Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

mối quan hệ giữa chi đầu tư của chính phủ và tăng trưởng kinh tế nghiên cứu trường hợp các nước asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ YẾN

MỐI QUAN HỆ GIỮA
CHI ĐẦU TƯ CỦA CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
- NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC NƯỚC ASEAN.

Chuyên ngành : Kinh tế học
Mã số chuyên ngành : 60 03 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thái Thường Quân

Thành phố Hồ Chí Minh, Năm 2015


iii

TÓM TẮT
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu vĩ mô của mọi quốc gia. Đối với mỗi
nền kinh tế động sẽ có rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc tăng trưởng,
song đối với mỗi quốc gia, mỗi khu vực, các nhân tố này có thể khác nhau hoặc
mức độ ảnh hưởng là khác nhau. Trong số đó, chính sách tài khóa là một trong
những chính sách quan trọng, thể hiện vai trò của các Chính phủ trong việc phát
triển kinh tế ở các quốc gia.
Với dữ liệu bảng theo năm trong giai đoạn 1990 – 2013 của 6 quốc gia
ASEAN (bao gồm Campuchia, Indonexia, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và
Brunei), bằng phương pháp FMOLS và VECM, bài nghiên cứu đã tìm thấy


mối quan hệ giữa đầu tư công, chi tiêu công và thu ngân sách thuế với tăng
trưởng kinh tế: (1) Một sự gia tăng trong đầu tư công không chỉ không có tác
động kích thích tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn mà còn có thể làm giảm
tăng kinh tế trong dài hạn. Còn Tăng trưởng kinh tế tăng sẽ kích thích đầu
tư công trong ngắn hạn nhưng sẽ làm giảm đầu tư công trong dài hạn. (2)
Thu ngân sách từ thuế tăng lên sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế trong ngắn
hạn nhưng lại có tác động kích thích tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, (3)
Đáng chú ý là trong dài hạn, mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng
kinh tế là tích cực, trong khi Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế có mối quan
hệ tiêu cực.
Các hàm ý chính sách từ nghiên cứu này là các quốc gia Đông Nam Á, đặc
biệt là Việt Nam: Chính phủ nên kiểm soát và hạn chế sử dụng đầu tư công cả
trong ngắn hạn và dài hạn. Chính phủ nên xem xét tăng chi tiêu công nhiều hơn
thay vì tăng đầu tư công. Ngoài ra, gia tăng doanh thu thuế một cách mà các
Chính phủ có thể xem xét đến trong dài hạn nhằm thực hiện các quyết định chi
tiêu, thúc đẩy tăng trưởng cao và bền vững hơn cho quốc gia.


iv

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................. ii
TÓM TẮT

.............................................................................................................. iii

MỤC LỤC..............................................................................................................................iv

DANH MỤC HÌNH .................................................................................................. vi

DANH MỤC BẢNG................................................................................................. vii
DANH MỤC VIẾT TẮT ........................................................................................ viii
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ............................................. 1
1.1.Lý do chọn đề tài: ............................................................................................. 1
1.2. Câu hỏi nghiên cứu: ........................................................................................ 2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu: ....................................................................................... 2
1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu: .................................................................. 2
1.5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
1.6. Kết cấu đề tài ................................................................................................... 3
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ......................................................................... 5
2.1. Cơ sở lý thuyết về đầu tư công: ............................................................................... 5
2.2. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ....... 10
2.3. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây ...................................................... 14
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................... 20
3.1.Quy trình nghiên cứu ................................................................................................ 20
3.2.Mô hình nghiên cứu .................................................................................................. 21
3.3.Dữ liệu nghiên cứu ................................................................................................... 23
3.4.Phương pháp ước lượng mô hình ........................................................................... 25
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................. 30
4.1. Phân tích thống kê các chỉ số nghiên cứu ............................................................. 30
4.1.1. Phân tích chung các chỉ số nghiên cứu ..................................................... 30


v

4.1.2. Phân tích các chỉ số nghiên cứu cho từng quốc gia .................................. 31
4.1.3. Phân tích các chỉ số nghiên cứu theo thời gian ......................................... 37
4.2.Phân tích tương quan ................................................................................................ 40
4.3.Phân tích mối quan hệ giữ đầu tư công và tăng trưởng kinh tế .......................... 41
4.3.1. Kiểm tra tính dừng của các chuỗi số liệu....................................................... 41

4.3.2. Xác định độ trễ tối ưu của mô hình ................................................................ 42
4.3.3. Kiểm định đồng liên kết ................................................................................... 42
4.3.4. Kết quả tác động trong dài hạn ....................................................................... 43
4.3.5. Kết quả tác động trong ngắn hạn và điều chỉnh trong dài hạn .................... 45
4.4. Mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ....................... 47
4.5. Tóm lược kết quả nghiên cứu: ............................................................................... 49
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................. 51
5.1.Kết luận ...................................................................................................................... 51
5.2. Khuyến nghị ............................................................................................................. 52
5.3. Hạn chế của bài nghiên cứu .................................................................................... 53


vi

DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Sơ đồ quy trình nghiên cứu ........................................................................ 21
Hình 4.1: Mối quan hệ giữa các biến đối với Campuchia ......................................... 33
Hình 4.2: Mối quan hệ giữa các biến đối với Indonexia ........................................... 34
Hình 4.3: Mối quan hệ giữa các biến đối với Malaysia ............................................. 35
Hình 4.4: Mối quan hệ giữa các biến đối với Thái Lan ............................................. 35
Hình 4.5: Mối quan hệ giữa các biến đối với Việt Nam ............................................ 36
Hình 4.6: Mối quan hệ giữa các biến đối với Brunei ................................................. 37
Hình 4.7: Biến động GDP thực của các quốc gia qua thời gian. ............................... 38
Hình 4.8: Biến động chi tiêu công của các quốc gia qua thời gian............................ 38
Hình 4.9: Biến động đầu tư công của các quốc gia qua thời gian ............................. 39
Hình 4.10: Biến động thu ngân sách từ thuế của các quốc gia qua thời gian ............ 40


vii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi đầu tư của Chính phủ và
tăng trưởng kinh tế ..................................................................................................... 17
Bảng 2.2.Tổng hợp các biến sử dụng trong các nghiên cứu đi trước ........................ 19
Bảng 3.1. Tổng hợp các biến trong mô hình nghiên cứu đề xuất .............................. 22
Bảng 3.2. Kỳ vọng mối quan hệ giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế .............. 23
Bảng 4.1: Bảng kết quả thống kê mô tả dữ liệu cho tổng thể các quốc gia ............... 30
Bảng 4.2: Bảng thống kê mô tả dữ liệu riêng cho từng nước .................................... 31
Bảng 4.3: Kết quả ma trận tương quan Pearson ........................................................ 40
Bảng 4.4: Kiểm tra tính dừng cho các chuỗi dữ liệu ................................................. 41
Bảng 4.5: Xác định độ trễ tối ưu cho các chuỗi dữ liệu............................................. 42
Bảng 4.6: Kết quả kiểm định đồng liên kết ............................................................... 43
Bảng 4.7: Tác động của các biến trong dài hạn đối với GDP thực............................ 43
Bảng 4.8: Tác động của các yếu tố đến đầu tư công trong dài hạn (RGI) ................. 44
Bảng 4.9: Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng cân bằng trong dài hạn ..... 45
Bảng 4.10: Kiểm định mối quan hệ nhân quả............................................................ 47
Bảng 4.11: Kiểm định mối quan hệ nhân quả của các biến ....................................... 48


viii

DANH MỤC VIẾT TẮT
ADB

Ngân Hàng Phát triển Châu Á.
(The Asian Development Bank)

ADF

Augmented Dickey-Fuller.


ASEAN

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á.
(Assosiation of South East Asian Nations)

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội.
(Gross Domestic Product)

IPS

Im, Pesaran và Shin.

FMOLS

PP bình phương nhỏ nhất hiệu chỉnh toàn phần.
(Fully Modified Least Squares)

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế.
(Organization for Economic Cooperation and
Development)

PPP

Các dự án kết hợp giữa nhà nước và tư nhân.
(Public-privatc partnership)


VAR

Phương pháp tự hồi quy vectơ.
Vector Auto-regressive

VECM

Mô hình hiệu chỉnh sai số vectơ.
(Vector Error Correction Model)

WDI

Chỉ số phát triển thế giới.
(World Development Indicators)


1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Nền kinh tế Đông Nam Á đang tăng trưởng cao so với các quốc gia trên
thế giới, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay. Theo ADB, năm
2013, tốc độ tăng trưởng của khu vực Đông Nam Á là 5%, năm 2014 là 4,6%;
dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2015 giữ ở mức khoảng 4,9% và
năm 2016 khoảng 5,3%. Điều này cho thấy kinh tế của cả khu vực Đông Nam
Á đang có sự phục hồi sau khủng hoảng. Kinh tế khu vực này sẽ không chủ yếu
dựa vào mở rộng xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ, thay vào đó sẽ tập trung gia
tăng đầu tư và tiêu dùng cũng như đầu tư và thương mại giữa các nền kinh tế

trong khu vực. Do đó, việc dựa vào đầu tư cho cơ sở hạ tầng để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế gần như là sự ưu tiên xem xét của hầu hết các nước ASEAN.
Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế đã được nghiên cứu
khá rộng rãi và cũng đã có rất nhiều cuộc tranh luận xảy ra. Tuy nhiên, có một
vài vấn đề vẫn chưa được giải quyết, chẳng hạn như: một sự gia tăng thường
trực trong đầu tư công sẽ gây ra một sự gia tăng tạm thời hay vĩnh viễn trong
tăng trưởng kinh tế; hay hiệu quả của đầu tư công có phụ thuộc vào năng suất
biên tương đối của vốn nhà nước và tư nhân hay hiệu quả của đầu tư công lên
tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào việc gia tăng chi tiêu từ nguồn tài trợ….
Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trước đây cũng đã gặp phải những hạn chế nhất
định như: nghiên cứu chỉ được thực hiện phần lớn ở các nước phát triển và còn
thiếu những nghiên cứu thực nghiệm ở trong nước.
Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn nội dung “có hay không sự tác động của
đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ giữa đầu tư công và
tăng trưởng kinh tế” và nhằm khắc phục những hạn chế của các nghiên cứu
trước đây. Tác giả đã chọn thực hiện nghiên cứu “Mối quan hệ giữa chi đầu tư
của Chính phủ và tăng trưởng kinh tế - Nghiên cứu trường hợp các nước
ASEAN”.


2

1.2. Câu hỏi nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm trả lời cho câu hỏi sau:
 Đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu ngân sách từ thuế có tác
động đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn hay
không?
 Chi tiêu công, thu ngân sách từ thuế và sự tăng trưởng kinh tế có
tác động đến đầu tư công trong ngắn hạn và dài hạn hay không?
 Có hay không mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư công và tăng

trưởng kinh tế?
1.3. Mục tiêu nghiên cứu:
 Phân tích tác động của đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu
ngân sách từ thuế đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài
hạn.
 Phân tích tác động của chi tiêu công, thu ngân sách từ thuế và tăng
trưởng kinh tế đến đầu tư công trong ngắn hạn và dài hạn.
 Phân tích mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư công và tăng trưởng
kinh tế.
1.4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu:
 Tác giả kiểm định Mối quan hệ giữa chi đầu tư của Chính phủ và
tăng trưởng kinh tế - Nghiên cứu trường hợp các nước ASEAN
thông qua phân tích các yếu tố: Tổng sản phẩm quốc dân thực,
Đầu tư công thực, Chi tiêu công thực, Thu ngân sách từ thuế thực
của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn từ
1990 – 2013.


3

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:
 Phạm vi thời gian: Dựa trên các nguồn số liệu thu thập từ các
nguồn đáng tin cậy như Work Bank, ADB để có một bộ dữ liệu
bảng cân bằng thì hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều có số
liệu từ năm 1990 đến năm 2013.
 Phạm vi không gian: Nghiên cứu này được thực hiện trên mẫu
dữ liệu bao gồm toàn bộ các quốc gia trong khối ASEAN. Tuy
nhiên, chỉ có 6 quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á có đầy đủ số
liệu để thực hiện nghiên cứu này, bao gồm: Việt Nam, Thái Lan,

Malaysia,

Campuchia,

Indonesia



Brunei.

Myanmar,

Philippines, Singapore, Lào, và Đông Timor không đủ dữ liệu nền
nên không đưa vào nghiên cứu này.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
 Trước hết, tác giả nghiên cứu các mô hình lý thuyết tổng quát trên
thế giới nhằm xác định mô hình nghiên cứu phù hợp. Sau đó, thu
thập dữ liệu từ nguồn như Work Bank, ADB để kiểm chứng mô
hình.
 Với tập dữ liệu thu về, sau khi hoàn tất việc gạn lọc, kiểm tra, tổng
hợp, mã hóa và làm sạch, sẽ tiến hành xử lý và phân tích số liệu
bằng phần mềm SPSS IBM 20.0, Eviews 8.0. Trình tự thực hiện:
thống kê mô tả, ước lượng và kiểm định mô hình dữ liệu bảng
bằng phương pháp Fmols, VECM, Granger để tìm Mối quan hệ
giữa chi đầu tư của Chính phủ và tăng trưởng kinh tế của các nước
ASEAN.
1.6. Kết cấu đề tài
Cấu trúc nghiên cứu gồm 5 chương, không tính phụ lục và tài liệu tham
khảo:



4

Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 1 trình bày tổng quan chung về nội dung của nghiên cứu, bao
gồm: đặt vấn đề nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phạm vi
đối tương nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa của nghiên cứu và kết
cấu của nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến các khái niệm, các lý
thuyết về nắm giữ tiền mặt, các bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm về Mối
quan hệ giữa chi đầu tư của Chính phủ và tăng trưởng kinh tế. Từ đó đưa ra mô
hình nghiên cứu lý thuyết.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Chương 3, tác giả giới thiệu về thủ tục nghiên cứu và quy trình nghiên cứu
được thực hiện trong quá trình nghiên cứu. Qua đó sẽ chỉ ra cách mà tác giả trả
lời và giải thích các hiện tượng và tuyên bố đã nêu trong chương 1, bao gồm:
Thiết kế nghiên cứu, tổng thể của nghiên cứu, nguồn dữ liệu, các công cụ nghiên
cứu cơ bản, các biến xử lý được sử dụng trong nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 4 trình bày kết quả thống kê mô tả, ước lượng và kiểm định mô
hình dữ liệu bảng để kiểm chứng Mối quan hệ giữa chi đầu tư của Chính phủ và
tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Chương 5 trình bày tóm tắt kết quả nghiên cứu có được và thảo luận các
kết quả nổi bật, đồng thời nêu lên những điểm mới, những hạn chế nghiên cứu
và đề nghị hướng nghiên cứu tiếp theo.


5

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến khái niệm, lý thuyết về
đầu tư công. Bên cạnh đó, kết hợp các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ
giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, cũng như tổng hợp các kết quả nghiên
cứu về mối quan hệ giữa thuế và tăng trưởng kinh tế, của chi tiêu công, đầu tư
công và tăng trưởng kinh tế. Tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu lý thuyết cho
nghiên cứu của mình.
Cơ sở lý thuyết về đầu tư công:
2.1.1. Khái niệm và quan điểm chung về đầu tư công
Đầu tư công (thuần) được hiểu như là phần chi tiêu công được thêm vào
lượng vốn vật chất để tạo ra các dịch vụ xã hội, chẳng hạn xây dựng đường xá,
cầu cảng, trường học, bệnh viện v.v…. Nguồn vốn đầu tư công thường bao gồm
ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ hoặc viện trợ phát triển của nước
ngoài. Tùy theo quan niệm của từng quốc gia mà đầu tư công có thể bao gồm
các dự án cho các mục đích kinh doanh (qua khu vực doanh nghiệp nhà nước)
hoặc các dự án chỉ thuần túy mục đích công ích.
Ở Việt Nam, đầu tư công được hiểu theo nghĩa hẹp. Đầu tư công là đầu
tư từ nguồn vốn của Nhà nước vào các lĩnh vực phục vụ lợi ích chung, không
nhằm mục đích kinh doanh (Nguyễn Xuân Tự, 2010).
Các nghiên cứu cho thấy đầu tư công ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực
tư nhân theo nhiều kênh khác nhau (Blejer và Khan, 1984; Aschauer, 1989a).
Đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân nếu nó có tính bổ trợ cho đầu tư tư nhân.
Điều này chỉ xảy ra nếu đầu tư công tạo ra được các hiệu ứng lan tỏa (spillover
effect) đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân sẽ thu được lợi nhuận cao hơn
khi có đầu tư công, do vậy thúc đẩy đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, đầu tư công có
thể dẫn đến hiện tượng chèn ép đầu tư tư nhân nếu như nó cạnh tranh nguồn lực
với đầu tư tư nhân. Khả năng chèn ép đầu tư tư nhân sẽ lớn nếu như đầu tư công



6
được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhà nước hoặc thông qua hình thức doanh
nghiệp nhà nước. Dịch vụ cung cấp từ khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ cạnh
tranh với khu vực tư nhân, làm giảm động cơ tham gia đầu tư của khu vực tư
nhân.
Như vậy, về cơ bản, các quốc gia đều hướng đến quản lý đầu tư công để
hỗ trợ tăng năng suất cho khu vực tư nhân và toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, nó
có thể dùng để bù đắp thất bại của thị trường trong một số thị trường đặc biệt.
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về đầu tư công
Vài nét về lý thuyết quan hệ người chủ - người thừa hành (principal agent theory)
Đầu tư công là một điển hình của quan hệ người chủ - người thừa hành.
Người dân và người đóng thuế trao tiền và ủy thác cho chính quyền các cấp
trung ương và/hoặc địa phương (dưới hình thức các khoản thu ngân sách từ thuế
và khai thác tài nguyên) để thực hiện các dự án cung cấp dịch vụ công cộng.
Chính quyền cấp Trung ương sau đó lại có thể ủy thác cho chính quyền cấp địa
phương để thực hiện các dự án cung cấp dịch vụ công cộng. Bởi các cơ quan
chính quyền không thể trực tiếp thực hiện việc này nên đến lượt các cơ quan
này lại ủy thác cho các nhà thầu dự án để xây dựng công trình, sau khi công
trình hoàn thành, nó sẽ được bàn giao cho một đơn vị khác của chính quyền
quản lý.
Bản chất của quan hệ người chủ - người thừa hành là bất đối xứng thông
tin. Người chủ muốn người thừa hành nỗ lực thực hiện hết mình công việc được
giao. Nhưng vì người thừa hành có thông tin riêng về chi phí sản xuất mà người
chủ không biết nên người thừa hành thường có xu hướng “bịp” người chủ. Để
giải quyết vấn đề này, các lý thuyết gia chỉ ra rằng người chủ sẽ thực hiện các
biện pháp khác nhau, phụ thuộc vào từng tình huống hay từng dự án.
 Trường hợp có thể giám sát: tăng cường minh bạch thông tin thông qua
các hình thức khuyến khích để giảm thông tin riêng.



7
 Trong trường hợp không thể giám sát tốt nhưng có thể đưa ra một hợp
đồng rõ ràng về trách nhiệm của mỗi bên: người chủ sẽ khoán cho người
thừa hành một hợp đồng với chi phí cố định (Holmstrom, 1982; Baron
và Myerson, 1982).
 Trong trường hợp không thể hình thành được hợp đồng rõ ràng: người
chủ sẽ đề nghị người thừa hành hợp đồng hợp tác dạng đồng chủ sở hữu
để tăng trách nhiệm và chia sẻ rủi ro (Grossman và Hart 1986).
Mối quan hệ người chủ - người thừa hành trên rất hữu ích để bàn luận về
cơ chế đầu tư công. Về mặt lý thuyết cơ chế đầu tư công bao gồm hai nhóm cơ
chế liên quan đến hai giai đoạn của đầu tư công. Nhóm thứ nhất là cơ chế xác
định cách thức phân bổ các nguồn vốn của nhà nước sao cho hiệu quả. Nhóm
thứ hai là cơ chế thực hiện các đự án đầu tư công. Bên cạnh cơ chế ra quyết định
và cơ chế thực hiện tại hai giai đoạn là các cơ chế giám sát để đảm bảo rằng việc
ra quyết định và thực hiện các dự án đầu tư công đạt đuợc mục tiêu đề ra với
mức thất thoát là thấp nhất.
* Cơ chế phân bổ nguồn vốn:
Trên bình diện lý thuyết người chủ - ngườí thừa hành, cơ chế phân bổ
nguồn vốn phản ánh mối quan hệ giữa người dân ủy thác cho chính quyền các
cấp thực hiện việc xác định các dự án cung cấp dịch vụ công cộng cho người
dân. Trong mối quan hệ này, chính quyền các cấp có lợi thế hoàn toàn về thông
tin. Giữa người dân và chính quyền cũng không thể hình thành được hợp đồng
rõ ràng. Vì vậy, cách thức để giải quyết mối quan hệ này là tập trung vào việc
giảm thông tin riêng cũng như tăng cường sự tham gia của người dân vào quá
trình ra quyết định.
Cách giải quyết tổng quát vấn đề này là phân quyền. Đây là xu hướng
chung trên thế giới kể từ thập niên 1980. Các dự án đầu tư công có qui mô vùng
hoặc quốc gia thì do chính quyền trung ương quyết định trong khi các dự án đầu
tư công có qui mô địa phương thì do địa phương quyết định



8
Mục đích của việc phân quyền là tăng hiệu quả phân bổ đầu tư dựa trên
nguồn tri thức mà các cấp có thể biết tốt hơn cũng như được nhiều người dân
biết đến hơn. Trung ương hiểu biết rõ về tổng thể nền kinh tế, mối liên kết giữa
các vùng miền, xây dựng kế hoạch về cơ sở hạ tầng cũng như các vùng kinh tế
để tăng hiệu ứng hợp trội (synergy effects). Dự án có qui mô quốc gia cũng nhận
được sự quan tâm của nhiều người dân. Mức độ phản biện những lý lẽ phân bổ
của Chính quyền Trung ương sẽ đa dạng hơn.
Trong khi đó người dân địa phương được coi như là đối tượng hiểu nhu
cầu ở địa phương mình nhất, họ cũng hiểu biết rõ các nguồn lực đặc thù của địa
phương. Khi được phân quyền, họ sẽ có khả năng đưa ra quyết định đúng đắn
hơn ngay cả khi là không đúng từ quan điểm của chính quyền trung ương (Bird
và Vaillancourt, 1998).
Ngoài ra để tăng cường sự tham gia đóng góp của người dân địa phương
vào kiểm soát rủi ro, kinh nghiệm thế giới cho thấy việc phân quyền đầu tư công
cần phải tương ứng với nguồn thu của chính quyền địa phương. Nếu địa phương
đóng góp ít hoặc không có đóng góp cho các dự án đầu tư thuộc địa phương
mình thì sẽ thiếu trách nhiệm trong việc kiểm soát rủi ro. Vì vậy, việc phân
quyền đầu tư công cho địa phương nên cân bằng với khả năng huy động ngân
sách của địa phương.

* Cơ chế thực hiện đầu tư công:
Một khi dự án đầu tư được quyết định, tùy theo tính chất của dự án, chính
quyền sẽ quyết định thực hiện dự án theo hình thức sở hữu nào.
Hình thức sở hữu thứ nhất là nhà nước nắm 100% vốn chủ sở hữu dự án
và thuê các doanh nghiệp thực hiện. Thông thường đây là những dự án ít phức
tạp, có thời gian thực hiện ngắn hoặc đó là các dự án không tạo ra dịch vụ có
tính thương mại. Trong trường hợp này, chính quyền và doanh nghiệp có thể
đưa ra được một hợp đồng tương đối đầy đủ về trách nhiệm gánh chịu rủi ro của



9
các bên liên quan đến dự án. Chính quyền sẽ chọn nhà thầu có khả năng thực
hiện dự án với chi phí đầu tư cố định thấp nhất.
Hình thức sở hữu thứ hai là chia sẻ sở hữu dự án với khu vực tư nhân.
Đây là các loại dự án có thời gian kéo dài và tương đối phức tạp, chứa đựng
nhiều rủi ro trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, lợi ích của dự án lại có tính
thương mại có khả năng hấp dẫn tư nhân tham gia. Các dự án kết hợp giữa nhà
nước và tư nhân (public-privatc partnership - PPP) sẽ giúp cho nhà nước giảm
gánh nặng ngân sách, khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân và quan
trọng là sẽ phân bổ được rủi ro cho bên có khả năng kiểm soát tốt hơn.
Với các dự án ppp, lựa chọn nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính
cũng như năng lực thực thi là rất quan trọng. Mấu chốt để một dự án ppp có thể
tiến hành là phải đảm bảo tỷ suất lợi nhuận cho nhà đầu tư tư nhân cao hơn lãi
suất trái phiếu Chính phủ. Hình thức PPP đã trở nên rất phổ biến trên thế giới
từ thập kỷ 1990. Khởi đầu từ Anh Quốc dưới hình thức Public Financial
Initiative (PFI) ppp đã lan rộng ra khắp thế giới như Úc, Chi Lê, Liên hiệp Châu
Âu và gần đây nhất là Mỹ - Nó thường được dùng để thực hiện các dự án liên
quan đến giao thông.
* Cơ chế giám sát quá trình đầu tư công:
Với cả hai giai đoạn, phân bổ vốn đầu tư công và thực hiện đầu tư công,
vai trò giám sát của bên thứ ba là rất quan trọng. Bởi cả chính quyền và đơn vị
thực hiện trên nguyên tắc đều là “người thừa hành” đối với người dân trong mối
quan hệ người chủ - người thừa hành, nên rất có thể cả hai bên sẽ cấu kết trục
lợi với nhau yếu tố khác không thay đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn
được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đổi mới công nghệ. Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền
kinh tế.
Ngoài ra. Đầu tư còn là một thành phần quan trọng của tổng cầu. Theo

Keynes tổng sản lượng của nền kinh tế hình thành nhờ vào việc hiện thực hóa


10
những quyết định chi tiêu như: chi tiêu tiêu dùng của hộ gia đình, chi tiêu cho
đầu tư mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ và chi tiêu
ròng của nền kinh tế bên ngoài đối với sản phẩm nội địa (AD = C + I + G + XM).
Như vậy, gia tăng đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng trong điều kiện các
yếu tố khác không đổi. Sự thay đổi tổng cung, tổng cầu được phản ảnh qua tốc
độ tăng trưởng kinh tế. Thay đổi quy mô vốn đầu tư cũng là nguyên nhân làm
thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là
mối quan hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn. Đây là cơ sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng
ở nhiều nước trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng
trưởng kinh tế
2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước phát triển
Trong một nghiên cứu có ảnh hưởng, bằng cách sử dụng dữ liệu hàng
năm cho giai đoạn 1949 - 1985 cho Hoa Kỳ, Aschauer (1989a) phát hiện một
mối quan hệ dương mạnh giữa năng suất và tỷ số vốn công trên vốn tư. Aaron
(1990) và Tatom (1991) đặt câu hỏi cho các phát hiện của Aschauer trên cơ sở
đặc tính không dừng của chuổi thời gian, điều mà có thể tạo nên tương quan giả
mạo giữa vốn đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, Sturm và De Haan (1995)
khẳng định nếu mô hình của Aschaucr được ước lượng ở các sai phân bậc nhất
- điều cần thiết khi các biến được dùng không dừng và cũng không tích hợp mô hình chỉ tạo ra các kết quả mơ hồ. Tuy nhiên, Munnell (1992) chỉ ra rằng,
các sai phân bậc nhất cũng có vấn đề của nó vì nó không cho phép ước lượng
mối quan hệ dài hạn cơ bản giữa sản xuất và các yếu tố đầu vào. Duggal và cộng
sự (1998) khẳng định là các phương trình sai phân bậc nhất tạo nên dao động
ưu tiên đáng ngờ và các hệ số co giãn vốn đầu ra, điều này đủ để đặt câu hỏi về



11
khả năng của các phương trình sai phân bậc nhất bắt lấy được các mối quan hệ
dài hạn.
Bằng cách sử dụng mô hình VAR, Sturm (1998) phát hiện là đầu tư cơ
sở hạ tầng ảnh hưởng dương lên sản lượng ở Hà Lan và bằng cách sử dụng mô
hình tương tự để phân tích các tác động của đầu tư công cho sáu nước công
nghiệp, Mittnik và Neumann (2001) cho rằng đầu tư công có xu hướng gây ra
một ảnh hưởng dương lên GDP. Ngoài ra, họ không phát hiện hiệu ứng chèn
lấn giữa đầu tư công và đầu tư tư. Naqvy (2003), Ghani & Din (2006) kiểm tra
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, đầu tư công và đầu tư tư nhân bằng cách
sử dụng mô hình VAR. Dựa trên chuỗi dữ liệu thời gian hàng năm cho Pakistan,
phân tích đề nghị là đầu tư công có tác động dương lên đầu tư tư và tăng trưởng
kinh tế định hướng cả đầu tư tư và đầu tư công như được dự đoán bởi các mô
hình-dựa trên sự tăng tốc.
2.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước đang phát triển
Devarajan và cộng sự (1996) trình bày bằng chứng cho 43 quốc gia đang
phát triển, chỉ ra rằng tổng chi tiêu của chính phủ (gồm chi tiêu dùng và chi đầu
tư) không có tác động ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các tác giả
phát hiện ra tác động riêng phần quan trọng của chi tiêu chính phủ: đó là sự gia
tăng phần chi tiêu dùng có tác động dương, ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế trong
khi sự gia tăng trong chi đầu tư công có tác động âm. Tác động âm cũng đúng
cho mỗi thành phần chính của đầu tư công, bao gồm giao thông và viễn thông.
Điều này đưa đến một qui tắc hơi đáng ngạc nhiên là Chính phủ ở các nước
đang phát triển tốt hơn nên được tư vấn là dịch chuyển các nguồn lực công từ
đầu tư công sang chi tiêu dùng công.
Pritchett (1996) đề nghị một lý giải khác cho các phát hiện của Devarajan
và cộng sự (1996) - giả thuyết “white elephant”. Ông ta lập luận rằng đầu tư
công ở các nước đang phát triển thường được sử dụng cho các dự án không thích

hợp và không hiệu quả. Kết quả là, phần đầu tư công có thể là thước đo rất kém
của sự gia tăng thực trong vốn đầu tư hiệu quả về mặt kinh tế. Một mặt, đầu tư


12
công cao hơn gia tăng tốc độ tích lũy vốn quốc gia trên mức được chọn (với giả
định theo cách hợp lý) bởi khu vực tư, vì thế, chi tiêu vốn công có thể gây ra sự
chèn lấn chi đầu tư tư nhân. Mặt khác, vốn công - đặc biệt vốn đầu tư hạ tầng
như đường cao tốc, hệ thống nước, cống rãnh và sân bay - có vẻ có mối quan hệ
bổ sung với vốn tư trong công nghệ sản xuất tư nhân. Vì thế, đầu tư công cao
hơn có thể gia tăng năng suất biên của vốn tư và qua đó hỗ trợ đầu tư tư nhân.
Khan (1996) phát hiện ra tầm quan trọng tương đối của đầu tư công và
tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho một nhóm lớn các nước đang phát
triển. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của 95 nước đang phát triển thời kỳ 1970
- 1990. Các kết quả của nghiên cứu chỉ ra là đầu tư công và tư có tác động khác
biệt lên tăng trưởng kinh tế, trong đó đầu tư tư nhân có tác động lên tăng trưởng
kinh tế nhiều hơn so với đầu tư công.
2.2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm ở trong nước
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Loan (2012) với đề tài “Tác động
của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”. Tác giả sử dụng phương
pháp đồng tích hợp (Cointegration) của Engle - Granger (1987) và mô hình hiệu
chỉnh sai số (ECM) để thiết lập mối tương quan cân bằng trong dài hạn giữa chỉ
số tăng trưởng kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng trong đó có biến đầu tư công
cũng như tính toán mức độ tác động của các nhân tố đến biến động của tăng
trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu với giả định
là tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng bởi các biến kinh tế vĩ mô như: đầu tư
công, đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu, nguồn nhân lực và
nợ nước ngoài, số liệu từ năm 1986 – 2011. Kết quả trong dài hạn, đầu tư công,
đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp nước ngoài và nợ nước ngoài có tác động nhiều
đến tăng trưởng kinh tế. Trong ngắn hạn, chỉ có nợ nước ngoài ở kỳ trước có

ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hiện tại, còn đầu tư công tác động đến tăng
trưởng kinh tế không có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, trong các biến vĩ mô được
chọn, biến đầu tư công tác động đến tăng trưởng kinh tế ít hơn so với biến đầu
tư tư nhân. Do đó, để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, bền
vững, Chính phủ cần có những giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh đầu tư khu


13
vực tư nhân đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả đầu tư của khu vực Nhà
nước.
Nghiên cứu của Nguyễn Đức Thành và Đinh Tuấn Minh (2011) với đề
tài “Đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm
VECM”. Mô hình cụ thể trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình VECM
với ba biến số là: đầu tư khu vực Nhà nước (GI), đầu tư khu vực tư nhân (PI) và
GDP (Y), số liệu sử dụng từ năm 1986 - 2010 để ước lượng các hàm phản ứng
và các hệ số co giãn. Theo đó, hiện tượng đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân
được thể hiện rõ nét. Trung bình cứ một thập niên, 1% tăng vốn đầu tư công ban
đầu sẽ khiến đầu tư tư nhân bị thu hẹp 0,48%. Đồng thời, tác động đến GDP của
đầu tư công là thấp so với tác động của đầu tư tư nhân. Bài viết hàm ý trong quá
trình chuyển đổi kinh tế, cần giảm dần tỷ trọng đầu tư công, đồng thời tăng
cường mạnh mẽ hiệu quả và chất lượng của đầu tư khu vực Nhà nước.
Tác giả Ngô Lý Hóa (2008) với đề tài “Tác động của đầu tư công đến
tăng trưởng kinh tế tỉnh Long An”. Trong nghiên cứu tác giả ứng dụng mô hình
Harrod - Domar để phân tích mối tương quan giữa đầu tư công và tăng trưởng
kinh tế tỉnh Long An. Mô hình cụ thể gồm 3 biến: đầu tư khu vực công (Ig), đầu
tư khu vực tư (Ip) và GDP, số liệu sử dụng từ năm 1987 - 2007. Tác giả sử dụng
phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng các biến trong mô hình.
Kết quả, đầu tư công và đầu tư tư nhân đều tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế của tỉnh, tuy nhiên đầu tư công tác động ít hơn đầu tư tư nhân.



14
Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
2.3.1. Mối quan hệ của thuế và tăng trưởng kinh tế
Đã có rất nhiều các nghiên cứu được thực hiện trước đây để tìm ra mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách thuế. Các kết quả của những
nghiên cứu này cho thấy có nhiều mâu thuẫn với nhau. Một số nghiên cứu đã
cho thấy rằng các loại thuế giúp cải thiện hiệu suất của các nền kinh tế; trong
khi một số nghiên cứu khác lại cho thấy các loại thuế làm giảm sản lượng quốc
gia và từ đó làm giảm tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, trong một số nghiên cứu
khác lại cho thấy có ít bằng chứng để kết luận cho mối quan hệ giữa thuế và
tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế thế giới.
Các chính sách thuế thì có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua
việc khuyến khích đầu tư mới và khuyến khích tham gia vào việc kinh doanh,
kìm hãm các quyết định đầu tư và khuyến khích những nỗ lực làm việc cũng
như việc nhận những người lao động có kỹ năng (Solow, 1956). Thông thường,
sản lượng đầu ra của một nền kinh tế được đo bằng GDP và được xác định bằng
các nguồn lực kinh tế - quy mô và các kỹ năng của lực lượng lao động, quy mô
và công nghệ của năng suất lao động từ tổng lượng vốn.
Engen và Skinner (1992) mô tả năm cách mà qua đó các loại thuế có thể
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Đầu tiên, các loại thuế cao hơn có thể làm
giảm tỷ lệ đầu tư (tăng trưởng ròng trong tổng lượng vốn) thông qua việc ban
hành thuế suất cao đối với thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân, thuế suất cao
đánh trên lợi nhuận vốn có hiệu lực và thuế suất thấp đối với khấu hao cho phép.
Thứ hai, các loại thuế có thể làm giảm tăng trưởng trong nguồn cung ứng lao
động thông qua việc hạn chế lực lượng tham gia lao động hoặc giờ làm việc,
hoặc bằng cách kìm hãm sự lựa chọn nghề nghiệp hay việc nhận được sự giáo
dục, các kỹ năng và sự đào tạo. Thứ ba, chính sách thuế có khả năng ngăn cản
việc tăng năng suất thông qua việc giảm các nghiên cứu và phát triển (R&D) và
sự phát triển trong vốn kinh doanh cho các ngành công nghiệp "công nghệ cao",



15
các hoạt động có hiệu ứng lan tỏa để có thể nâng cao năng suất lao động và vốn
hiện có – những thứ có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế.
Theo Takumah (2014), với dữ liệu nghiên cứu thời gian trong giai đoạn
1986 – 2010 của Ghana, bằng mô hình VECM (Mô hình vectơ hiệu chỉnh sai
số), tác giả đã thấy rằng có cả mối quan hệ trong ngắn hạn và trong dài hạn giữa
tăng trưởng kinh tế và nguồn thu ngân sách từ thuế. Đây là mối quan hệ cùng
chiều và có ý nghĩa thống kê. Từ đó, tác giả đưa ra đề nghị rằng chính phủ nên
nâng cao việc thu thuế bằng cách giảm thuế suất và tăng thuế cơ bản để tạo ra
nhiều nguồn thu hơn cũng như để giúp Ghana tăng trưởng kinh tế.
2.3.2. Mối quan hệ của chi tiêu công, đầu tư công và tăng trưởng kinh tế
Đầu tư công là một điển hình của mối quan hệ giữa người chủ - người
thừa hành. Người dân là người đóng thuế trao tiền và ủy thác cho chính quyền
các cấp trung ương và địa phương (dưới hình thức các khoản thu ngân sách từ
thuế và khai thác tài nguyên) để thực hiện các dự án cung cấp dịch vụ công.
Chính quyền cấp trung ương sau đó lại có thể ủy thác cho chính quyền cấp địa
phương thực hiện các dự án cung cấp dịch vụ công. Do các cơ quan chính quyền
không thể trực tiếp thực hiện việc này nên các cơ quan này lại ủy thác cho các
nhà thầu dự án để xây dựng công trình, sau khi công trình hoàn thành thì nó sẽ
được bàn giao cho một đơn vị khác của chính quyền quản lý.
Trong nghiên cứu của Aschauer (1989a), bằng cách sử dụng dữ liệu hàng
năm trong giai đoạn 1949 - 1985 của Hoa Kỳ, tác giả đã phát hiện một mối quan
hệ cùng chiều mạnh giữa năng suất và tỷ số vốn đầu tư công trên vốn đầu tư tư
nhân. Aaron (1990) và Tatom (1991) đã đưa câu hỏi cho các kết quả của
Aschauer trên cơ sở của tính chất không dừng trong chuỗi thời gian – điều này
có thể dẫn tới tương quan giả mạo giữa vốn đầu tư công và tăng trưởng kinh tế.
Sturm và De Haan (1995) khẳng định nếu mô hình của Aschauer được ước
lượng ở các sai phân bậc nhất - điều cần thiết để khắc phục tính không dừng và

trong điều kiện không có đồng liên kết - mô hình này đã đưa các kết quả khá
mơ hồ.


16
Bằng cách sử dụng mô hình VAR, Sturm (1998) phát hiện ra rằng đầu tư
cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng dương lên sản lượng đầu ra ở Hà Lan. Đồng thời,
bằng cách sử dụng mô hình tương tự để phân tích các tác động của đầu tư công
cho sáu nước công nghiệp, Mittnik và Neumann (2001) đã chỉ ra rằng đầu tư
công có xu hướng gây ra một ảnh hưởng dương lên GDP. Ngoài ra, họ cũng
không phát hiện hiệu ứng chèn lấn giữa đầu tư công và đầu tư tư.
Naqvy (2002) kiểm tra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, đầu tư công
và đầu tư tư nhân bằng cách sử dụng mô hình VAR. Dựa trên chuỗi dữ liệu thời
gian hàng năm cho Pakistan, Kết quả phân tích cho thấy đầu tư công có tác động
dương lên đầu tư tư và tăng trưởng kinh tế.
Devarajan và cộng sự (1996) đưa ra nghiên cứu thực nghiệm cho 43 quốc
gia đang phát triển, chỉ ra rằng tổng chi tiêu của chính phủ (gồm chi tiêu dùng
và chi đầu tư) không có tác động có ý nghĩa thống kê đối với tăng trưởng kinh
tế. Tuy nhiên, các tác giả đã phát hiện ra tác động riêng phần quan trọng của chi
tiêu Chính phủ: đó là sự gia tăng chi tiêu dùng thì có tác động dương có ý nghĩa
thống kê đối với tăng trưởng kinh tế trong khi sự gia tăng trong chi đầu tư công
lại có tác động âm. Tác động âm này cũng đúng đối với các thành phần chính
của đầu tư công, bao gồm giao thông và viễn thông. Điều này đưa đến một kết
luận có phần đáng ngạc nhiên là Chính phủ ở các nước đang phát triển nên dịch
chuvển các nguồn lực công từ đầu tư công sang chi tiêu công.
Pritchett (1996) thì đưa ra một lý giải khác cho các phát hiện của
Devarajan và cộng sự (1996) với giả thuyết “white elephant”. Ông ta lập luận
rằng đầu tư công ở các nước đang phát triển thường được sử dụng cho các dự
án không thích hợp và không hiệu quả. Kết quả là, phần đầu tư công có thể là
thước đo rất kém của sự gia tăng thực trong vốn đầu tư hiệu quả. Một mặt, đầu

tư công cao hơn sẽ gia tăng tốc độ tích lũy vốn quốc gia ở trên mức đã được
chọn đối với khu vực tư, vì thế, chi tiêu công có thể gây ra sự chèn lấn chi đầu
tư tư nhân. Mặt khác, đầu tư công - đặc biệt vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng như
đường cao tốc, hệ thống nước, cống rãnh và sân bay - có vẻ có mối quan hệ bổ
sung với vốn đầu tư tư nhân trong công nghệ sản xuất tư nhân. Vì thế, đầu tư


17
công cao hơn có thể gia tăng năng suất biên của vốn tư và qua đó hỗ trợ đầu tư
tư nhân.
Khan (1996) đã đưa ra bằng chứng cho thấy tầm quan trọng tương đối
của đầu tư công và đầu tư tư nhân trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đối
với một nhóm lớn các nước đang phát triển. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của
95 nước đang phát triển thời kỳ 1970 - 1990. Các kết quả của nghiên cứu chỉ ra
rằng đầu tư công và tư có tác động khác biệt lên tăng trưởng kinh tế, trong đó
đầu tư tư nhân có tác động lên tăng trưởng kinh tế nhiều hơn so với đầu tư công.
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư của Chính phủ và
tăng trưởng kinh tế
Nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu, thời gian
và phương pháp nghiên cứu

Aschauer
(1989a)

Có một sự tác động cùng
Dữ liệu chuỗi thời gian hàng chiều giữa năng suất lao
năm của Hoa Kỳ trong giai động với tăng trưởng kinh tế
đoạn 1949 – 1985.

và tỷ số vốn đầu tư công
trên vốn đầu tư tư nhân

Sturm (1998)

Đầu tư cơ sở hạ tầng có tác
Sử dụng mô hình VAR với
động dương đối với sản
chuỗi dữ liệu của Hà Lan
lượng đầu ra ở Hà Lan

Kết quả nghiên cứu

- Đầu tư công có xu hướng
tác động dương đối với
Mittnik và
Neumann
(2001)

Naqvy (2002)

Sử dụng mô hình VAR với GDP.
chuỗi dữ liệu của sáu nước
- Không phát hiện ra hiệu
công nghiệp
ứng chèn lấn của đầu tư
công và đầu tư tư
Sử dụng mô hình VAR với Đầu tư công có tác động
dữ liệu chuỗi thời gian hàng dương lên đầu tư tư và tăng
năm của Pakistan

trưởng kinh tế


18

Devarajan và
cộng sự (1996)

Nghiên cứu thực nghiệm

Gia tăng chi tiêu dùng có tác
động dương có ý nghĩa

thống kê đối tăng trưởng
cho 43 quốc gia đang phát
kinh tế; nhưng gia tăng chi
triển
đầu tư công lại có tác động
âm
Đầu tư công và đầu tư tư có
Sử dụng dữ liệu của 95 nước

Khan (1996)

đang phát triển trong giai
đoạn 1970 - 1990

Nguyễn Thị
Loan (2012)


Sử dụng phương pháp đồng
tích hợp của Engle Granger
(1987) và mô hình hiệu
chỉnh sai số (ECM) với số

tác động khác nhau đối với
tăng trưởng kinh tế: Đầu tư
tư nhân có tác động đến tăng
trưởng kinh tế nhiều hơn so
với đầu tư công.
Trong dài hạn, đầu tư công,
đầu tư tư nhân, đầu tư trực
tiếp nước ngoài có tác động
đến tăng trưởng kinh tế.
Trong ngắn hạn, đầu tư

liệu chuỗi thời gian của Việt công tác động đến tăng
Nam giai đoạn 1986 – 2011 trưởng kinh tế không có ý
nghĩa thống kê

Nguyễn Đức
Thành & Đinh
Tuấn Minh
(2011)

Ngô Lý Hóa
(2008)

Có hiện tượng đầu tư công
“lấn át” đầu tư tư nhân ở

Sử dụng mô hình VECM với
Việt Nam: Trung bình cứ
số liệu chuỗi thời gian của
trong một thập niên, 1%
Việt nam giai đoạn 1986 tăng vốn đầu tư công ban
2010
đầu sẽ khiến đầu tư tư nhân
bị thu hẹp 0,48%
Sử dụng phương pháp bình
phương bé nhất (OLS) và
ứng dụng mô hình HarrodDomar với số liệu chuỗi thời
gian của tỉnh Long An trong
giai đoạn 1987 - 2007

Đầu tư công và đầu tư tư
nhân đều tác động tích cực
đến tăng trưởng kinh tế của
tỉnh nhưng đầu tư công tác
động ít hơn đầu tư tư nhân.


×