhà nước và pháp luật. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài viết trên các tạp chí
liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhóm
như sau:


- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, các luận án
tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến tòa án nhân
dân như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". Luận án tiến sĩ luật học, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê Thành Dương năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại
học luật Hà nội "Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia
Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. Sách tham khảo:
"Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao
thông vận tải năm 2002; "Hệ thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" của tập thể các
tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 2002; "Góp bàn về cải cách pháp
luật ở Việt Nam hiện nay" của TS Ngô Huy Cương, Nxb Tư pháp năm 2005; "Xây dựng Nhà nước
pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng" của Luật sư Nguyễn Văn Thảo, Nxb Tư pháp năm 2006.

Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch sử ngành tòa án
nhân dân.
- Nhóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền" của TSKH Lê Cảm, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002;
“Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006; "Yêu
cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp " của tác giả Nguyễn Mạnh Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;
"Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 10 ...
Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chung nhất về
tổ chức quyền lực Nhà nước, hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng do thời điểm
nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn
hiện nay, do đó nội dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân mới chính thức được đặt vấn đề khi Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị được ban hành vào giữa năm 2005 và mới được ghi nhận trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2006. Vì vậy, đến nay chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này được chính thức
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp
luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến


trình cải cách tư pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án.
Nhiệm vụ của luận văn:
Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, quyền tư
pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước, các

quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tư pháp
đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn tập
trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, nên đối tượng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, không nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch
sử Nhà nước và Pháp luật, về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình
cải cách tư pháp, những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa
học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp,
lịch sử cụ thể, đồng thời cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý thuyết hệ
thống, phương pháp thống kê …
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn
trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư
pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người
làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương.



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
1.1. Vị trí, vai trò của tòa án
1.1.1. Sự hình thành tòa án
Nhà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho pháp luật được thực
thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không được các giai cấp và tầng lớp khác tuân
theo, pháp luật không đi vào đời sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào,
luôn luôn có các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều luật của
nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai cấp thống trị đã tổ chức ra
một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi
như quân đội, cảnh sát... Nhưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một
cách tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có một cơ quan được
lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là
tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế độ nhà nước nào.
Theo V.I. Lênin " … Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động của tòa án là hình
thức họat động của nhà nước... " [29, tr.197].
1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta
Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Ngay
từ buổi đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức
quan trọng trong việc xét xử những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá
trình phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau,
tổ chức, họat động của tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên
nó cũng chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng, "...là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.... Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân…”
[1,tr.71].
1.2 Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nƣớc ta hiện nay.

Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Đây là nguyên tắc "... là tiền đề nền tảng của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ..."
[34,tr.32]. Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án ra những quyết định, bản án đúng pháp luật, thật
sự công bằng và khách quan. Theo nguyên tắc này khi xét xử, thẩm phán không bị ràng buộc bởi
bất cứ cơ quan hoặc cá nhân nào để xét xử khách quan, công bằng và nghiêm minh. Thẩm phán
phải chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình.
Nguyên tắc bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52 - Hiến pháp
1992). Trong hoạt động xét xử người tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt


động, xác minh điều tra, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật phải đúng đắn, không vì bất cứ lý
do gì mà thiên vị bất cứ ai, bất cứ đương sự nào trong vụ án, không phân biệt địa vị, trình độ,
giới tính, đảng phái. Đảm bảo mọi hành vi vi phạm, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân và Nhà nước đều bị xử lý công bằng nghiêm minh đúng pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ chức TAND).
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử của tòa án, bảo đảm
cho bị can, bị cáo không bị thiệt hại về quyền và những lợi ích hợp pháp.
Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 11 Luật tổ chức TAND).
Nguyên tắc này một mặt đảm bảo sự kiểm tra, giám sát, khiếu nại của chính các đương
sự, bị cáo, người bị hại đối với bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án thông qua việc thực hiện
quyền kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác, tạo ra công cụ tự
kiểm tra, giám sát của hệ thống tư pháp - thông qua quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân hoặc của Tòa án cấp trên đối với quyết định, bản án sơ thẩm của tòa án cấp dưới.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của tòa án.
Công lý chỉ được khôi phục và duy trì, các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ
chức, công dân chỉ được bảo đảm trên thực tế khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp
luật được thi hành.
1.3 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án ở nƣớc ta.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số

33/SL ngày 13 tháng 9 năm 1945 về việc thiết lập các Tòa án quân sự.
Theo Sắc lệnh này, ở nước ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái
Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho. Các Tòa án quân sự đã được
thành lập với thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời chung thẩm tất cả những người phạm vào một
việc gì có phương hại cho nền độc lập của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Để giữ vững kỷ luật trong quân đội, ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra sắc lệnh số 163/SL
về việc thành lập tòa án xét xử các quân nhân, sĩ quan phạm tội.
Đó là những văn bản pháp lý đầu tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của tòa án
sau này.
Để nâng cao hiệu lực của Bộ máy Nhà nước cũng như để hoàn thiện về mặt tổ chức của
tòa án, ngày 24/1/1946 Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 13/SL quy định về tổ chức, hoạt
động tòa án và ngạch thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ, cụ thể tiêu
chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch thẩm phán.
Hiến pháp năm 1946 quy định, hệ thống tòa án của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm
có: Tòa án tối cao, tòa án phúc thẩm, tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Các nhân viên thẩm phán đều
cho Chính phủ bổ nhiệm trong khi xét xử việc hình phải có phụ thẩm nhân dân để tham gia ý


kiến, nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc
đại hình.
Đến năm 1950, Nhà nước nhận thấy việc tổ chức tòa án theo mô hình cũ không còn phù
hợp, cần được cải cách nhằm nâng cao vị trí và vai trò của tòa án nhân dân. Ngày 22/5/1950,
Chủ tịch nước đã ký ban hành sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp.
Theo Sắc lệnh này có sự thay đổi tên gọi của tòa án sơ cấp, tòa án đệ nhị cấp, tòa án
thượng thẩm với tên gọi mới là tòa án nhân dân huyện, tòa án nhân dân tỉnh, tòa án nhân dân liên
khu.
Năm 1953 cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất được tiến hành. Theo Sắc lệnh số
15/SL ngày 12/4/1953, Chính phủ đã thành lập những tòa án đặc biệt ở các vùng đang cải cách
ruộng đất để xét xử những kẻ phản cách mạng, cường hào gian ác, các tranh chấp về tài sản,
ruộng đất...

Tại kỳ họp lần thứ 8 của Quốc hội khóa I (4/1958), Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa
án nhân dân tối cao và Viện Công tố trung ương. Cả hai hệ thống này đều tách khỏi Bộ Tư Pháp.
Hệ thống tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương, các tòa án quân sự (Điều 97).
Hiến pháp năm 1980 ra đời với những bước tiến mới đáng kể trong các quy định về tổ
chức bộ máy Nhà nước, trong đó hệ thống tòa án nhân dân giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng,
ngày càng được không ngừng hoàn thiện và phát triển.
Việc tổ chức của các tòa án nhân dân địa phương và tòa án quân sự quân khu do Bộ Tư
pháp quản lý. Đây là điều kiện quan trọng, tạo điều kiện cho tòa án nhân dân tối cao làm tốt công
tác hướng dẫn và tổng kết kinh nghiệm xét xử, đồng thời cũng tạo điều kiện tốt cho hoạt động
xét xử của tòa án. Như vậy, về cơ bản, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân vẫn giống như Hiến
pháp năm 1959.
Đến Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức TAND 1992, về cơ bản mô hình tổ chức và hoạt
động của tòa án vẫn như Hiến pháp 1980, tuy nhiên có sự thay đổi, đó là việc thay chế độ bầu
thẩm phán bằng việc bổ nhiệm thẩm phán ở tòa án các cấp, thẩm phán do Chủ tịch nước bổ
nhiệm, việc quản lý tòa án địa phương Bộ Tư pháp vẫn quản lý.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC
TA HIỆN NAY
2.1. Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.
Về tổ chức tòa án
Theo hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 ở nước ta có
các tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung


ương, các tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các tòa án quân sự, các tòa
án khác theo luật định … [7,tr.8].
Về hoạt động của tòa án
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002 thì tòa án xét
xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính và giải quyết những

việc khác theo quy định của pháp luật.
2.2 Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và họat động của tòa án nhân dân ở nước ta
hiện nay.
Về tổ chức.
Hệ thống cơ quan toà án được thành lập theo địa giới hành chính - lãnh thổ, giống như
mọi cơ quan hành chính nhà nước khác mà chưa tính đến đặc thù của hoạt động xét xử. Lý
thuyết về tội phạm học, kinh tế học và thực tế khách quan cho thấy, vi phạm pháp luật, tội phạm
và tranh chấp dân sự, đặc biệt là tranh chấp kinh tế, không phân bổ đồng đều theo đơn vị hành
chính- lãnh thổ mà phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như mức độ phát triển kinh tế- xã hội, văn
hoá; mật độ và chất lượng dân cư; các điều kiện kinh tế - địa lý của từng loại địa bàn như thành
phố, nông thôn, miền núi...“...Hầu hết các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án cấp
huyện theo quy định của BLTTHS và BLTTDS chủ yếu tập trung ở những vùng, miền trọng điểm
như các thành phố lớn, các địa phương có tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hóa cao, trong
đó không ít tòa án cấp huyện ở các địa phương khác có số lượng án phải thụ lý giải quyết không
nhiều, khoảng trên dưới 70 vụ/năm, cá biệt có nơi chỉ có trên dưới 20 vụ/năm...” [39,tr.48]. Từ
đó dẫn đến hệ quả tất yếu là khối lượng công việc, khối lượng vụ án hình sự và khối lượng tranh
chấp các loại đưa đến toà án xét xử cũng như qui mô, độ phức tạp, mức nghiêm trọng của các vụ
án sẽ rất khác biệt giữa các loại địa bàn. Mô hình tổ chức toà án theo địa giới hành chính - lãnh
thổ là không phù hợp nếu tính đến sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền hiện tại và
tương lai. Lịch sử toà án Việt Nam thời kỳ 1945-1959 đã cho chúng ta một kinh nghiệm tốt về tổ
chức toà án theo thẩm quyền xét xử kết hợp với địa giới lãnh thổ, cho phép cơ quan có thẩm quyền
thành lập các toà án mới ở từng địa bàn khi có nhu cầu.
Về hoạt động của tòa án.
Hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay về cơ bản đã hoàn thành tốt các mặt
công tác.Tuy nhiên số lượng vụ việc mà các cấp tòa án phải nghiên cứu giải quyết là rất lớn,
ngày càng phức tạp đòi hỏi các cấp tòa án phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết nhanh chóng kịp
thời theo đúng các quy định của pháp luật. Với cách tổ chức như hiện nay thì hiện tại rất khó
khăn cho việc xét xử, chúng ta đã biết trước đây khi chưa tăng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện
thì việc xét xử sơ thẩm chủ yếu ở cấp tỉnh, kéo theo đó là TAND tối cao xét xử phúc thẩm đã bị
ách tắc khi mà lượng án giải quyết quá nhiều, đồng thời với đó là vi phạm tố tụng (kéo dài thời

gian giải quyết) và hàng loạt các vấn đề khác phát sinh như gây khó khăn cho người dân do đi lại
đến tòa án, mất công mất sức cho việc khiếu kiện, hao tốn tiền của, gây tâm lý bức xúc cho
người dân. Hiện tại khi thẩm quyền xét xử của cấp huyện được tăng thì tòa án cấp tỉnh lại cũng
lặp lại tương tự như tòa án tối cao trước đây, như vậy vấn đề đặt ra là không phải tăng thẩm


quyền cho các cấp tòa án mà vấn đề là tổ chức một cách khoa học, hợp lý của các cấp tòa án chứ
không như cách tổ chức như hiện nay.
Trong hoạt động xét xử: Chức năng chủ yếu của tòa án là xét xử, theo luật tổ chức TAND
(2002) thì hiện nay có quá nhiều cấp xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, đã ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các toà án.
Về hoạt động xét xử các loại án:
Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, "…Thẩm vấn, tranh luận tại phiên tòa chưa đầy
đủ, đánh giá chứng cứ thiếu khách quan, toàn diện, dẫn đến xác định tội danh không chính
xác…" [38,tr.16], thủ tục tố tụng nặng về thẩm vấn coi nhẹ tranh tụng, quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, đương sự chưa thực sự được chú trọng. Trong công tác giải quyết các vụ việc dân sự
và các vụ án hành chính "...trong nhiều trường hợp còn vi phạm pháp luật tố tụng về thụ lý vụ
án, xác định sai tư cách hoặc thiếu người tham gia tố tụng, xây dựng hồ sơ vụ án không đầy đủ,
đánh giá chứng cứ thiếu khách quan toàn diện…"[38,tr.17]. Đối với các vụ án hành chính, khi
xét xử thì không mấy thuận lợi bởi lẽ còn phải đợi ý kiến phía người bị kiện, đa phần người bị
kiện là cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc triệu tập đến tòa án là rất khó khăn.
Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân về nhận thức: trong một thời gian dài nhà nước và xã hội đều chưa nhận
thức đầy đủ về vị trí, vai trò của các cơ quan tư pháp, đặc biệt là toà án, trong hệ thống bộ máy
nhà nước cũng như chưa thấy rõ những đặc thù về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Công cuộc cải cách kinh tế đã tạo ra những biến đổi khá sâu rộng trong các mối quan hệ kinh tế xã hội, nhưng phải gần 10 năm sau chúng ta mới bắt đầu nhận ra tính chất phức tạp và nặng nề
của việc phải xây dựng các thiết chế giải quyết tranh chấp mới trong nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Chậm và chưa nhậy bén nhận thức về những thách thức mới đối với các cơ quan tư
pháp trong đấu tranh phòng chống các tội phạm mới hoặc các biến dạng, phát triển mới của các

loại tội phạm phát sinh trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nhất là đối với các tội
về tham nhũng, buôn lậu.
Nguyên nhân về tổ chức: mặc dù về nguyên tắc toà án thực hiện hai cấp xét xử nhưng
mỗi cấp xét xử lại có nhiều thẩm quyền. Tiếp nữa là chưa thực sự bảo đảm được sự tham gia
giám sát của nhân dân trong tổ chức và hoạt động của toà án: việc tham gia của Hội thẩm nhân
dân vào hoạt động xét xử, tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội luật gia vào quá trình
tuyển chọn Thẩm phán, bầu Hội thẩm nhân dân còn nặng về cơ cấu, hình thức, sự lãnh đạo của
một số cấp uỷ Đảng còn nhiều bất cập, hạn chế. Công tác kiểm tra, đôn đốc việc triển khai các
nghị quyết của Đảng đối với công tác tư pháp của các cấp uỷ đảng chưa thực sự tích cực, thậm
chí vẫn còn tình trạng một số đảng viên né trách trách nhiệm tiên phong của mình. Đồng thời vẫn
còn tình trạng các cấp uỷ Đảng can thiệp quá sâu, trái pháp luật vào hoạt động xét xử của toà án.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN


Ở NƢỚC TA HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cơ bản đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân.
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa
án trong tiến trình cải cách tư pháp.
Nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã được đề cập trong một số
văn kiện của Đảng, Nhà nước trong những năm gần đây.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII đã xác định những nội dung cơ bản về cải cách tư pháp đối với các cơ quan tư pháp, đó
là: " …Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và
hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý,
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp.
Phân định lại thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền và xét xử
sơ thẩm cho tòa án nhân dân cấp huyện..." [13,tr.15].
Tiếp đó Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: " …khi xét xử, các tòa

án phải bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan,
thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ; việc phán quyết của tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những
bản án quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... "
[9,tr.3]. Ngày 02 tháng 06 năm 2005, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nội dung nghị quyết đã đề cập một cách toàn diện
mục tiêu, quan điểm cải cách tư pháp, phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp từ nay đến năm
2020. Liên quan trực tiếp đến tổ chức, họat động của tòa án nhân dân, Nghị quyết số 49-NQ/TW
nêu rõ:
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính
gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, tòa
án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án, tòa
thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao
có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án
lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét
xử của từng cấp Tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh
gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong
ngành.
Đối với việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp [10,tr.4].


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định phương hướng tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó có việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
khẳng định: "… Xây dựng cơ chế vân hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất,

có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
pháp luật. Xây dựng hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền..." [15,tr.126].
Về tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp, văn kiện nêu rõ: "...Xây dựng hệ thống cơ
quan tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người.
Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ. Lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm..." [14,tr.127].
3.1.2. Mục tiêu và yêu cầu đối với đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân.
Trong tổng thể của cuộc cải cách tư pháp với mục tiêu "… Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ; họat động tư pháp mà trọng tâm là họat động xét
xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao." [10,tr.2].
Từ những mục tiêu chung đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án cần phải đạt được
những mục tiêu và yêu cầu sau:
Đảm bảo nguyên tắc độc lập, khách quan trong hoạt động xét xử; Đổi mới tổ chức, hoạt động
của tòa án nhằm thực hiện phán quyết cuối cùng của tòa án căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa; Nhằm bảo đảm và phát huy dân chủ trong xã hội, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Góp phần làm cho các quyền và tự do của công dân được bảo đảm bằng các cơ
chế pháp lý hữu hiệu và đồng bộ, tránh khỏi sự lạm quyền độc đoán và tùy tiện của các quan chức
trong bộ máy nhà nước, góp phần giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, củng cố trật tự pháp luật, nâng
cao hiệu quả của việc đấu tranh, phòng chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
3.2. Phƣơng hƣớng đổi mới tổ chức và họat động của tòa án nhân dân.
Nằm trong tổng thể của quá trình cải cách tư pháp, mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện
tổ chức và họat động của tòa án nhân dân, cho nên cũng nằm trong phương hướng của cải cách
tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Trong phương hướng tổng quan như vậy việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cũng dựa trên những phương hướng cơ
bản sau:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho cải cách tư pháp nói
chung và cải cách hệ thống tòa án nói riêng để bảo đảm xử lý kịp thời chính xác, đúng pháp luật

mọi hành vi vi phạm pháp luật. Tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, bảo đảm
dân chủ và bình đẳng trước pháp luật cho mọi công dân, đây là một trong những vấn đề cơ bản
làm cơ sở cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân. Mặt khác trong các quy
định của pháp luật về hình sự và dân sự cũng cần hoàn thiện hơn nữa, theo hướng bảo vệ tối đa


các quyền, tự do, dân chủ của công dân, cũng như lợi ích của họ và nhà nước. Đó chính là nền
tảng cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án. Xây dựng đội ngũ cán bộ tòa án trong
sạch, vững mạnh giàu phẩm chất chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ
3.3. Các kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
trong tiến trình cải cách tƣ pháp.
3.3.1. Xác định lại thẩm quyền xét xử và thiết kế mới mô hình tổ chức của các tòa án.
Mở rộng thẩm quyền xét xử chung của tòa án.
Cải cách tư pháp theo hướng đảm bảo tòa án có thẩm quyền xét xử mọi tranh chấp phát sinh
trong đời sống xã hội khi người dân có yêu cầu. Công dân có quyền và được khuyến khích lựa
chọn các phương thức khác nhau (thương lượng, trung gian, hòa giải, trọng tài, khiếu nại hành
chính …) để giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính nhưng điều đó không
hạn chế quyền của công dân, lựa chọn con đường khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết các tranh
chấp
đó
(nếu
các
bên
không

thỏa
thuận khác).
Phân định lại thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp và Tổ chức hệ thống tòa án theo
nguyên tắc hai cấp xét xử.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc nền tảng của mọi nền tư pháp dân chủ, đảm bảo

xét xử đúng đắn, khách quan, việc xét xử đặt dưới sự giám sát, kiểm tra nội bộ của hệ thống tòa
án và sự giám sát từ cơ quan kiểm sát, bị cáo, các đương sự, những cá nhân, tổ chức có liên quan
thông qua việc họ thực hiện quyền kháng nghị hoặc kháng cáo.
Có thể, mô hình tổ chức hệ thống tòa án được thiết kế như sau:
Trước mắt, theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện hiện nay:
Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ án hình sự, dân sự, hành
chính, kinh tế, lao động. Các tòa án sơ thẩm được tổ chức theo khu vực không phụ thuộc vào đơn
vị hành chính (cấp huyện).
Tòa phúc thẩm (tương đương tòa án cấp tỉnh hiện nay): có thẩm quyền chủ yếu xét xử lần
thứ hai các bản án do tòa án sơ thẩm xử lần đầu nhưng bị kháng cáo, kháng nghị ; đồng thời tòa
phúc thẩm có thẩm quyền xử lần đầu một số ít vụ án đặc biệt phức tạp, nghiêm trọng.
Tòa thượng thẩm khu vực, (thay cho các tòa phúc thẩm của tòa án nhân dân tối cao hiện
nay) thực hiện chức năng xét xử phúc thẩm các vụ án do tòa án phúc thẩm xử lần đầu nhưng
quyết định, bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Các tòa thượng thẩm cũng được tổ chức theo khu
vực, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính - lãnh thổ, có thể theo hướng được thành lập ở các
trung tâm vùng miền như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh hoặc ở một vài tỉnh khác
tùy theo nhu cầu thực tiễn.
Tòa án tối cao chủ yếu thực hiện hướng dẫn đường lối xét xử và áp dụng thống nhất pháp
luật, pháp triển án lệ. Tòa án tối cao là tòa duy nhất có thẩm quyền xét xử theo thủ tục đặc biệt
giám đốc thẩm, tái thẩm đối với số ít bản án do các tòa án cấp dưới xử đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị.
Về lâu dài:


Tòa án sơ thẩm: Xét xử sơ thẩm toàn bộ các vụ án.
Tòa án phúc thẩm: Xét xử phúc thẩm toàn bộ các vụ án.
Tòa thượng thẩm : Giám đốc thẩm, tái thẩm, cần thành lập các Hội đồng giám đốc thẩm
chuyên ngành (hình sự, dân sự, kinh tế ...) do các Thẩm phán chuyên sâu về từng lĩnh vực đảm
nhận việc xét xử.
Tòa án tối cao: Hướng dẫn đường lối xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật.

Xác định lại thẩm quyền và tổ chức các tòa chuyên trách trong hệ thống tòa án nhân dân.
Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào nhu cầu và thực tế xét xử của từng cấp tòa
án, ở từng địa bàn, không nhất thiết ở cấp nào, địa phương nào cũng thành lập tòa chuyên trách
giống nhau. Ví dụ, ở tòa sơ thẩm khu vực tại các thành phố, cần nghiên cứu thành lập thêm các
tòa chuyên trách như: Tòa án người chưa thành niên, Tòa sở hữu trí tuệ, Tòa về thuế; ở những
địa bàn nông thôn đang đô thị hóa, có nhu cầu, có thể thành lập Tòa đất đai.
3.3.2 Nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử.
Đổi mới mô hình tổ chức hệ thống tòa án theo hai cấp xét xử có thể coi là tiền đề tổ chức
và là điều kiện chung cho việc thực hiện các mục tiêu của cải cách tư pháp. Tuy nhiên, nếu
phương thức vận hành hệ thống tòa án cùng với các thủ tục áp dụng trong hoạt động của tòa án
không được đổi mới đồng bộ với tổ chức thì các yêu cầu của cải cách như tính độc lập, nghiêm
minh, công bằng, dân chủ và hiệu quả của hoạt động xét xử - khâu trung tâm của hoạt động tư
pháp, chắc chắn sẽ không thể đạt được.
Đổi mới nội dung, phương thức giám sát của cơ quan đại biểu nhân dân địa phương đối với
tòa án các cấp.Tiếp nữa là đổi mới mối quan hệ lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương đối với tòa
án các cấp. Đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của tòa án cấp trên đối với tòa án cấp dưới
theo hướng phân biệt rõ quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng.
Việc xác định lại thẩm quyển của từng cấp tòa án theo hướng tiến tới mỗi cấp tòa chỉ có một
thẩm quyền xét xử - sơ thẩm, phúc thẩm hay giám đốc thẩm, tái thẩm là tiền đề về tổ chức để đảm
bảo rằng quan hệ giữa các cấp tòa án chủ yếu là quan hệ tố tụng. Yêu cầu phi hành chính hóa quan hệ
tố tụng giữa Chánh án hoặc chức danh lãnh đạo khác và các thẩm phán trong một cơ quan tòa án là
một bảo đảm cho tính độc lập cho hoạt động xét xử.
3.3.3 Nâng cao năng lực, phẩm chất pháp lý của thẩm phán, hội thẩm nhân dân.
Thẩm phán và hội thẩm nhân dân hoàn toàn chịu trách nhiệm về các phán quyết của mình
là yếu tố có tính chất quyết định và cũng có thể coi là thành trì cuối cùng đáng tin cậy nhất để
bảo vệ tính độc lập, khách quan của hoạt động xét xử.
Cơ chế tuyển chọn thẩm phán cần cải cách theo hướng: mở rộng nguồn tuyển chọn thẩm
phán; Chuyển từ cơ chế xét tuyển sang cơ chế thi tuyển quốc gia. Cơ chế bổ nhiệm thẩm phán
các cấp cần cải cách theo hướng: chế độ bổ nhiệm thẩm phán theo ngạch, bậc trên cơ sở tiếp tục
hoàn thiện hệ tiêu chuẩn chức danh thẩm phán và phân loại ngạch, bậc thẩm phán; kéo dài nhiệm

kỳ tiến tới chế độ bổ nhiệm thẩm phán suốt đời. Hệ tiêu chuẩn chức danh thẩm phán và các tiêu
chí bổ nhiệm, nâng ngạch thẩm phán phải được hoàn thiện theo hướng dựa căn bản trên trình độ


hiểu biết, mức độ tinh thông nghiệp vụ, kỹ năng và hiệu quả xét xử, bản lĩnh và phẩm chất đạo
đức, sự liêm khiết, trung thực của thẩm phán.
Cải cách chế độ sử dụng, đãi ngộ, bảo vệ và chế độ giám sát, kỷ luật đối với thẩm phán.
KẾT LUẬN
Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức, hoạt động của ngành tòa án
nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn thiện củng cố, về cơ bản đã đáp ứng
được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ
máy cơ quan tòa án các cấp đã đi vào ổn định, hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống nhất,
đạt hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà nước cũng như các quyền, tự do dân chủ của công dân.
Tuy nhiên qua quá trình hoạt động và trước những yêu cầu nhiệm vụ mới của việc xây
dựng NNPQ, tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân đã bộc lộ rõ một số điểm bất cập chưa
hợp lý, đòi hỏi phải được đổi mới, điều chỉnh cho phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp nhằm
thực hiện các nhiệm vụ và yêu cầu mới. Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án là một
vấn đề có ý nghĩa hết sức đặc biệt quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, đây
không chỉ là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế mà còn là vấn đề đòi hỏi của việc
đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và công cuộc xây
dưng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
bảo đảm một cách tốt nhất các quyền, tự do, dân chủ của công dân.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án cần quán triệt các nguyên tắc, các quan điểm
chỉ đạo việc cải cách bộ máy nhà nước và các cơ quan tư pháp, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
những thành tựu đã đạt được của Việt nam và thế giới. Đặc biệt là việc thực hiện các Nghị quyết
của Đảng về cải cách tư pháp, nhất là Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Qua nghiên cứu luận văn có thể rút ra những kết
luận sau:

1. Tòa án là một bộ phận rất quan trọng không thể thiếu được trong bất kỳ nhà nước nào.
2. Làm rõ được vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tòa án nhân dân trong bộ máy nhà
nước ta.
3. Khái quát được lịch sử hình thành và phát triển của tòa án nhân dân từ năm 1945 trở lại
đây.
4. Đưa ra những nhận xét đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân
theo pháp luật hiện hành.


5. Đưa ra các giải pháp đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân
trong tiến trình cải cánh tư pháp phù hợp với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
nam xã hội chủ nghĩa.
Với những nội dung mà luận văn đề cập, hy vọng sẽ đóng góp một phần vào việc thực hiện
thành công đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay.

References
Văn bản pháp luật
1. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 1992 (2007), Nxb chính trị
quốc gia.
2. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ (2005), Nxb Chính trị Quốc gia.
3. Bộ luật tố tụng hình sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2003), Nxb
Chính trị Quốc gia.
4. Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2004), Nxb
chính trị quốc gia.
5. Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân (2002), Nxb Chính trị Quốc gia.
6. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (2006), Nxb Tư pháp.
7. Luật tổ chức TAND (2002), Nxb Chính trị Quốc gia.
Văn bản của Đảng
8. Ban chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Tài liệu hội nghị cán bộ toàn quốc tổng kết nghị

quyết 08/NQ-TW và triển khai thực hiên nghị quyết 49-NQ/TW của bộ chính trị về công tác tư
pháp.
9. Bộ chính trị (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới
10. Bộ chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 Về chiến lược cải cách tư
pháp dến năm 2020
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của trung ương đảng 1986-1999,
Nxb chính trị quốc gia.
12. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện đại hôi đại biểu đảng toàn quốc lần thứ
VI, Nxb Sự thật.


13. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hôi đại biểu đảng toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hôi đại biểu đảng toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị Quốc gia.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hôi đại biểu đảng toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia.
Sách tham khảo
16. Bộ ngoại giao Hoa Kỳ (2004), Các nguyên lý của nền pháp quyền

Chương trình

thông tin quốc tế.
17. Các Mác, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 1,tr. 137.
18. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt nam hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội.
19. Hoàng Thị Kim Quế (2006), Nhận diện nhà nước pháp quyền - Khoa luật 30 năm
truyền thống, Nxb Công an nhân dân.
20. Lê Cảm (2006), Quyền tư pháp, hệ thống tư pháp, cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp

trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền - Khoa luật 30 năm truyền thống, Nxb Công an nhân
dân.
21. Lịch sử các học thuyết chính trị pháp lý (1994), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Montexkio (1995) Những tác phẩm chọn lọc, Nxb Chính trị Quốc gia.
23. Ngô Huy Cương (2005), Góp bàn về cải cách pháp luật ở Việt nam hiện nay, Nxb Tư
pháp.
24. Nguyễn Đăng Dung (2002), Một số vấn đề về hiến pháp và bộ máy nhà nước, Nxb
giao thông vận tải.
25. Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật hiến pháp đối chiếu, Nxb TP Hồ Chí Minh.
26.Nguyễn Duy Gia (1995), Cải cách bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Chính
trị Quốc gia.
27. NguyễnVăn Thảo (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nxb Tư pháp.
28. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia.
29. V.I. Lê nin, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, tập 27, tr.197.


30. Trường Đại học luật Hà nội (2003), Tập bài giảng Luật so sánh, Hà nội.
Các công trình nghiên cứu, bài báo (Xếp theo thứ tự tên tác giả)
31. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2005), “ Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống
Tòa án Việt nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền”, Luận án tiến sỹ luật học, Đại
học quốc gia Hà Nội.
32. Hoàng Văn Hảo (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về NNPQ XHCN”, Nhà nước và
pháp luật (3), .
33. Lê Cảm (2006), “ Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn
xây dựng nhà nước Việt nam”, Tòa án nhân dân tối cao (3).
34. Nguyễn Mạnh Cường (2002),“Yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối
với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp”, Nghiên cứu lập pháp (10).
35. Nguyễn Mạnh Kháng (2003), “ Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng”, Nhà nước và

pháp luật (10).
36. Phạm Hồng Hải (2001), “ Vai trò của tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp ’’,
Tòa án nhân dân tối cao (1).
37. Võ Khánh Vinh (2003) “ Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta ”, Nhà nước và pháp luật (8).
38. Tòa án nhân dân tối cao (2007), “ Báo cáo tổng kết năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ
công tác năm 2007 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
39. Tòa án nhân dân tối cao (2006), “ Báo cáo tổng kết năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ
công tác năm 2006 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
40. Tòa án nhân dân tối cao (2005), “ Báo cáo tổng kết năm 2004 và phương hướng nhiệm
vụ công tác năm 2005 của ngành tòa án nhân dân, Hà Nội.
41. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (2000), “Chuyên đề: Tổng hợp các kiến nghị khoa
học góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp”, Thông tin khoa học pháp lý
(10+11), Bộ tư pháp.


Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân
dân trong tiến trình cái cách tư pháp
Phan Đức Phương
Khoa Luật
Luận văn ThS ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Tuân
Năm bảo vệ: 2007
Abstract: Phân tích cơ sở lý luận về tổ chức quyền lực Nhà nước, quyền tư pháp để làm
rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước, các quan
điểm về đổi mới, yêu cầu của cải cách tư pháp đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân. Từ đó làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân ở nước
ta và nêu nguyên nhân, hạn chế trong tiến trình cải cách tư pháp. Đề xuất những phương
hướng cơ bản và kiến nghị về xác định lại thẩm quyền xét xử và thiết kế mới mô hình tổ
chức của các tòa án; nâng cao tính độc lập, nghiêm minh của hoạt động xét xử; nâng cao

năng lực, phẩm chất và địa vị pháp lý của thẩm pháp, hội thẩm nhân dân, nhằm đổi mới
và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, xây dựng hệ thống tòa án trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử nói chung
Keywords: Cải cách tư pháp; Pháp luật Việt Nam; Tòa án

Content
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, trước yêu cầu Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và để đáp ứng yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong tình hình hiện nay đòi hỏi phải
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của tòa án nhân dân là một nội dung quan trọng được thể hiện trong nhiều văn kiện
Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan tư pháp, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, Nghị
quyết nêu rõ:


Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan
tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của TAND.
Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính
lãnh thổ, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp
huyện; tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ
án; tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào
thực tế xét xử của từng cấp tòa án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức tòa án nhân dân tối cao theo
hướng tinh gọn với đội ngũ thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh

nghiệm trong ngành.
Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự theo hướng
chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ
án liên quan đến bí mật quân sự...
Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh, nâng cao chất lượng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp.[9,tr.5].
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam cũng
nêu rõ:
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ
công lý, quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách họat động xét xử làm trọng tâm, thực hiện
cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến
pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp… [15,tr.126].
Như vậy, cả Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị và Văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đều xác định tòa án nhân dân phải tiến hành đổi
mới tổ chức và hoạt động đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Do đó, tòa án nhân dân phải chủ
động chuẩn bị tất cả các điều kiện để thực hiện thành công việc đổi mới tổ chức và hoạt động
phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp. Đến đây hàng loạt các vấn đề về lý luận và thực tiễn
được đặt ra khi đổi mới tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân đòi hỏi phải được quan tâm
nghiên cứu.
Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án
nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp " để làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành lý luận và
lịch sử nhà nước và pháp luật. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài viết trên các tạp chí
liên quan đến nội dung tổ chức hoạt động của tòa án nhân dân. Có thể phân loại thành hai nhóm
như sau:



- Nhóm thứ nhất: Những công trình là đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, các luận án
tiến sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến tòa án nhân
dân như: Đề tài khoa học cấp Nhà nước mã số KX.04.06 "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn
thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân". Luận án tiến sĩ luật học, Viện
nghiên cứu nhà nước và pháp luật "Đổi mới tổ chức và hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay " của tác giả Lê Thành Dương năm 2002. Luận án tiến sĩ luật học, Đại
học luật Hà nội "Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền" của tác giả Trần Huy Liệu năm 2003. Luận án tiến sĩ luật học, Đại học quốc gia
Hà nội "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền" của tác giả Đỗ Thị Ngọc Tuyết năm 2005. Sách tham khảo:
"Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy Nhà nước" của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao
thông vận tải năm 2002; "Hệ thống tư pháp và cái cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay" của tập thể các
tác giả do GS.TS Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội năm 2002; "Góp bàn về cải cách pháp
luật ở Việt Nam hiện nay" của TS Ngô Huy Cương, Nxb Tư pháp năm 2005; "Xây dựng Nhà nước
pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng" của Luật sư Nguyễn Văn Thảo, Nxb Tư pháp năm 2006.
Liên quan đến nhóm vấn đề này còn có kỷ yếu các cuộc hội thảo về lịch sử ngành tòa án
nhân dân.
- Nhóm thứ hai, là các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của
tòa án nhân dân được đăng trên các tạp chí: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây
dựng Nhà nước pháp quyền" của TSKH Lê Cảm, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 năm 2002;
“Những vấn đề chủ yếu của công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt nam” của TSKH.PGS Lê Cảm, tạp chí Tòa án nhân dân số 3 năm 2006; "Yêu
cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp " của tác giả Nguyễn Mạnh Cường, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 10 năm 2002;
"Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng" của tác giả Nguyễn Mạnh Kháng, tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 10 ...
Tuy vậy các công trình bài viết trên chủ yếu đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chung nhất về
tổ chức quyền lực Nhà nước, hoặc có công trình nghiên cứu về vấn đề này nhưng do thời điểm

nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn
hiện nay, do đó nội dung không còn mang tính thời sự nữa. Vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân mới chính thức được đặt vấn đề khi Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị được ban hành vào giữa năm 2005 và mới được ghi nhận trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam vào đầu năm 2006. Vì vậy, đến nay chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này được chính thức
công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp
luật làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến


trình cải cách tư pháp, nhằm xây dựng hệ thống tòa án trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án.
Nhiệm vụ của luận văn:
Qua phân tích những cơ sở lý luận cơ bản nhất về tổ chức quyền lực Nhà nước, quyền tư
pháp để làm rõ sự hình thành, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân trong bộ máy Nhà nước, các
quan điểm về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, yêu cầu của cải cách tư pháp
đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân.
+ Làm rõ thực trạng tổ chức, hoạt động tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay.
+ Đề xuất những phương hướng cơ bản cho việc đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn tập
trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân
đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, nên đối tượng là những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở Việt Nam.
Luận văn chỉ nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, không nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của tòa án quân sự.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được thể hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về lý luận và lịch
sử Nhà nước và Pháp luật, về đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình
cải cách tư pháp, những thành tựu của khoa học pháp lý trên thế giới.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, các phương pháp được sử dụng là các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa
học xã hội, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp,
lịch sử cụ thể, đồng thời cũng sử dụng phương pháp luật học so sánh, phương pháp lý thuyết hệ
thống, phương pháp thống kê …
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn
trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư
pháp.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người
làm thực tiễn, đồng thời có thể sử dụng được cho việc nghiên cứu, giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm
3 chương.


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN
1.1. Vị trí, vai trò của tòa án
1.1.1. Sự hình thành tòa án
Nhà nước đã ban hành ra pháp luật thì phải có cơ chế để đảm bảo cho pháp luật được thực
thi, bởi lẽ pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa, nếu nó không được các giai cấp và tầng lớp khác tuân
theo, pháp luật không đi vào đời sống hàng ngày của dân cư. Mặt khác trong bất cứ xã hội nào,
luôn luôn có các cá nhân, tổ chức hoặc giai cấp đối lập tìm mọi cách để làm trái các điều luật của
nhà nước, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp thống trị. Do vậy giai cấp thống trị đã tổ chức ra
một hệ thống các cơ quan chuyên làm nhiệm vụ bảo vệ và bảo đảm cho pháp luật được thực thi
như quân đội, cảnh sát... Nhưng không thể sử dụng đội quân này có thể bắt bớ, giam cầm một

cách tùy tiện, bởi như thế sẽ tạo nên sự hỗn loạn trong xã hội. Bởi lẽ đó cần có một cơ quan được
lập ra để đảm nhiệm chức năng xét xử, xem xét hành vi nào là đúng, là sai. Cơ quan đó chính là
tòa án, luôn tồn tại trong bất kỳ chế độ nhà nước nào.
Theo V.I. Lênin " … Tòa án là cơ quan quyền lực nhà nước, hoạt động của tòa án là hình
thức họat động của nhà nước... " [29, tr.197].
1.1.2. Vị trí, vai trò của tòa án ở nước ta
Tòa án là biểu hiện tập trung của quyền tư pháp, là cơ quan thực hiện chức năng xét xử. Ngay
từ buổi đầu của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tòa án đã chiếm một vị trí và vai trò hết sức
quan trọng trong việc xét xử những hành vi vi phạm pháp luật, chống phá nhà nước ta. Cùng với quá
trình phát triển của cách mạng, ở mỗi một giai đoạn khác nhau, do những yêu cầu đặt ra khác nhau,
tổ chức, họat động của tòa án nhân dân cũng có những nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên
nó cũng chiếm một vị trí và vai trò hết sức quan trọng, "...là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.... Trong phạm vi chức năng của mình có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân ; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân…”
[1,tr.71].
1.2 Các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Tòa án ở nƣớc ta hiện nay.
Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Đây là nguyên tắc "... là tiền đề nền tảng của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền ..."
[34,tr.32]. Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án ra những quyết định, bản án đúng pháp luật, thật
sự công bằng và khách quan. Theo nguyên tắc này khi xét xử, thẩm phán không bị ràng buộc bởi
bất cứ cơ quan hoặc cá nhân nào để xét xử khách quan, công bằng và nghiêm minh. Thẩm phán
phải chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình.
Nguyên tắc bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52 - Hiến pháp
1992). Trong hoạt động xét xử người tiến hành tố tụng phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt


động, xác minh điều tra, đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật phải đúng đắn, không vì bất cứ lý
do gì mà thiên vị bất cứ ai, bất cứ đương sự nào trong vụ án, không phân biệt địa vị, trình độ,
giới tính, đảng phái. Đảm bảo mọi hành vi vi phạm, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân và Nhà nước đều bị xử lý công bằng nghiêm minh đúng pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự (Điều 132 Hiến pháp 1992 và Điều 9 Luật tổ chức TAND).
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động xét xử của tòa án, bảo đảm
cho bị can, bị cáo không bị thiệt hại về quyền và những lợi ích hợp pháp.
Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 11 Luật tổ chức TAND).
Nguyên tắc này một mặt đảm bảo sự kiểm tra, giám sát, khiếu nại của chính các đương
sự, bị cáo, người bị hại đối với bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án thông qua việc thực hiện
quyền kháng cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác, tạo ra công cụ tự
kiểm tra, giám sát của hệ thống tư pháp - thông qua quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân hoặc của Tòa án cấp trên đối với quyết định, bản án sơ thẩm của tòa án cấp dưới.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án và quyết định của tòa án.
Công lý chỉ được khôi phục và duy trì, các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ
chức, công dân chỉ được bảo đảm trên thực tế khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp
luật được thi hành.
1.3 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tòa án ở nƣớc ta.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số
33/SL ngày 13 tháng 9 năm 1945 về việc thiết lập các Tòa án quân sự.
Theo Sắc lệnh này, ở nước ta sẽ thiết lập các Tòa án quân sự ở Hà Nội, Hải Phòng, Thái
Nguyên, Ninh Bình, Vinh, Huế, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Mỹ Tho. Các Tòa án quân sự đã được
thành lập với thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời chung thẩm tất cả những người phạm vào một
việc gì có phương hại cho nền độc lập của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Để giữ vững kỷ luật trong quân đội, ngày 23/8/1945 Chính phủ đã ra sắc lệnh số 163/SL
về việc thành lập tòa án xét xử các quân nhân, sĩ quan phạm tội.
Đó là những văn bản pháp lý đầu tiên, là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của tòa án
sau này.
Để nâng cao hiệu lực của Bộ máy Nhà nước cũng như để hoàn thiện về mặt tổ chức của
tòa án, ngày 24/1/1946 Chính phủ lâm thời đã ra Sắc lệnh số 13/SL quy định về tổ chức, hoạt
động tòa án và ngạch thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ, cụ thể tiêu
chuẩn nhiệm vụ và quyền hạn của các ngạch thẩm phán.

Hiến pháp năm 1946 quy định, hệ thống tòa án của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm
có: Tòa án tối cao, tòa án phúc thẩm, tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp. Các nhân viên thẩm phán đều
cho Chính phủ bổ nhiệm trong khi xét xử việc hình phải có phụ thẩm nhân dân để tham gia ý


kiến, nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc
đại hình.
Đến năm 1950, Nhà nước nhận thấy việc tổ chức tòa án theo mô hình cũ không còn phù
hợp, cần được cải cách nhằm nâng cao vị trí và vai trò của tòa án nhân dân. Ngày 22/5/1950,
Chủ tịch nước đã ký ban hành sắc lệnh số 85/SL về cải cách bộ máy tư pháp.
Theo Sắc lệnh này có sự thay đổi tên gọi của tòa án sơ cấp, tòa án đệ nhị cấp, tòa án
thượng thẩm với tên gọi mới là tòa án nhân dân huyện, tòa án nhân dân tỉnh, tòa án nhân dân liên
khu.
Năm 1953 cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất được tiến hành. Theo Sắc lệnh số
15/SL ngày 12/4/1953, Chính phủ đã thành lập những tòa án đặc biệt ở các vùng đang cải cách
ruộng đất để xét xử những kẻ phản cách mạng, cường hào gian ác, các tranh chấp về tài sản,
ruộng đất...
Tại kỳ họp lần thứ 8 của Quốc hội khóa I (4/1958), Quốc hội đã quyết định thành lập Tòa
án nhân dân tối cao và Viện Công tố trung ương. Cả hai hệ thống này đều tách khỏi Bộ Tư Pháp.
Hệ thống tòa án nhân dân gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương, các tòa án quân sự (Điều 97).
Hiến pháp năm 1980 ra đời với những bước tiến mới đáng kể trong các quy định về tổ
chức bộ máy Nhà nước, trong đó hệ thống tòa án nhân dân giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng,
ngày càng được không ngừng hoàn thiện và phát triển.
Việc tổ chức của các tòa án nhân dân địa phương và tòa án quân sự quân khu do Bộ Tư
pháp quản lý. Đây là điều kiện quan trọng, tạo điều kiện cho tòa án nhân dân tối cao làm tốt công
tác hướng dẫn và tổng kết kinh nghiệm xét xử, đồng thời cũng tạo điều kiện tốt cho hoạt động
xét xử của tòa án. Như vậy, về cơ bản, vị trí, vai trò của tòa án nhân dân vẫn giống như Hiến
pháp năm 1959.
Đến Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức TAND 1992, về cơ bản mô hình tổ chức và hoạt

động của tòa án vẫn như Hiến pháp 1980, tuy nhiên có sự thay đổi, đó là việc thay chế độ bầu
thẩm phán bằng việc bổ nhiệm thẩm phán ở tòa án các cấp, thẩm phán do Chủ tịch nước bổ
nhiệm, việc quản lý tòa án địa phương Bộ Tư pháp vẫn quản lý.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở NƢỚC
TA HIỆN NAY
2.1. Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành.
Về tổ chức tòa án
Theo hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 ở nước ta có
các tòa án sau: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung


ương, các tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, các tòa án quân sự, các tòa
án khác theo luật định … [7,tr.8].
Về hoạt động của tòa án
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002 thì tòa án xét
xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính và giải quyết những
việc khác theo quy định của pháp luật.
2.2 Những vấn đề đặt ra đối với tổ chức và họat động của tòa án nhân dân ở nước ta
hiện nay.
Về tổ chức.
Hệ thống cơ quan toà án được thành lập theo địa giới hành chính - lãnh thổ, giống như
mọi cơ quan hành chính nhà nước khác mà chưa tính đến đặc thù của hoạt động xét xử. Lý
thuyết về tội phạm học, kinh tế học và thực tế khách quan cho thấy, vi phạm pháp luật, tội phạm
và tranh chấp dân sự, đặc biệt là tranh chấp kinh tế, không phân bổ đồng đều theo đơn vị hành
chính- lãnh thổ mà phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như mức độ phát triển kinh tế- xã hội, văn
hoá; mật độ và chất lượng dân cư; các điều kiện kinh tế - địa lý của từng loại địa bàn như thành
phố, nông thôn, miền núi...“...Hầu hết các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án cấp
huyện theo quy định của BLTTHS và BLTTDS chủ yếu tập trung ở những vùng, miền trọng điểm
như các thành phố lớn, các địa phương có tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hóa cao, trong

đó không ít tòa án cấp huyện ở các địa phương khác có số lượng án phải thụ lý giải quyết không
nhiều, khoảng trên dưới 70 vụ/năm, cá biệt có nơi chỉ có trên dưới 20 vụ/năm...” [39,tr.48]. Từ
đó dẫn đến hệ quả tất yếu là khối lượng công việc, khối lượng vụ án hình sự và khối lượng tranh
chấp các loại đưa đến toà án xét xử cũng như qui mô, độ phức tạp, mức nghiêm trọng của các vụ
án sẽ rất khác biệt giữa các loại địa bàn. Mô hình tổ chức toà án theo địa giới hành chính - lãnh
thổ là không phù hợp nếu tính đến sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền hiện tại và
tương lai. Lịch sử toà án Việt Nam thời kỳ 1945-1959 đã cho chúng ta một kinh nghiệm tốt về tổ
chức toà án theo thẩm quyền xét xử kết hợp với địa giới lãnh thổ, cho phép cơ quan có thẩm quyền
thành lập các toà án mới ở từng địa bàn khi có nhu cầu.
Về hoạt động của tòa án.
Hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay về cơ bản đã hoàn thành tốt các mặt
công tác.Tuy nhiên số lượng vụ việc mà các cấp tòa án phải nghiên cứu giải quyết là rất lớn,
ngày càng phức tạp đòi hỏi các cấp tòa án phải nỗ lực hơn nữa để giải quyết nhanh chóng kịp
thời theo đúng các quy định của pháp luật. Với cách tổ chức như hiện nay thì hiện tại rất khó
khăn cho việc xét xử, chúng ta đã biết trước đây khi chưa tăng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện
thì việc xét xử sơ thẩm chủ yếu ở cấp tỉnh, kéo theo đó là TAND tối cao xét xử phúc thẩm đã bị
ách tắc khi mà lượng án giải quyết quá nhiều, đồng thời với đó là vi phạm tố tụng (kéo dài thời
gian giải quyết) và hàng loạt các vấn đề khác phát sinh như gây khó khăn cho người dân do đi lại
đến tòa án, mất công mất sức cho việc khiếu kiện, hao tốn tiền của, gây tâm lý bức xúc cho
người dân. Hiện tại khi thẩm quyền xét xử của cấp huyện được tăng thì tòa án cấp tỉnh lại cũng
lặp lại tương tự như tòa án tối cao trước đây, như vậy vấn đề đặt ra là không phải tăng thẩm


×