Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tác động của PCI đến hoạt động thành lập doanh nghiệp mới tại các địa phương ở việt nam giai đoạn 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 91 trang )

TÓM TẮT
Đề tài này đề cập đến vấn đề xác định mối quan hệ tác động giữa chỉ số PCI tổng
thể, các chỉ số PCI thành phần và lượng doanh nghiệp thành lập mới tại các địa phương.
Qua đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của chỉ số PCI tổng thể và các chỉ số PCI thành
phần đến lượng doanh nghiệp thành lập mới tại các tỉnh thành của Việt Nam. Nghiên
cứu sử dụng 2 mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là lượng doanh nghiệp thành lập
mới. Các biến giải thích đối với mô hình thứ nhất là chỉ số PCI tổng thể, giá trị GDP,
lực lượng lao động, tỉnh trọng điểm. Trong mô hình thứ hai, các biến độc lập bao gồm:
9 chỉ số PCI thành phần và các biến kiểm soát: giá trị GDP, lực lượng lao động, tỉnh
trọng điểm.
Thông qua công cụ phần mềm Excel, SPSS, Stata với dữ liệu bảng thu thập từ 63
tỉnh thành trong cả nước từ năm 2010 đến năm 2014. Kết quả hồi quy của mô hình 1
cho thấy PCI có tác động tích cực đến lượng doanh nghiệp thành lập mới. Tuy không
phải tất cả các chỉ số thành phần đều có tác động, nhưng kết quả hồi quy của mô hình 2
cũng cho thấy có sự tác động của 5 chỉ số PCI thành phần đến lượng doanh nghiệp
thành lập mới tại các tỉnh thành của nước ta từ năm 2010 đến 2014. Trong đó, các chỉ
số: chi phí gia nhập thị trường, tính minh bạch và tiếp cận thông tin, dịch vụ hỗ trợ
doanh nghiệp, đào tạo lao động có tác động tích cực, riêng chỉ số tính năng động và tiên
phong của lãnh đạo tỉnh có xu hướng tác động trái chiều nhưng mức ảnh hưởng rất thấp.
Các chỉ số PCI thành phần còn lại: tiếp cận đất đai, chi phí thời gian, chi phí không
chính thức, thiết chế pháp lý và biến kiểm soát tỉnh trọng điểm không ảnh hưởng đến
hoạt động thành lập doanh nghiệp mới trong giai đoạn này. Có thể hiểu rằng các chính
sách hỗ trợ của chính quyền địa phương thông qua các chỉ số này các năm qua chưa
phát huy tác dụng, hoặc những yếu tố trên chưa phải là vấn đề cần quan tâm khi quyết
định thành lập doanh nghiệp.
Đồng thời kết quả nghiên cứu cũng cho thấy giá trị GDP của địa phương có tác
động dương (+) và góp phần làm tăng lượng doanh nghiêp thành lập mới. Vì thế, đây
cũng là nhân tố có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của các tỉnh thành.
Từ kết quả nghiên cứu, đề tài đưa ra một số khuyến nghị liên quan đến cải thiện
chỉ số PCI và các chỉ số PCI thành phần chiếm trọng số cao và có tác động tích cực đến
lượng doanh nghiệp thành lập mới.


iii


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN.............................................................................................. ............ i
LỜI CẢM ƠN................................................................................................................ii
TÓM TẮT.....................................................................................................................iii
MỤC LỤC.....................................................................................................................iv
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ................................................................................vi
DANH MỤC BẢNG ...................................................................................................vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................viii
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề và lý do nghiên cứu ...................................................................... 1
1.2. Mụ
1.3. C

n
n

n ứ ....................................................................................... 2
n ứ ......................................................................................... 3

1.4. P ƣơn p áp n

n ứu ............................................................................... 3

1.5. Đố ƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 3
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3

1.6. Ý n

ĩa ủa đề tài nghiên cứu ........................................................................ 4

1.6.1. Điểm mới của đề tài................................................................................... 4
1.6.2. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu ................................................................... 4
1.7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 5
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ............................................................................ 6
2. 1. Các khái niệm có liên quan ........................................................................... 6
2.1.1. Doanh nghiệp, doanh nghiệp thành lập mới..............................................6
2.1.2.

ng

c cạnh t anh .................................................................................. 6

2.1.3. Chỉ số n ng

c cạnh tranh cấp tỉnh – PCI ............................................... 7

2. 2. Một số lý thuyết có liên quan ........................................................................ 8
2.2.1. Kinh tế học thể chế.....................................................................................8
2.2.2. N ng

c cạnh tranh.................................................................................10
iv


2.2.3. PCI và các chỉ số thành phần của PCI.....................................................17
2.3. Một số nghiên cứu thực nghiệm có liên quan ............................................. 20

2.4. Mô hình lý thuyế đề xuất.............................................................................26
2.4.1. Tổng hợp các nghiên cứu có liên quan.................................................... 26
2.4.2. Mô hình lý thuyết đề xuất ........................................................................ 28
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU.........30
3.1. Quy trình nghiên cứu.................................................................................... 30
3.2. P ƣơn p áp n

n ứu..............................................................................33

3.3. Mô hình nghiên cứu thực nghiệm................................................................ 34
3.3.1. Mô hình nghiên cứu.................................................................................34
3.3.2. Mô tả các biến số trong mô hình..............................................................35
3.3.3. Các giả thuyết nghiên cứu........................................................................42
3.4. Dữ liệu nghiên cứu.........................................................................................48
3.4.1. Nguồn dữ liệu nghiên cứu........................................................................48
3.4.2. Cách lấy dữ liệu.......................................................................................49
3.4.3. Mẫu nghiên cứu.......................................................................................49
CHƢƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......................................... 50
4.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ................................. 50
4.1.1. Thống kê mô tả giá trị của các biến.........................................................50
4.1.2. Thống kê mô tả các biến theo thời gian...................................................59
4.2. Tƣơn q an

ữa các biến trong mô hình nghiên cứu .............................. 63

4.3. Lựa chọn mô hình hồi quy ........................................................................... 64
4.4. Kết quả hồi quy từ mô hình nghiên cứu ..................................................... 65
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................ 74
5.1. Kết luận .......................................................................................................... 74
5.2. Khuyến nghị chính sách ............................................................................... 76

5.3. Những hạn chế của đề à và ƣớng nghiên cứu tiếp theo ........................ 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 79
PHỤ LỤC.....................................................................................................................86
v


DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ

Hình 1.1. Tình hình doanh nghiệp thành lập mới theo vùng kinh tế trong năm 2013.............1
Hình 2.1. Các yếu tố nền tảng của năng lực cạnh tranh.................................................11
Hình 2.2. Khung phân tích năng lực cạnh tranh của địa phương..................................12
Hình 2.3. Mô hình Kim cương của Michael Porter.......................................................15
Hình 3.1. Sơ đồ quy trình nghiên cứu...........................................................................32
Hình 4.1. Đồ thị thể hiện điểm PCI trung bình của các địa phương (2010-2014)........53
Hình 4.2. Biểu đồ thể hiện điểm của các chỉ số thành phần PCI (2010-2014).............60
Hình 4.3. Biểu đồ thể hiện số lượng doanh nghiệp thành lập mới qua các năm...........61
Hình 4.4. Biểu đồ thể hiện số lượng doanh nghiệp giải thể, ngưng hoạt động qua các
năm..................................................................................................................................62

vi


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan.....................................26
Bảng 3.1. Giải thích các biến trong mô hình nghiên cứu 1............................................45
Bảng 3.2. Giải thích các biến trong mô hình nghiên cứu 2............................................46
Bảng 4.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu.......................................51
Bảng 4.2. Tổng hợp 10 địa phương có lượng doanh nghiêp mới cao qua các năm.......51
Bảng 4.3. Tổng hợp 10 tỉnh thành đứng đầu bảng xếp hạng PCI (2010-2014).............57

Bảng 4.4. Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu theo thời gian..............59
Bảng 4.5. Tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.................61
Bảng 4.6. Ma trận tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình.............................63
Bảng 4.7. Kết quả hồi quy riêng phần giữa GDP và lao động.......................................64
Bảng 4.8. Kết quả ước lượng của hai mô hình nghiên cứu............................................65
Bảng 4.9. Kiểm định mô hình 1 và mô hình 2...............................................................66

vii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DN

Doanh nghiệp

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

DCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp huyện, thành phố

VCCI

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

USAID


Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ

VNCI

Dự án sáng kiến cạnh tranh Việt Nam

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

NLCT

Năng lực cạnh tranh

KTTĐ

Kinh tế trọng điểm

GDP

Tổng giá trị quốc nội

UBND

Ủy ban Nhân dân

viii


CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1. Đặt vấn đề và lý do nghiên cứu
Năm 2005, Việt Nam đã có 136.000 doanh nghiệp được thành lập theo Luật
doanh nghiệp năm 2000. Lượng doanh nghiệp lúc này gấp 6 lần so với 9 năm trước đó.
Số lượng này vào năm 2013 vào khoảng gần 400.000 doanh nghiệp (số liệu từ Tổng
cục Thống kê năm 2014). Cũng vào năm này cả nước có 77.741 doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới với số vốn đăng ký 398.681 tỷ đồng, tăng 10,1% về số lượng doanh
nghiệp và giảm 14,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước (số liệu từ Cục
quản lý đăng ký kinh doanh năm 2014). Tuy nhiên sự phát triển doanh nghiệp không
đồng đều giữa các địa phương, 60% số doanh nghiệp tập trung ở 11 tỉnh. Cụ thể hơn,
vào năm 2013, tỷ lệ thành lập doanh nghiệp thay đổi mạnh qua các vùng miền (Vũ
Tiến Lộc, 2015).
Hình 1.1. Tình hình doanh nghiệp thành lập mới theo vùng kinh tế trong năm 2013

10%
29%

40%

4%
14%
3%

Đồng bằng sông Hồng

Trung du và miền núi phía bắc

Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung Tây Nguyên
Đông Nam Bộ

Đồng bằng sông Cửu Long


(Nguồn: Dữ liệu từ Cục quản lý đăng ký kinh doanh năm 2014 và tính toán của tác giả)
Việc doanh nghiệp lựa chọn địa phương nào hay vùng miền nào có thể phụ
thuộc nhiều yếu tố trong đó có những yếu tố mang tính lợi thế tự nhiên như vị trí địa lý
hay đặc điểm môi trường tự nhiên. Điều đáng nói là một số địa phương có sự tương
đồng về địa lý, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực - các điều kiện cứng để hỗ trợ doanh
1


nghiệp làm ăn, song lại có tốc độ doanh nghiệp phát triển rất khác nhau. Ví dụ như
cùng quanh Hà Nội, khi đó doanh nghiệp ở Vĩnh Phúc, Hưng Yên phát triển tốt trong
khi doanh nghiệp ở Hà Nam lại rất kém. Tương tự khi so sánh Bình Dương với Bình
Phước, Long An... (Vũ Tiến Lộc, 2015). Như vậy sự khác biệt này nằm ở năng lực
điều hành kinh tế của chính quyền địa phương. Năng lực điều hành này sẽ ảnh hưởng
trực tiếp tới môi trường đầu tư của địa phương, và năng lực cạnh tranh của địa phương
lại là một trong những lý do chính để doanh nghiệp lựa chọn địa điểm để đầu tư
(Andele, 2010).
Tại Việt Nam, PCI đã ra đời để đo đếm năng lực cạnh tranh thông qua sự đánh
giá, cho điểm của cộng đồng doanh nghiệp. PCI là công trình nghiên cứu đầu tiên
lượng hóa chỉ số về sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp với cấp chính quyền
(Vũ Tiến Lộc, 2015).
Nghiên cứu này nhận thức được tầm quan trọng của chỉ số năng lực cạnh tranh
cấp tỉnh để đánh giá mức độ thuận lợi về môi trường đầu tư, kinh doanh, đánh giá
công tác quản lý và điều hành kinh tế của các tỉnh, thông qua cảm nhận của các doanh
nghiệp dân doanh trên 10 khía cạnh có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân. Đồng thời nghiên cứu này cũng đặt ra một câu hỏi là thực sự môi
trường cạnh tranh của địa phương được đánh giá thông qua chỉ số PCI có tác động tới
môi trường đầu tư của địa phương mà cụ thể ở đây là tác động tới lượng doanh nghiệp
đầu tư mới tại địa phương hay không? Nếu sự tác động này xảy ra thì những thành
phần nào của chỉ số PCI hay nói cách khác thành phần nào thuộc về năng lực cạnh

tranh cấp tỉnh sẽ đóng vai trò quan trọng hơn những thành phần còn lại trong việc thúc
đẩy lượng doanh nghiệp đầu tư mới tại địa phương. Như vậy để làm rõ vấn đề này,
việc lựa chọn và thực hiện đề tài: “Tác động của PCI đến hoạt động thành lập doanh
nghiệp mới tại các địa phương ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2014” là cần thiết.
1.2.

ục t u ng

n cứu

Với vấn đề nghiên cứu được đặt ra, đề tài này mong muốn đạt các mục tiêu sau:
(i) Đánh giá mức độ tác động của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI tới
việc đăng ký thành lập doanh nghiệp của các địa phương ở Việt Nam.
(ii) Đánh giá mức độ tác động của các chỉ số thành phần của PCI đến việc đăng
ký thành lập doanh nghiệp của các địa phương ở Việt Nam.

2


(iii) Đưa ra những kết luận và khuyến nghị liên quan đến sự tác động của PCI
và các chỉ số thành phần của PCI đến việc đăng ký thành lập doanh nghiệp mới của
các địa phương ở Việt Nam.
1.3. C u

ng

n cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung vào giải quyết những
câu hỏi nghiên cứu sau:

(i) Chỉ số PCI có tác động như thế nào đến việc đăng ký thành lập doanh
nghiệp mới tại các địa phương ở Việt Nam?
(ii) Trong trường hợp chỉ số PCI tổng thể có tác động thì mức độ tác động của
từng chỉ số thành phần PCI tới việc đăng ký thành lập doanh nghiệp tại các địa phương
là như thế nào?
1.4. P ƣơng p áp ng

n cứu

Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng để kiểm tra giả thuyết
nghiên cứu đã được đặt ra. Sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng kết hợp với kỹ thuật
sử dụng biến công cụ cùng với một số kiểm định cần thiết như kiểm định biến nội
sinh, kiểm định sự phù hợp của tập biến công cụ và kiểm định sự tương quan của biến
công cụ với phần dư.
Ngoài việc sử dụng mô hình hồi quy, đề tài cũng sử dụng các kỹ thuật thống kê
mô tả: bảng tần số và tần suất đối với các biến định tính, giá trị trung bình, giá trị lớn
nhất và nhỏ nhất đối với các biến định lượng để có những đánh giá ban đầu về các biến
trong mô hình.
1.5. Đố tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sự tác động của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
(PCI) và sự tác động của các chỉ số thành phần của PCI đến số lượng doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới kết hợp với yếu tố tác động khác như: giá trị GDP, lực lượng
lao động, tỉnh trọng điểm tại 63 tỉnh thành của Việt Nam.
Đối tượng được khảo sát là doanh nghiệp ngoài nhà nước.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu
Có nhiều yếu tố tác động đến sự hình thành doanh nghiệp mới, tuy nhiên đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu một vài yếu tố chủ yếu: chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh,
các chỉ số thành phần của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, giá trị GDP của địa
3



phương, lực lượng lao động tại địa phương, tỉnh trọng điểm có ảnh hưởng đến hoạt
động thành lập doanh nghiệp mới tại 63 tỉnh, thành trong phạm vi nước Việt Nam, với
thời gian nghiên cứu là 5 năm, từ năm 2010 đến năm 2014.
Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tác động của chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), và sự tác động của các chỉ số PCI thành phần đến hoạt động
thành lập doanh nghiệp mới. Từ kết quả nghiên cứu, đưa ra những kết luận và khuyến
nghị liên quan.
1.6. Ý ng ĩa của đề tài nghiên cứu
1.6.1. Điểm mới của đề tài
Đã có các nghiên cứu về PCI tác động đến tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng đầu
tư tư nhân, tăng trưởng kinh doanh của doanh nghiệp, hay dòng vốn FDI chảy vào các
địa phương nhưng tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu về PCI có mối quan hệ với việc
thành lập doanh nghiệp mới.
Ngoài việc sử dụng biến PCI, các biến thành phần của PCI, nghiên cứu còn đưa
thêm một số biến thuộc kinh tế vĩ mô của địa phương như: GDP, lực lượng lao động
địa phương, tỉnh trọng điểm để xem xét mối quan hệ với hoạt động thành lập doanh
nghiệp mới ở các tỉnh/thành trong cả nước.
1.6.2. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Sự phát triển (cả về kinh tế và xã hội) của một quốc gia, một địa phương phụ
thuộc rất lớn vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động của
doanh nghiệp giúp chính phủ, chính quyền các cấp giải quyết được nhiều vấn đề kinh
tế và xã hội như: thu nhập của người lao động, thu thuế để phát triển kinh tế, an sinh
xã hội, tình trạng thất nghiệp, việc làm cho người lao động, chính sách đào tạo,

.

Nói chung, hoạt động của doanh nghiệp đóng vai trò quyết định sự phát triển
của địa phương, quốc gia. Vì vậy, chính phủ và chính quyền địa phương phải tạo môi

trường thuận lợi, xây dựng thể chế kinh tế tốt góp phần tăng năng suất, phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Địa phương nào có môi trường kinh
doanh tốt, nâng cao được năng lực cạnh tranh thì nơi đó sẽ thu hút đầu tư, phát triển
doanh nghiệp và phát triển kinh tế.
Vì thế, trong những năm gần đây, thông qua quá trình đánh giá năng lực cạnh
tranh của các địa phương do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
4


thực hiện, qua các chỉ số thành phần của PCI, chính quyền địa phương các tỉnh/thành
trong cả nước đã và đang thực hiện cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút các
doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào địa phương mình. Trước thực trạng đó,
tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm cung cấp một cách nhìn khoa học, khách
quan để chính quyền địa phương có cơ sở khoa học đề ra các chính sách, giải pháp
thiết thực thu hút đầu tư của các doanh nghiệp trong nước, từ đó giúp kinh tế của địa
phương phát triển.
1.7. Kết cấu của đề tài
ết cấu của đề tài nghiên cứu dự kiến trình bày gồm 05 chương như sau:
C ƣơng 1: Giới thiệu.
Giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu bao gồm những nội dung: lý do
nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài.
C ƣơng 2: Cơ sở lý thuyết.
Ở chương này, trình bày các khái niệm về doanh nghiệp, doanh nghiệp được
thành lập mới, năng lực cạnh tranh, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và lý
thuyết về kinh tế học thể chế, năng lực cạnh tranh, PCI và các chỉ số thành phần của
PCI. Đồng thời, tác giả cũng trình bày tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm có liên
quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài để làm cơ sở đưa ra mô hình lý thuyết.
C ƣơng 3: P ƣơng p áp ng


n cứu và dữ liệu nghiên cứu.

Từ cơ sở lý thuyết trình bày ở chương 2 và các nghiên cứu có liên quan, tác giả
xây dựng mô hình nghiên cứu, đồng thời, phương pháp nghiên cứu, cách thức đo
lường các biến trong mô hình, các kỹ thuật phân tích số liệu sẽ được trình bày trong
chương này.
C ƣơng 4: Phân tích kết quả ng

n cứu.

Chương này trình bày thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu, phân
tích các kết quả nghiên cứu đạt được để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu và kiểm định các giải thuyết được đặt ra.
C ƣơng 5:

ết uận v

u ến ng ị.

Nội dung chương này tóm tắt các kết quả nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị
có liên quan. Đồng thời cũng chỉ ra giới hạn trong nghiên cứu và đề xuất gợi ý cho
những nghiên cứu tiếp theo.
5


CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương này tập trung trình bày các khái niệm, giới thiệu cơ sở lý thuyết về
năng lực cạnh tranh, thể chế kinh tế, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI, các kết
quả nghiên cứu thực nghiệm có đánh giá tác động PCI và các chỉ số thành phần của
PCI trong thu hút đầu tư, trong tăng trưởng kinh tế.... và sau cùng là đề xuất mô hình

lý thuyết thể hiện sự tác động của chỉ số PCI, các chỉ số thành phần của PCI đến hoạt
động thành lập doanh nghiệp mới tại các địa phương của Việt Nam.
2. 1. Các khái niệm có liên quan
2.1.1. Doanh nghiệp, doanh nghiệp được thành lập mới
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế cơ sở, là tế bào của nền kinh tế và là nơi trực
tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội (Đồng Thị Phương Thanh và các cộng sự, 2005).
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh, (Luật Doanh nghiệp, 2005). Theo Trần Thị Bạch Diệp (2008)
thì trong quá trình hình thành và phát triển của bất kỳ quốc gia nào, doanh nghiệp cũng
là đơn vị cơ sở, tế bào của nền kinh tế, là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, trực tiếp phối hợp các yếu tố sản xuất hợp lý tạo ra sản phẩm, dịch vụ hiệu quả
nhất.
Trong nghiên cứu này sử dụng khái niệm doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp
được Quốc Hội ban hành năm 2014: doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của Pháp luật nhằm mục
đích kinh doanh.
Doanh nghiệp được thành lập mới
Doanh nghiệp được thành lập mới là việc các nhà đầu tư như các tổ chức, cá
nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam,
đầu tư thành lập doanh nghiệp và hoạt động theo Luật doanh nghiệp (Luật Đầu tư,
2014).
2.1.2. N ng

c cạnh t anh

Theo Michael Porter (1998), khái niệm có ý nghĩa duy nhất về năng lực cạnh
tranh là năng suất (Productivity), hay nói cách khác năng suất là yếu tố quan trọng
nhất trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, duy trì tăng trưởng nhanh và bền vững.

6


Ở cấp độ quốc gia, khái niệm "Năng lực cạnh tranh" (NLCT) có ý nghĩa là năng
suất sản xuất quốc gia. NLCT quốc gia được đo lường bằng năng suất sử dụng lao
động, vốn, và tài nguyên thiên nhiên, trong đó: Năng suất quyết định mức sống bền
vững (lương, lợi nhuận từ vốn và từ tài nguyên thiên nhiên). Năng suất của một nền
kinh tế xuất phát từ sự phối hợp của cả doanh nghiệp nội địa và nước ngoài. Của cải và
việc làm phụ thuộc vào NLCT doanh nghiệp. Các quốc gia cạnh tranh với nhau trong
việc tạo ra môi trường có năng suất cao nhất cho doanh nghiệp. Khu vực công và tư có
vai trò khác nhau nhưng bổ sung cho nhau trong việc tạo ra một nền kinh tế có năng
suất, (Nguyễn Xuân Thành, 2014). Chính phủ có chức năng cải thiện môi trường, điều
kiện thúc đẩy nâng cao năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các công trình
hạ tầng, ban hành chính sách nhằm kích thích sáng tạo và tăng năng suất của các
doanh nghiệp. Trong đó NLCT quốc gia chủ yếu phát sinh từ chính sách chính phủ áp
dụng, nghĩa là nó phụ thuộc rất lớn vào năng lực xác định mục tiêu, hoạch định và tổ
chức thực hiện chính sách của chính phủ (Phan Nhật Thanh, 2012).
Ở góc độ địa phương, NLCT của địa phương thường xuất hiện trong lý thuyết
về thể chế trong đó nhấn mạnh tới vai trò của thể chế và sự thay đổi của thể chế tác
động tới tăng trưởng kinh tế (Glaeser và ctg, 2004). Trong lý thuyết này, năng lực cạnh
tranh của địa phương được hiểu là năng lực thể chế của địa phương đó trong việc thiết
lập các luật lệ, các tiến trình cần phải tuân thủ, các quy tắc về đạo đức (North 1981).
Những vấn đề này được dùng để ràng buộc các hành vi cá nhân trong cùng một mục
đích chung là tối đa hóa lợi ích hay tài sản (North, 1991).
2.1.3. Chỉ số n ng

c cạnh tranh cấp tỉnh – PCI

Chỉ số NLCT cấp tỉnh hay PCI (viết tắt của Provincial Competitiveness Index)
là chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng

điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển
doanh nghiệp dân doanh (VCCI, 2005). PCI được xem là một công cụ chính sách,
hướng tới thay đổi thực tiễn, có nguồn gốc từ Việt Nam do một nhóm chuyên gia trong
và ngoài nước của VCCI và USAID phát triển. Đây là dự án hợp tác nghiên cứu giữa
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Dự án Sáng kiến cạnh tranh
Việt Nam (là dự án do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ).

7


2. 2.

ột số ý t u ết có

n quan

2.2.1. Kinh tế học thể chế
Theo Kasper và Streit (1998) các thể chế (institution) là những quy tắc tương
tác của con người, ràng buộc cách ứng xử của cá nhân, qua đó khiến cho hành vi con
người trở nên dễ tiên đoán hơn và tạo điều kiện cho sự phân công lao động cùng hoạt
động tạo ra của cải vật chất. Theo North (1991, 1997), thể chế là bao gồm các ràng
buộc phi chính thức (điều thừa nhận, cấm đoán theo phong tục, tập quán, truyền thống
và đạo lý), những quy tắc chính thức (hiến pháp, luật, quyền sở hữu) và hiệu lực thực
thi chúng.
Kinh tế học thể chế (Institution Economics) bao hàm mối quan hệ hai chiều
giữa kinh tế học và các thể chế. Kinh tế học thể chế quan tâm đến ảnh hưởng của thể
chế đến nền kinh tế cũng như quá trình phát triển của các thể chế trước những trải
nghiệm về kinh tế (Kasper và Streit, 1998). Kinh tế học thể chế có hai trường phái chủ
yếu là kinh tế học thể chế cũ (Old Institutional Economics) và kinh tế học thể chế mới
(New Institutional Economics). Kinh tế học thể chế cũ ra đời ở Mỹ vào các thập niên

thứ hai – thứ ba của thế kỷ 20 được xem là một học thuyết đầy ấn tượng. Kinh tế học
thể chế mới ra đời và phát triển tương đối mạnh mẽ trong những thập niên trở lại đây.
Vẫn dựa trên học thuyết tân cổ điển, kinh tế học thể chế mới được xem như một học
thuyết về hành vi của con người và tổ chức kết hợp với lý luận về quyền sở hữu, thông
tin bất đối xứng và chi phí giao dịch. Kinh tế học về thể chế được dùng để lý giải các
hiện tượng tăng trưởng kinh tế thông qua hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền
(Chang, 2006). Kinh tế học thể chế được sử dụng trong nghiên cứu này là kinh tế học
thể chế mới.
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank) (1997), nền kinh tế hiện đại là một hệ
thống tiến hoá phức hợp mà mức độ hiệu quả của nó trong việc đáp ứng những mục
đích vốn đa dạng và không ngừng thay đổi của con người lại phụ thuộc vào các quy
tắc giúp hạn chế cách ứng xử khả dĩ cơ hội chủ nghĩa của họ (những quy tắc này được
gọi là „thể chế‟). Các thể chế bảo vệ phạm vi tự do cá nhân, giúp tránh hoặc giảm mâu
thuẫn, đồng thời nâng cao sự phân công lao động (division of labour) và phân hữu tri
thức (division of knowledge), qua đó thúc đẩy thịnh vượng. Quả thực, các quy tắc điều
chỉnh sự tương tác của con người lại đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh
tế đến mức ngay chính sự tồn tại và phồn vinh của nhân loại, mà dân số chắc chắn sẽ
8


còn tăng trong tương lai, cũng phụ thuộc vào những thể chế đúng đắn cùng các giá trị
con người cơ bản vốn tạo nền tảng cho chúng (Kasper và Streit, 1998). Sự khác biệt to
lớn về tốc độ tăng trưởng giữa các quốc gia, lại liên quan nhiều đến một số loại hình
thể chế, giá trị và trật tự xã hội nhất định.
Quere và cộng sự (2007) đã nêu ra 3 lý do tại sao chất lượng thể chế lại có thể
thu hút FDI. Thứ nhất là, tăng triển vọng năng suất sản xuất, cấu trúc thể chế quản trị
tốt có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ hai là, một thể chế yếu kém làm tăng
chi phí cho hoạt động đầu tư (ví dụ: trường hợp tham nhũng). Thứ ba là, do chi phí
chìm cao, đặc biệt FDI là hình thức đầu tư dễ bị tổn thương do tính không chắc chắn
xuất phát từ hiệu quả hoạt động của chính phủ thấp, quyền sở hữu và hệ thống thực thi

pháp luật yếu hay sự phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài trong
một môi trường kinh doanh thiếu bình đẳng. Hầu hết các lý luận và nghiên cứu đều
khẳng định, các nước có môi trường thể chế tốt sẽ có khả năng thu hút FDI mạnh hơn
(Wei & Shleifer, 2000), (Kinoshita & Campos, 2003) và “nước nào có thể chế nhà
nước ổn định làm cơ sở tiên liệu tương lai thì nước ấy có mức đầu tư tăng trưởng cao
hơn những nước thiếu thể chế như vậy” (World Bank, 1997).
Kinh tế học thể chế cho rằng một thể chế được xem là “tốt” nếu: (i) nó làm
giảm chi phí giao dịch và có chế tài hạn chế được xung đột; (ii) sự phát triển không đòi
hỏi tính đơn nhất của thể chế. Tuy nhiên, một số đặc trưng chung nhất của thể chế có
quan hệ với tăng trưởng kinh tế và phát triển trong dài hạn chẳng hạn như tăng trưởng
có mối quan hệ chặt chẽ với các biến số: mức độ bảo hộ quyền sở hữu, cạnh tranh,
tham những, chất lượng bộ máy công quyền, và rủi ro thực hiện hợp đồng kinh
doanh...; (iii) hình thức thể chế là quan trọng nhưng yếu tố quyết định chất lượng thể
chế là ở việc thực thi; (iv) ổn định thể chế là điều kiện cần và để đảm bảo cho phát
triển bền vững thì thể chế phải luôn được hoàn thiện; (v) vai trò của nhà nước và thị
trường cũng cần phải được nhận diện đầy đủ và sâu sắc hơn.
Theo Đinh Vũ Trang Ngân (2013), khi các thiết chế kém hiệu quả và không
được doanh nghiệp tin dùng, thể hiện là trong môi trường mà quyền tài sản không an
toàn, thể chế không ổn định, pháp luật kém hiệu lực, tồn tại nhiều rào cản gia nhập thị
trường và cản trở của độc quyền ... chính những điều này làm tăng chi phí giao dịch,
chi phí kinh doanh và tồn tại nhiều rủi ro vì thế để tối đa hóa lợi nhuận các công ty tư
nhân thường chạy theo mục tiêu trước mắt, ít đầu tư tài sản cố định và đa số hoạt động
9


với quy mô nhỏ. Hệ quả là các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao trong lĩnh vực
thương mại sẽ đầu cơ và tìm kiếm đặc quyền – đặc lợi (rent – seeking). Các công ty
sản xuất có vốn cố định đáng kể tồn tại dưới sự bảo vệ của chính quyền thông qua trợ
cấp, bảo hộ thuế quan..., và những hành vi này vốn không thể mang lại hiệu quả cho
nền kinh tế.

Môi trường đầu tư ở một địa phương ảnh hưởng rất nhiều đến các ưu đãi, cơ hội
và hiệu quả hoạt động của mọi doanh nghiệp. Các nhà đầu tư luôn tìm kiếm một môi
trường đầu tư tốt, môi trường đó không những tạo ra nhiều cơ hội hơn cho họ phát
triển và quan trọng hơn là môi trường mà giúp doanh nghiệp giảm chi phí và sự không
chắc chắn. Theo Williamson (1985), chi phí giao dịch là yếu tố kinh tế tương đương
với ma sát trong các hệ thống vật lý.
Chính vì vậy, có khá nhiều nhà nghiên cứu đã áp dụng lý thuyết về kinh tế học
thể chế trong các vấn đề có liên quan tới chỉ số PCI tại Việt Nam. Tiêu biểu trong số
này có thể kể đến Malesky và Taussig (2009) và Malesky (2013) khi các tác giả tìm
hiểu tác động của các chỉ số PCI tới tăng trưởng của doanh nghiệp tại các địa phương
ở Việt Nam. Ở một góc độ khác, McCulloch và ctg (2013) lại tìm hiểu ảnh hưởng của
PCI tới đầu tư của lĩnh vực tư nhân trong nước. Trong khi đó Nguyen và Nguyen
(2007) lại tìm hiểu về dòng vốn FDI dưới sự ảnh hưởng của PCI.
2.2.2. N ng

c cạnh tranh

hung phân tích năng lực cạnh tranh (NLCT) của Giáo sư Michael Porter đã
phát triển trong vòng hai thập kỷ qua. Khung phân tích này rất linh hoạt trong việc mô
tả vai trò của các yếu tố khác nhau của NLCT. Nó vừa ghi nhận sự tương tác giữa các
yếu tố, đồng thời không áp đặt một giả định nào về việc yếu tố nào có vai trò quan
trọng hơn. Theo Porter (2008), yếu tố trung tâm cốt lõi của khung phân tích NLCT là
khái niệm năng suất – được định nghĩa là khả năng tạo ra các hàng hoá và dịch vụ có
giá trị thông qua việc sử dụng các nguồn lực con người, vốn và nguồn lực tự nhiên của
một quốc gia – và năng suất là động lực cốt lõi dẫn dắt sự thịnh vượng bền vững
Năng suất phụ thuộc cả vào giá trị của hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra
cũng như hiệu quả của quá trình sản xuất. Để tăng trưởng năng suất bền vững đòi hỏi
nền kinh tế phải được liên tục nâng cấp và có ba nhóm nhân tố quyết định NLCT của
một quốc gia, bao gồm (i) các yếu tố lợi thế tự nhiên của quốc gia, (ii) NLCT vĩ mô,
và (iii) NLCT vi mô (Vũ Thành Tự Anh, 2010, tr.2-6).

10


Năng lực cạnh tranh cao được phản ánh qua mức năng suất cao. Năng suất là
kết quả của một tập hợp các nhân tố được hình thành dưới tác động của những thành
viên tham gia trong nền kinh tế. Theo VCR (2010), một số nhân tố được nhóm vào
NLCT vĩ mô thể hiện môi trường hay bối cảnh chung mà trong đó các công ty hoạt
động. Các nhân tố này bao gồm chất lượng của hạ tầng xã hội và thể chế chính trị cũng
như các chính sách kinh tế vĩ mô. Không tác động trực tiếp lên năng suất nhưng nhóm
nhân tố này tạo ra cơ hội cho các yếu tố thúc đẩy năng suất được phát huy. Một nhóm
nhân tố khác, được gọi là NLCT vi mô, mô tả cách thức các công ty hoạt động và các
yếu tố bên ngoài có tác động trực tiếp lên kết quả hoạt động của các công ty, bao gồm
sự tinh thông của doanh nghiệp, trình độ phát triển các cụm ngành và chất lượng của
môi trường kinh doanh. Hai nhóm nhân tố vi mô và vĩ mô có tác động trực tiếp lên
năng suất. Cũng theo VCR (2010) nhóm nhân tố thứ ba trong NLCT cần được xem xét
đó là các lợi thế tự nhiên. Tuy là những nhân tố không tác động lên năng suất, nhưng
có thể hỗ trợ trực tiếp cho việc tạo ra sự thịnh vượng. Các nhân tố này cũng tạo ra một
môi trường tổng thể mà trong đó một nền kinh tế và vị thế tương đối của nó so với các
nền kinh tế khác được xác định.
Hình 2.1. Các yếu tố nền tảng của năng ực cạnh tranh

(Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010)
Từ khung phân tích NLCT của Giáo sư Michael E. Porter, Vũ Thành Tự Anh
(2010) cho rằng năng suất sử dụng các nguồn lực (bao gồm vốn, lao động, đất đai và
các tài nguyên khác) đóng vai trò trung tâm, một mặt vì nó là thước đo chính xác nhất
11


và có ý nghĩa duy nhất cho NLCT; mặt khác nó là nhân tố quyết định sự thịnh vượng
của các địa phương (tỉnh, thành phố, vùng, quốc gia). Điều này cũng có nghĩa là cạnh

tranh như thế nào (năng suất cao hay thấp) thậm chí quan trọng hơn việc cạnh tranh
trong ngành nào. Vũ Thành Tự Anh (2010) đã đưa ra khung lý thuyết về NLCT của
địa phương, cụ thể như sau:
Hình 2.2.

ung p

n tíc năng ực cạnh tranh của vùng và địa p ƣơng

(Nguồn: Vũ Thành Tự Anh (2010), điều chỉnh từ Michael Porter (1990, 1998, 2008))
Các yếu tố lợi thế sẵn có của địa phương: Các nhân tố nền tảng quyết định năng
suất của địa phương được chia thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất, ở dưới cùng trong Hình
2.2, là “các yếu tố lợi thế sẵn có của địa phương”, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị
trí địa lý, hay quy mô của địa phương. Những nhân tố này không chỉ là số lượng mà
còn bao gồm sự phong phú, chất lượng, khả năng sử dụng, chi phí đất đai, điều kiện
khí hậu, diện tích và địa thế vùng, nguồn khoáng sản, nguồn nước, các nguồn lợi thuỷ
sản hay ngư trường, v.v. Mặc dù những yếu tố này giữa các địa phương có thể tương
đồng hoặc khác biệt, song chúng đều là những đầu vào cần thiết cho việc cạnh tranh
của bất kỳ địa phương nào và cho cả các doanh nghiệp hoạt động trong địa phương đó.
Tuy nhiên, không phải khi nào thì sự dồi dào của các yếu tố “thiên nhiên” này
cũng mang lại NLCT tốt hơn cho địa phương. Đồng thời, không phải bao giờ sự nghèo
nàn của chúng cũng đồng nghĩa với sự bất lợi trong cạnh tranh. Lịch sử kinh tế thế giới
12


đã cho chúng ta một bài học rằng việc quá dư thừa nhân tố sản xuất có thể dẫn đến làm
suy giảm, thay vì làm gia tăng lợi thế cạnh tranh. Trong khi đó, những bất lợi nhất
định về nhân tố sản xuất, thông qua tác động của chiến lược và sự đổi mới, lại thường
đóng góp vào sự thành công lâu dài trong cạnh tranh (Porter, 1990). Điều này cũng có
nghĩa là những lợi thế về sự sẵn có của nguồn tài nguyên hay vị trí địa lý có thể đóng

góp cho sự thịnh vượng của địa phương trong một số thời kỳ và với những điều kiện
nhất định, song nếu chỉ dựa vào những lợi thế “trời cho” này thì sự thịnh vượng cũng
sẽ chỉ có giới hạn. Không những thế, không loại trừ một khả năng là chính thu nhập dễ
dàng từ những nguồn tài nguyên “từ trên trời rơi xuống” sẽ là một mầm móng của nạn
tham nhũng và cho phép các chính sách tồi tồn tại dai dẳng (Vũ Thành Tự Anh, 2010).
Các nhà kinh tế gọi nghịch lý này là “lời nguyền tài nguyên”. Nhiều bằng chứng cho
thấy có những quốc gia rất giàu tài nguyên và nguồn lực tự nhiên nhưng lại rất kém
phát triển trong khi cũng có nhiều quốc gia thành công trong phát triển mặc dù không
có nguồn tài nguyên đáng kể nào (Frankel, 2010). Theo Porter (2008), khi nguồn
nguyên vật liệu được cung cấp một cách phong phú với giá rẻ hay lao động dư thừa,
thì các doanh nghiệp có thể có khuynh hướng ỷ lại thái quá vào những lợi thế này và
khai thác chúng một cách kém hiệu quả. Nhưng khi các doanh nghiệp phải đối mặt với
một số bất lợi, ví dụ như chi phí đất đai cao, thiếu hụt lao động, hay thiếu hụt nguyên
vật liệu tại địa phương, thì các doanh nghiệp đó phải đổi mới và nâng cấp để có thể
cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh ở cấp độ địa phương: Nhóm nhân tố thứ hai, ở giữa trong
Hình 2.2, là “NLCT ở cấp độ địa phương”. Nhóm này bao gồm các nhân tố cấu thành
nên môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường hoạt động của doanh nghiệp
là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng lên NLCT của các doanh nghiệp từ cách suy nghĩ,
quan điểm, thái độ cho đến hành vi, sự sáng tạo và tinh thần kinh doanh. Có thể chia
các yếu tố này thành hai nhóm chính bao gồm (i) chất lượng của hạ tầng xã hội và các
thể chế chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế; và (ii) các thể chế, chính
sách kinh tế như chính sách tài khoá, tín dụng và cơ cấu kinh tế.
Theo Vũ Thành Tự Anh (2010), yếu tố hạ tầng xã hội lấy sự phát triển của con
người làm trung tâm, trong đó chú trọng đến vai trò của giáo dục và hệ thống y tế. Nếu
xét ở NLCT, giáo dục cơ bản còn là nền tảng cho việc học hỏi, tiếp thu tri thức, sáng
13


tạo và đổi mới trong doanh nghiệp. Vai trò của thể chế chính trị phải gắn liền với

thượng tôn pháp luật, và sự phát triển của nó được đo lường bởi sự cởi mở và ổn định
xã hội ở địa phương, tiếng nói của các doanh nghiệp được lắng nghe và được tôn
trọng.
Bên cạnh các thể chế chính trị và xã hội thì các thể chế và chính sách kinh tế
cũng có tác động lên NLCT ở cấp độ địa phương. Các chính sách phát triển kinh tế của
địa phương chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi các chính sách kinh tế vĩ mô từ chính quyền
trung ương nhưng sự đánh giá ở cấp độ địa phương nằm ở khả năng của chính quyền
địa phương đưa các chính sách đó vào thực tiễn như thế nào (Vũ Thành Tự Anh,
2010). Vì vậy, các chính sách này thường nhận được sự quan tâm đặc biệt của cộng
đồng doanh nghiệp, ví dụ như sự sẵn có của các nguồn vốn, khả năng tiếp cận vốn dễ
dàng, chi phí sử dụng vốn thấp và một hệ thống thanh toán tốt đều là những mối quan
tâm đặc biệt của bất kỳ doanh nghiệp nào khi quyết định lựa chọn môi trường để đầu
tư và phát triển.
Mặc dù không trực tiếp “tạo ra” năng suất và NLCT, song các nhân tố kể trên
lại có vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy hay cản trở nỗ lực tăng năng suất
của doanh nghiệp.
Theo Porter (1998), các nhân tố có tính địa phương ảnh hưởng đến lợi thế cạnh
tranh thông qua ảnh hưởng của nó đến năng suất và đặc biệt là tăng trưởng năng suất.
Sự thịnh vượng của địa phương phụ thuộc vào năng suất của những doanh nghiệp hoạt
động tại địa phương đó. Mà năng suất này lại phụ thuộc vào chất lượng của môi
trường kinh doanh tại địa phương. Ví dụ, doanh nghiệp không thể hoạt động hiệu quả
trong môi trường vĩ mô bất ổn hay môi trường pháp lý phức tạp, khó thực hiện. Hoặc
doanh nghiệp cũng không thể hiệu quả nếu như cơ sở hạ tầng giao thông tắc nghẽn,
điện lưới phập phù hay thiếu lao động có kỹ năng.
Năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp: Nhóm nhân tố thứ ba, ở trên cùng
trong Hình 2.2, là “NLCT ở cấp độ doanh nghiệp”. Đây là những nhân tố tác động trực
tiếp tới năng suất của doanh nghiệp, bao gồm chất lượng môi trường kinh doanh và cơ
sở hạ tầng kỹ thuật, trình độ phát triển cụm ngành, hoạt động và chiến lược của doanh
nghiệp.


14


Môi trường kinh doanh là điều kiện bên ngoài giúp doanh nghiệp đạt được mức
năng suất và trình độ đổi mới, sáng tạo cao nhất. Theo Porter (2008), chất lượng của
môi trường kinh doanh thường được đánh giá qua bốn đặc tính tổng quát bao gồm: (i)
các điều kiện về nhân tố đầu vào, (ii) các điều kiện cầu, (iii) các ngành công nghiệp
phụ trợ và liên quan, và (iv) chiến lược công ty, cấu trúc và cạnh tranh nội địa. Porter
(2008) mô tả bốn đặc tính này thông qua bốn góc của một hình thoi được nhiều nhà
nghiên cứu gọi một cách hoa mỹ là Mô hình

im cương Porter (xem Hình 2.3). Trong

đó, các điều kiện về yếu tố đầu vào có thể được chia thành cơ sở hạ tầng, nguồn vốn,
nguồn nhân lực, nguồn tài sản vật chất, và nguồn kiến thức. Các địa phương đều có
những yếu tố này nhưng sự phối hợp của các nhân tố đó lại rất khác nhau và lợi thế
cạnh tranh từ các nhân tố này phụ thuộc vào việc chúng được triển khai và hiệu quả
hay không (Porter, 2008).
Hình 2.3.

ô ìn

m cƣơng của Michael Porter

(Ng ồn: Porter (2008))
Cần lưu ý rằng một số nhân tố như nhân lực, kiến thức, và vốn có thể di chuyển
giữa các địa phương, cho nên việc có sẵn các nhân tố này ở mỗi địa phương không
phải là một lợi thế cố hữu, bất di bất dịch. Hơn nữa, nguồn dự trữ các nhân tố đầu vào
mà một địa phương có được ở một thời điểm cụ thể không quan trọng bằng tốc độ và
tính hiệu quả mà địa phương đó tạo ra cũng như việc nâng cấp và sử dụng các nhân tố

này trong những ngành cụ thể (Porter, 2008). Chính vì vậy, ngoài bốn đặc tính kể trên
15


thì cần phải nhấn mạnh đến vai trò của chính quyền địa phương trong việc hoạch định
và thực thi các chính sách kinh tế, trong việc định hình nhu cầu và thiết lập các tiêu
chuẩn cho cạnh tranh nhằm hướng đến việc cải thiện năng suất.
Khác với nhân tố môi trường kinh doanh và hạ tầng kỹ thuật, nhân tố về hoạt
động và chiến lược của doanh nghiệp đánh giá các điều kiện bên trong nhằm giúp
doanh nghiệp đạt được mức năng suất và trình độ đổi mới sáng tạo cao nhất dựa trên
độ tinh thông, những kỹ năng, năng lực và thực tiễn quản lý của doanh nghiệp. Nhân
tố này bao gồm những đánh giá từ nền tảng học vấn và trình độ chuyên môn của chủ
doanh nghiệp, trình độ hiểu biết và khả năng ứng dụng công nghệ và công nghệ thông
tin trong kinh doanh, những chuẩn mực cao về quản trị, điều hành, cả năng lực đối
thoại, tư vấn và phản biện chính sách của doanh nghiệp (Vũ Thành Tự Anh, 2010).
Trình độ phát triển cụm ngành phân tích sự tập trung nhất định. Cụm ngành tạo
thành một mặt của mô hình im cương nói trên nhưng đúng hơn là cần phải được xem
như thể hiện các mối tương tác giữa bốn mặt của viên

im cương với nhau. Cụm

ngành phản ánh tác động của các liên kết và tác động lan toả giữa các doanh nghiệp và
các tổ chức có liên quan trong cạnh tranh. Sự phát triển của các cụm ngành cũng sẽ
giúp tăng năng suất và hiệu quả hoạt động, thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo, và các quá
trình thương mại hoá. Sự có mặt của cụm ngành cũng tạo cơ hội cho dòng chảy thông
tin và trao đổi kỹ thuật, tăng khả năng phát sinh những cơ hội mới trong ngành công
nghiệp, giúp hình thành một hình thức doanh nghiệp mới, những doanh nghiệp sẽ
mang đến một phương pháp mới trong cạnh tranh (Porter, 2008).
Trong điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, thì
“Quốc gia nào có năng lực cạnh tranh cao sẽ có nhiều cơ hội để vượt lên, phát triển

nhanh và bền vững”. Nâng cao năng lực cạnh tranh, đã trở thành nhiệm vụ “sống còn”
đối với cả nền kinh tế và đối với mỗi doanh nghiệp Việt Nam hiện nay (Nguyễn Tấn
Dũng, 2014).
Từ ba lý thuyết được giới thiệu ta thấy rằng NLCT có nhiều khía cạnh và yếu
tố cấu thành và từng yếu tố cấu thành NLCT có những vai trò khác nhau. Trong đó,
thể chế kinh tế là một thành phần của NLCT, nếu quốc gia có thể chế tốt sẽ có tác
động tích cực đến NLCT của địa phương. Đồng thời, nếu địa phương tận dụng, khai

16


thác, phát huy và thực hiện tốt vai trò của các nhân tố cấu thành NLCT thì NLCT của
địa phương sẽ được cải thiện ở mức tốt và dĩ nhiên việc thu hút được đầu tư sẽ tốt hơn.
2.2.3. PCI và các chỉ số thành phần của PCI
Chỉ số PCI được xây dựng với sự hợp tác giữa Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) và cơ quan hợp tác Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ US-AID, để
xác định các chỉ số (indicators) cho việc đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh,
thành của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc
phát triển doanh nghiệp. Phương pháp tiếp cận PCI có bốn đặc điểm đáng chú ý:
 Thứ nhất, chỉ số PCI khuyến khích chính quyền các tỉnh cải thiện chất lượng
công tác điều hành bằng cách chuẩn hóa điểm số xung quanh các thực tiễn điều hành
kinh tế tốt sẵn có tại Việt Nam mà không dựa trên các tiêu chuẩn điều hành kinh tế lý
tưởng nhưng khó đạt được, do đó đối với từng chỉ tiêu, có thể xác định được một tỉnh
"ngôi sao" hoặc tỉnh đứng đầu của chỉ tiêu đó, và về lý thuyết bất kỳ tỉnh nào cũng có
thể đạt được điểm số PCI tuyệt đối là 100 điểm bằng cách áp dụng các thực tiễn tốt sẵn
có (VCCI, 2005).
 Thứ hai theo VCCI (2005), bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các điều kiện
truyền thống ban đầu (các nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong một
tỉnh và gần như không thể thay đổi trong ngắn hạn như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy
mô của thị trường và nguồn nhân lực), chỉ số PCI giúp xác định và hướng vào các thực

tiễn điều hành kinh tế tốt có thể đạt được ở cấp tỉnh
 Thứ ba, bằng cách so sánh đối chiếu giữa các thực tiễn điều hành với kết quả
phát triển kinh tế, chỉ số PCI giúp lượng hóa tầm quan trọng của các thực tiễn điều
hành kinh tế tốt đối với thu hút đầu tư và tăng trưởng. Nghiên cứu chỉ ra được mối
tương quan giữa thực tiễn điều hành kinh tế tốt với đánh giá của doanh nghiệp, và sự
cải thiện phúc lợi của địa phương. Mối liên hệ cuối cùng này đặc biệt quan trọng vì nó
cho thấy các chính sách và sáng kiến thân thiện với doanh nghiệp khuyến khích họ
hoạt động theo hướng đem lại lợi ích cho cả chủ doanh nghiệp, người lao động và
cộng đồng thông qua tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho cả nền kinh tế VCCI
(2014)
 Thứ tư, các chỉ tiêu cấu thành chỉ số PCI được thiết kế theo hướng dễ hành
động, đây là những chỉ tiêu cụ thể cho phép các cán bộ công chức của tỉnh đưa ra các
17


mục tiêu phấn đấu và theo dõi được tiến bộ trong thực hiện. Các chỉ tiêu này cũng rất
thực chất vì được doanh nghiệp nhìn nhận là các chính sách then chốt đối với sự thành
công của công việc kinh doanh (VCCI, 2005).
Chỉ số PCI được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 gồm chín chỉ số
thành phần. Lần thứ hai, năm 2006 bỏ chỉ số thực hiện chính sách Trung ương, đồng
thời hai lĩnh vực quan trọng của môi trường kinh doanh là Thiết chế pháp lý và Đào
tạo lao động được bổ sung vào chỉ số PCI thành phần. Từ năm 2006 trở đi, tất cả các
tỉnh thành của Việt Nam đều được đưa vào bảng xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành
phần cũng được tăng cường thêm. Năm 2009, phương pháp luận PCI được điều chỉnh
để phản ánh kịp thời sự phát triển năng động của nền kinh tế và các thay đổi trong môi
trường pháp lý tại Việt Nam. Sau khi loại bỏ chỉ số ưu đãi doanh nghiệp nhà nước, lúc
này PCI còn 9 chỉ số thành phần. Năm 2013, PCI đánh dấu bước thay đổi mới khi chỉ
số cạnh tranh bình đẳng được đưa vào bộ chỉ số, theo đó, chỉ số PCI của một tỉnh được
đánh giá bằng cả 10 chỉ số thành phần. Theo VCCI (2014), nội dung của các chỉ số
thành phần như sau:

Chi phí gia nhập thị trƣờng: Chỉ số này được xây dựng nhằm đánh giá sự
khác biệt về chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới thành lập giữa các
tỉnh với nhau.
Tiếp cận đất đa v sự ổn định trong sử dụng đất: Đo lường về hai khía cạnh
của vấn đề đất đai mà doanh nghiệp phải đối mặt: việc tiếp cận đất đai có dễ dàng
không và doanh nghiệp có thấy yên tâm và được đảm bảo về sự ổn định khi có được
mặt bằng kinh doanh hay không.
Tính minh bạch và tiếp cận thông tin: Đo lường khả năng tiếp cận các kế
hoạch của tỉnh và các văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, liệu doanh nghiệp có thể tiếp cận một cách công bằng các văn bản này, các
chính sách và quy định mới có được tham khảo ý kiến của doanh nghiệp và khả năng
tiên liệu trong việc triển khai thực hiện các chính sách quy định đó và mức độ tiện
dụng của trang web tỉnh đối với doanh nghiệp.
Chi phí thời g an để thực hiện các qu định của N

nƣớc: Đo lường thời

gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính cũng như mức độ
18


thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm dừng kinh doanh để các cơ quan
Nhà nước của địa phương thực hiện việc thanh tra, kiểm tra.
Chi phí không chính thức: Đo lường các khoản chi phí không chính thức mà
doanh nghiệp phải trả và các trở ngại do những chi phí không chính thức này gây ra
đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc trả những khoản chi phí không
chính thức có đem lại kết quả hay “dịch vụ” như mong đợi và liệu các cán bộ Nhà
nước có sử dụng các quy định của địa phương để trục lợi hay không.
Cạn tran bìn đẳng (đ


chỉ số thành phần mới): Đo lường việc tỉnh,

thành ưu ái cho các tổng công ty, tập đoàn của Nhà nước có gây khó khăn cho doanh
nghiệp tư nhân hay không.
Tín năng động và tiên phong của ãn đạo tỉnh: Đo lường tính sáng tạo,
sáng suốt của lãnh đạo tỉnh trong quá trình thực thi chính sách Trung ương cũng như
trong việc đưa ra các sáng kiến riêng nhằm phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đồng
thời đánh giá khả năng hỗ trợ và áp dụng những chính sách đôi khi chưa rõ ràng của
Trung ương theo hướng có lợi cho doanh nghiệp.
Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp: Chỉ số này trước kia có tên gọi là Chính sách
phát triển kinh tế tư nhân, dùng để đo lường các dịch vụ của tỉnh để phát triển khu vực
tư nhân như xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin tư vấn pháp luật cho doanh
nghiệp, hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh, phát triển các khu/cụm công nghiệp tại địa
phương và cung cấp các dịch vụ công nghệ cho doanh nghiệp.
Đ o tạo ao động: Đo lường các nỗ lực của lãnh đạo tỉnh để thúc đẩy đào tạo
nghề và phát triển kỹ năng nhằm hỗ trợ cho các ngành công nghiệp tại địa phương và
giúp người lao động tìm kiếm việc làm.
Thiết chế pháp lý: Đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân đối với hệ
thống tòa án, tư pháp của tỉnh, liệu các thiết chế pháp lý này có được doanh nghiệp
xem là công cụ hiệu quả để giải quyết tranh chấp hoặc là nơi doanh nghiệp có thể
khiếu nại các hành vi nhũng nhiễu của cán bộ công quyền tại địa phương.
Một tỉnh được xếp hạng chỉ số PCI cao không nhất thiết phải có nhiều lợi thế về
cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

mà hoàn toàn có thể dựa vào năng lực,

thẩm quyền của chính mình để xây dựng một môi trường kinh doanh thuận lợi cho
19



×