Tải bản đầy đủ (.docx) (144 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng quốc gia ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.5 KB, 144 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ "Nâng cao chất lượng hoạt
động của Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia - Ngân hàng
nhà nước Việt Nam” chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng là công
trình nghiên cứu của bản thân, được xuất phát từ yêu cầu phát sinh
trong công việc để hình thành hướng nghiên cứu. Các số liệu có
nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình bày
trong luận văn được thu thập được trong quá trình nghiên cứu là
trung thực chưa từng được ai công bố trước đây.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Hoàng Phương Thúy


MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


4

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Một trong những tổ chức quan trọng nhất có thể giúp cho thị
trường tín dụng hoạt động có hiệu quả là trung tâm thông tin tín
dụng Quốc gia. Thông qua Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia,
các tổ chức tín dụng (TCTD) có thể nhận được những thông tin cần
thiết, có giá trị về khách hàng, đánh giá tốt hơn rủi ro tín dụng, giảm
chi phí và thời gian xét duyệt cho vay. Trung tâm thông tin tín dụng


Quốc gia còn là nơi thu thập, lưu trữ và cung cấp thông tin từ các
TCTD, các đối tượng khách hàng nhằm góp phần tăng trưởng tín
dụng theo hướng an toàn- hiệu quả - bền vững, ngăn ngừa và hạn
chế rủi ro tín dụng.
Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia (CIC) thời gian qua đã
có những đóng góp có hiệu quả trong việc cung cấp thông tin cho
các TCTD, khách hàng. Góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng tại các TCTD, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, hoạt động của CIC vẫn còn hạn hẹp về quy mô, chất
lượng còn thấp so với chuẩn quốc tế.Trước yêu cầu hội nhập và nhu
cầu tín dụng ngày càng cao, hoạt động của CIC cần được phát triển
mạnh mẽ hơn. Trong bối cảnh đó, tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài
"Nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín
dụngQuốc gia - Ngân hàng nhà nước Việt Nam” làm luận văn
thạc sỹ của mình.


5

2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến hoạt động và chất lượng
hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng.
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Trung tâm thông tin
tín dụngQuốc gia - Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của
Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia - Ngân hàng nhà nước Việt
Nam.


6


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động của Trung tâm thông
tin tín dụngQuốc gia.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: hoạt động của Trung tâm thông tin
tín dụngQuốc gia - NHNN Việt Nam, bao gồm các hoạt động chính:
Thu thập và xử lý thông tin, Lưu trữ thông tin, Cung cấp thông tin.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp được sử dụng trong
quá trình thực hiện luận văn là: phương pháp phân tích, phương
pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, …
5. Kết cấu Đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Đề tài được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1.Những cơ sở lý luận về hoạt động vànâng cao chất lượng
hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụngQuốc gia.
Chương 2. Thực trạng hoạt động và chất lượng hoạt động của
Trung tâm thông tin tín dụngQuốc gia - Ngân hàng nhà nước Việt
Nam
Chương 3. Giải pháp và kiến nghị nhằmnâng cao chất lượng hoạt
động của Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia - Ngân hàng nhà
nước Việt Nam.


7

1CHƯƠNG 1.


NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀHOẠT ĐỘNG VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNGCỦA TRUNG TÂM THÔNG
TIN TÍN DỤNGQUỐC GIA
1.1. Khái niệm và lợi ích của Trung tâm thông tin tín dụng Quốc

gia.
1.1.1. Khái niệm về trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia

Trung tâm thông tin tín dụngQuốc gia (CIC), hay văn phòng
thông tin tín dụng (Credit Bureaus), cơ quan đăng ký tin tín dụng
(Credit Registries), hãng thông tin tín dụng (Credit Reporting
Agency)… là tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng (Credit
Reporting Service Provider), điều hành quá trình trao đổi thông tin
tín dụng qua mạng. Quá trình trao đổi thông tin tín dụng qua mạng
là một cơ chế cho phép thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín
dụng cho người sử dụng dữ liệu, cũng như cung cấp các giá trị gia
tăng dựa trên cơ sở dữ liệu này. TTTTTD thu thập dữ liệu từ các
chủ nợ và các nguồn công khai có sẵn về lịch sử tín dụng của người
vay; xử lý, lưu trữ và cung cấp theo một định dạng nhất định cho
người sử dụng. TTTTTD có trách nhiệm chính trong đảm bảo an
toàn và hiệu quả của hệ thống thông tin tín dụng; đồng thời chịu
trách nhiệm về tính bền vững của hoạt động, báo cáo cho các cổ
đông (nếu có), tuân thủ các yêu cầu quản lý, cơ chế quản trị, vấn đề
nhân sự, và xử lý khiếu nại của người tiêu dùng.


8

TTTTTD khác với các cơ quan xếp hạng tín dụng, chẳng hạn như
Standard

& Poors, Moody &và Fitch ở chỗ, các cơ quan xếp hạng tín dụng
thu thập thông tin tài chính của các công ty lớn; tiến hành phân tích
chi tiết hoạt động kinh doanh, tài chính và quản trị của công ty; và
sau đó, công bố thứ hạng tín dụng. Trong khi đó, TTTTTD tập trung
vào các chủ nợ nhỏ hơn; họ tập trung vào hồ sơ trả nợ vay và dựa
trên phân tích thống kê số lượng mẫu lớn khách hàng vay chứ
không phân tích sâu các công ty cá thể.
1.1.2. Lợi ích của Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia:

Hệ thống thông tin tín dụng, mà nòng cốt là các TTTTTD, là
một yếu tố quan trọng của cơ sở hạ tầng tài chính một quốc gia:
chúng góp phần tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng; hỗ trợ cho
vay có trách nhiệm và giảm tổn thất cho vay; và nâng cao năng lực
giám sát ngân hàng và giám sát các rủi ro hệ thống.
Thứ nhất, TTTTTD giảm hiện tượng thông tin bất đối xứng
bằng cách cung cấp lịch sử tín dụng của người đi vay cho các chủ
nợ tiềm năng, và do đó, là một công cụ hiệu quả trong việc giảm
thiểu các vấn đề lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức. Thông qua thông
tin tín dụng và các công cụ bắt nguồn từ nó (ví dụ như chấm điểm
tín dụng), các chủ nợ có thể dự đoán tốt hơn triển vọng trả nợ của
khách hàng tiềm năng dựa trên hành vi trả nợ của con nợ trong quá
khứ và hiện tại và mức độ nợ của người vay.


9

Mặt khác, việc chia sẻ thông tin tín dụng có liên quan sẽ có
thêm lợi ích từ việc giảm sự độc quyền thông tin của người cho vay
đối với người vay.Ví dụ, các ngân hàng có mối quan hệ lâu dài với
khách hàng vay của họ biết được lịch sử tín dụng của những khách

hàng vay này, trong khi các tổ chức cho vay khác không có quyền
truy cập vào thông tin này.Điều này cho phép ngân hàng tính lãi
suất cao hơn và trục lợi từ những người vay có chất lượng cao
(Padilla và Pagano 1997).
Thứ hai, hệ thống thông tin tín dụng mạnh có thể nắm bắt hầu
hết các thông tin về người vay và thậm chí cả những sự kiện mà cán
bộ tín dụng không biết được. Hơn nữa, các chủ nợ thường có thể
truy cập thông tin tín dụng với chi phí thấp hơn và cũng tiết kiệm
thời gian hơn so với các cơ chế cho vay truyền thống. Đồng thời, hệ
thống thông tin tín dụng hỗ trợ việc ra quyết định tín dụng không
thiên vị, bởi vì những quyết định đó được đưa ra dựa trên các dữ
liệu khách quan và đúng đắn. Tính năng mới này hỗ trợ một bộ
phận dân cư mà trong quá khứ, có thể đã bị từ chối cấp tín dụng do
một số định kiến (ví dụ như giả định rằng một cá nhân có thu nhập
thấp luôn luôn là một con nợ xấu).
Thứ ba, hệ thống thông tin tín dụng cũng góp phần rèn luyện
hành vi của người vay vào khuôn khổ kỷ luật. Một lịch sử tín dụng
tốt tạo điều kiện tiếp cận tín dụng và thường có thể tránh việc người
vay phải sử dụng tài sản thế chấp hữu hình cho các khoản
vay.Khách nợ hiểu được điều này sẽ có động cơ trả nợ đúng thời


10

hạn để tiếp tục tiếp cận với các sản phẩm tín dụng với những điều
kiện thuận lợi.
Thứ tư, NHTW, cơ quan giám sát tài chính sử dụng dữ liệu
thông tin tín dụng phục vụ hoạt động giám sát an toàn vĩ mô và vi
mô, giám sát các rủi ro hệ thống và hình thành bộ dữ liệu thống kê
vĩ mô về hoạt động của hệ thống tài chính. Phân tích quản lý rủi ro

tín dụng, các quy định về dự phòng và an toàn vốn, chẳng hạn,
cũng sẽ hiệu quả và dễ dàng hơn nhờ có dịch vụ thông tin tín dụng
của các tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng.
1.1.3. Phân loại TTTTTD:

Có nhiều cách phân loại TTTTTD, đề tài chọn cách phân loại
theo IFC, trong đó, TTTTTD có thể được tạm chia thành ba nhóm
tương đối đồng nhất, nhưng không phải là loại trừ nhau: văn phòng
thông tin tín dụng (credit bureaus), cơ quan đăng ký tín dụng (credit
registries) và công ty thông tin tín dụng thương mại (commercial
credit reporting companies). Nội dung cơ sở dữ liệu, khách hàng,
các sản phẩm và dịch vụ liên quan do 3 nhóm nhà cung cấp dịch vụ
thông tin tín dụng có sự khác biệt giữa các quốc gia. Hình 2 cho
thấy các thị trường khác nhau được phục vụ bởi các TTTTTD và
mức độ chồng lấn giữa chúng.Có sự khác biệt rõ rệt giữa ba loại
hình TTTTTD về những điểm mạnh và điểm yếu, các mô hình hoạt
động, và thị trường mà họ phục vụ.Tất cả ba loại hình TTTTTD có
thể cùng tồn tại trong một thị trường nhất định dựa trên cơ sở quy


11

mô thị trường, khẩu vị thị trường, mức độ phát triển tài chính, và
văn hóa tín dụng.


12

Biểu 1.1: Thị trường phục vụ của các TTTTTD
-


Văn phòng thông tin tín dụng (Credit bureaus)
Văn phòng thông tin tín dụng, thường do khu vực tư nhân sở
hữu và vận hành, cung cấp thông tin tín dụng của khách hàng vay cá
nhân, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cho các nhà cung cấp tín
dụng đa dạng. Họ thu thập thông tin theo một định dạng tiêu chuẩn
từ nhiều nhà cung cấp tín dụng, bao gồm các ngân hàng, các công ty
thẻ tín dụng và tổ chức tài chính phi ngân hàng khác. Họ cũng thu
thập và cung cấp nhiều thông tin công khai có sẵn như bản án, thông
báo phá sản, và thông tin danh bạ điện thoại, và/hoặc tạo điều kiện
truy cập vào cơ sở dữ liệu của bên thứ ba như các trung tâm đăng ký
thế chấp. Thông tin cũng được thu thập từ người chia sẻ dữ liệu


13

không truyền thống như cho vay bán lẻ và dữ liệu thanh toán từ các
nhà cung cấp dịch vụ khí đốt, nước, điện, cáp, điện thoại, internet,
và các dịch vụ khác, điều này cho phép văn phòng thông tin tín
dụng xây dựng các báo cáo tín dụng tốt hơn và toàn diện hơn. Theo
số liệu điều tra của Doing Bussiness, hơn 40% văn phòng thông tin
tín dụng có thông tin từ các nhà cung cấp dịch vụ công, và hơn 50%
có thông tin từ các tổ chức tài chính vi mô trong cơ sở dữ liệu của
họ (xem hình 1). Việc mở rộng các nguồn dữ liệu là có lợi cho
những người vay cá nhân không tiếp cận được ngân hàng và các
doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, bởi vì nó cho phép các văn phòng
thông tin tín dụng xây dựng bộ dữ liệu về lịch sử tín dụng mà không
nhất thiết đã tiếp cận tín dụng chính thức, do đó, khắc phục cái bẫy
không đủ điều kiện để cấp tín dụng do không có dữ liệu về lịch sử
tín dụng trước đây.



14

Biểu 1.2: Nguồn cung cấp thông tin của các văn phòng thông tin
tín dụng
(credit bureaus)
Một khi dữ liệu được thu thập, nó được kiểm tra để xây dựng
báo

cáo

tín

dụng

về mỗi người vay, sau đó, được bán cho người cho vay. Báo cáo tín
dụng là một hồ sơ toàn diện về bên vay hoặc thông tin cá nhân của
khách hang vay tiềm năng và các thông tin về tài khoản tín dụng của
khách hang vay. Phần thông tin cá nhân thường bao gồm tên của
người vay, tên trước đây, số nhận dạng (chẳng hạn như an sinh xã
hội, số chứng minh thư hay số nhận dạng quốc gia khác), ngày
tháng năm sinh, địa chỉ, thông tin tuyển dụng, cảnh báo (như trộm
cắp ID hoặc tình trạng đóng băng thẻ an sinh xã hội), và ngày cập


15

nhật thông tin. Phần tóm tắt tín dụng (credit summary section)
thường có chứa thông tin về tài khoản tín dụng của tất cả các khách

hàng vay (cả mở và đóng), đánh giá liệu các tài khoản đó ở vị thế
tốt (Số tiền vay nợ trong quá khứ và lịch sử hành vi trả nợ), và
những thông tin điều tra về người vay trong thời gian qua. Báo cáo
cũng bao gồm lịch sử trả nợ, ghi nhận thanh toán trong khoảng thời
gian 12 đến 24 tháng.
Báo cáo thường được cung cấp cho người cho vay dưới dạng
điện tử và những chủ nợ lớn nhất hiện nay có các báo cáo tín dụng
tích hợp trực tiếp vào hệ thống xử lý cho vay của họ và phần mềm
gốc. Để được cung cấp các báo cáo tín dụng, những người cho vay
sẽ thanh toán cho văn phòng thông tin tín dụng dưới hình thức một
khoản lệ phí đăng ký, lệ phí cho mỗi truy vấn có giảm giá tùy theo
số lượng, hoặc kết hợp cả hai.
Trước đây, văn phòng thông tin tín dụng chỉ được thu thập
thông tin cá nhân. Trong những năm gần đây, với việc mở rộng cho
vay doanh nghiệp nhỏ và những tiến bộ trong công nghệ thông tin,
nhiều văn phòng thông tin tín dụng có thể đối chiếu và bán các báo
cáo về các doanh nghiệp nhỏ. Theo số liệu điều tra của Doing
Business, hơn 80% trong số 100 đáp viên là văn phòng thông tin tín
dụng có ít nhất một số thông tin về công ty. Việc thu thập thông tin
của cả cá nhân và doanh nghiệp tại văn phòng thông tin tín dụng
cho phép đánh giá tổng hợp tình hình kinh doanh của một doanh
nghiệp và chủ sở hữu của nó. Lịch sử tín dụng của một chủ doanh


16

nghiệp nhỏ là một dự báo quan trọng về rủi ro tín dụng của các
doanh nghiệp nhỏ, bởi vì chủ các doanh nghiệp nhỏ thường kết hợp
tài chính cá nhân và doanh nghiệp.
Trong khi văn phòng thông tin tín dụng có quyền truy cập vào

một loạt các dữ liệu và cung cấp một loạt các dịch vụ để hỗ trợ
người cho vay trong quá trình xét duyệt cho vay, mô hình kinh
doanh thường dựa trên sự chia sẻ thông tin một cách tự nguyện của
các các nhà cung cấp dữ liệu (thường liên quan đến một thỏa thuận
có đi có lại). Trong giai đoạn hình thành môi trường thông tin tín
dụng, có thể có tâm lý phản đối quan điểm chia sẻ thông tin từ một
số nhà cung cấp dữ liệu tiềm năng, phổ biến nhất là các tổ chức lớn
hơn không muốn chia sẻ dữ liệu khách hàng vì lo ngại mất thị phần
của họ. Trong những trường hợp này, thẩm quyền của ngân hàng
trung ương với tư cách là người giám sát hệ thống thông tin tín dụng
hoặc cơ quan giám sát những người cho vay, thông qua khả năng
của mình để thuyết phục tham gia trong môi trường chia sẻ dữ liệu,
có thể có tác dụng xúc tác sâu sắc trong việc hình thành những thực
tiễn tốt.
-

Cơ quan đăng ký tín dụng (credit registries)
Về mặt lịch sử,cơ quan đăng ký tín dụng có mục đích khác với
văn phòng thông tin tín dụng. Hầu hết các cơ quan đăng ký tín dụng
thuộc sở hữu và điều hành bởi khu vực công như ngân hàng trung
ương hoặc cơ quan giám sát tài chính – tiền tệ khác, bởi vì các cơ
quan này chịu trách nhiệm trực tiếp giám sát an toàn và giám sát rủi


17

ro trong một nền kinh tế. Phần lớn các cơ quan đăng ký tín dụng
khởi đầu như một cơ sở dữ liệu nội bộ của ngân hàng trung ương và
trong nhiều trường hợp, đã và vẫn đang được sử dụng như một cơ
chế giám sát để nhận dạng rủi ro hệ thống trong danh mục cho vay

của các định chế tài chính. Do vậy, các cơ sở dữ liệu này tập trung
chủ yếu vào các khoản tín dụng lớn, thông thường là các khoản vay
vượt quá 5.000USD. Ban đầu, thông tin trong cơ quan đăng ký tín
dụng được sử dụng chỉ duy nhất cho mục đích nội bộ, nhưng, trong
trường hợp không có báo cáo tín dụng của các nhà cung cấp dịch vụ
thông tin tín dụng khác trong nhiều quốc gia (bao gồm cả Trung
Quốc, Pháp, Malaysia, và Indonesia), thông tin của các cơ quan
đăng ký tín dụng được cung cấp cho các ngân hàng, tổ chức tín
dụng dưới hình thức báo cáo tín dụng. Với sự tăng trưởng của tín
dụng tiêu dùng, các ngưỡng giá trị cho vay đã giảm hoặc bãi bỏ, và,
trong một số quốc gia (ví dụ như Pháp, Argentina, Tây Ban Nha,
Peru, Ý và Bỉ…), các cơ quan đăng ký tín dụng cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ tương tự như các văn phòng thông tin tín dụng.
Nói chung, tất cả các tổ chức tài chính chịu sự quản lý của
NHTW hoặc cơ quan giám sát ngân hàng phải cung cấp dữ liệu cho
các cơ quan đăng ký tín dụng (xem hình 3). Đổi lại, cơ quan đăng
ký tín dụng sẽ cung cấp các báo cáo tín dụng cho tất cả các tổ chức
tài chính, trong đó cho thấy rủi ro tín dụng hiện hành của các tổ
chức tài chính. Mức độ bao quát của các cơ quan đăng ký tín dụng
có xu hướng bị giới hạn bởi phạm vi của các nhà cung cấp dữ liệu


18

(chỉ trong đối tượng các tổ chức tài chính thuộc phạm vi quản lý của
cơ quan chức năng).

Biểu 1.3: Nguồn cung cấp thông tin của các cơ quan đăng ký tín
dụng
Cơ quan đăng ký tín dụng thu thập thông tin của cả cá nhân và

doanh nghiệp. Thông tin cá nhân thường bao gồm dữ liệu nhận
dạng, loại hình cho vay và dữ liệu đặc điểm người vay, dữ liệu tiêu
cực, dữ liệu về tài sản thế chấp và bảo lãnh, dữ liệu về lịch sử trả
nợ.


19

Biểu1.4: Thông tin cá nhân được cơ quan đăng ký tín dụng thu
thập
Thông tin công ty của các cơ quan đăng ký tín dụng thường bao
gồm các dữ liệu nhận dạng, dữ liệu chủ doanh nghiệp, loại hình cho
vay và dữ liệu về đặc điểm, dữ liệu tiêu cực, và dữ liệu lịch sử trả
nợ.


20

Biểu1.5: Thông tin doanh nghiệp được cơ quan đăng ký tín
dụng thu thập
Cơ quan đăng ký tín dụng thường cung cấp các báo cáo tín
dụng của họ cho những người cho vay ở mức phí thấp hoặc miễn
phí. Trong số 82 cơ quan đăng ký tín dụng có cung cấp thông tin
cho cuộc điều tra của Doing Business thì chỉ có 14 cơ quan đăng
ký tín dụng liệt kê khoản phí cung cấp báo cáo tín dụng.
-

Công ty thông tin tín dụng thương mại (Commercial Credit
Reporting Companies)
Công ty thông tin tín dụng thương mại cung cấp thông tin về

công ty, bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công ty, và các tập đoàn,
thông qua các nguồn thông tin công khai, điều tra trực tiếp và hành
vi trả nợ do các nhà cung cấp và chủ nợ thương mại cung cấp. Thị
phần của các công ty thông tin tín dụng thương mại bao gồm các


21

công ty có quy mô và lợi nhuận hơn hơn so với thị phần công ty của
các cơ quan xếp hạng tín dụng. Thông tin do các công ty thông tin
tín dụng thương mại cung cấp thường được sử dụng để đánh giá rủi
ro tín dụng hoặc chấm điểm tín dụng, hoặc cho các mục đích khác
như: mở rộng tín dụng thương mại.
Báo cáo tín dụng thương mại khác với báo cáo tín dụng tiêu
dùng ở một số nội dung.Các thông tin được công ty thông tin tín
dụng thương mại cung cấp không bao gồm thông tin cá nhân nhạy
cảm.Quy mô giao dịch được báo cáo cho các công ty thông tin tín
dụng thương mại công ty cũng lớn hơn đáng kể.Báo cáo tín dụng
thương mại đòi hỏi tập trung nhiều hơn vào năng lực trả nợ
(Payment Performance) và dữ liệu tài chính so với khách hàng vay
cá nhân. Trong khi, văn phòng thông tin tín dụng tiết lộ danh tính
của các nhà cung cấp dữ liệu để bảo vệ quyền của người vay cá
nhân, công ty thông tin tín dụng thương mại không tiết lộ danh tính
của các nguồn dữ liệu hoặc người nhận dữ liệu cho các doanh
nghiệp khách hàng của họ.
Báo cáo tín dụng thương mại có thể bao gồm các doanh nghiệp
nhỏ mặc dù thông tin thường bị hạn chế, bởi vì định dạng báo cáo
là không thích hợp cho các công ty nhỏ. Như đã đề cập, đánh giá
các doanh nghiệp nhỏ sẽ đầy đủ và toàn diện hơn nếu kết hợp với
báo cáo về cá nhân chủ sở hữu, bởi vì các doanh nghiệp nhỏ có xu

hướng không lập báo cáo tài chính để công bố công khai. Tuy nhiên,
các công ty thông tin tín dụng thương mại không thu thập dữ liệu


22

thông tin cá nhân. Ngoài ra, chi phí của một báo cáo về doanh
nghiệp nhỏ hay siêu nhỏ có thể sẽ cao so với quy mô khoản vay. Vì
lý do này, các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có xu hướng được phục
vụ tốt hơn trong khuôn khổ dịch vụ mà các văn phòng thông tin tín
dụng cung cấp.
Công ty thông tin tín dụng thương mại đứng đầu trên thế giới là
Dun & Bradstreet (DB).Trước đây, DB cung cấp sách tham khảo
cho khách hàng đăng ký.Hiện nay, DB truyền tải thông tin tín dụng
của hơn 140 triệu doanh nghiệp trên toàn thế giới bằng điện tử.
Coface, công ty bảo hiểm rủi ro tín dụng quốc tế lớn thứ hai, bước
vào thị trường quốc tế bằng cách xây dựng cơ sở dữ liệu về hành vi
trả nợ của hàng trăm ngàn công ty cỡ trung bình, được kết hợp với
hoạt động kinh doanh bảo hiểm rủi ro tín dụng của mình.
1.2. Nguyên tắc và hoạt động của Trung tâm Thông tin tín dụng

quốc gia
1.2.1. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động của hệ thống thông tin tín

dụng
1.2.1.1. Mục tiêu chính sách công

Các mục tiêu chính sách công của các hệ thống thông tin tín
dụng đã được xác định như sau: các hệ thống thông tin tín dụng cần
hỗ trợ có hiệu hiệu quả việc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế một

cách lành mạnh và hợp lý, tạo nền tảng cho các thị trường tín dụng
mạnh mẽ và cạnh tranh. Để đạt được các mục tiêu này, các hệ
thống thông tin tín dụng phải đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu


23

quả, và nhận được sự hỗ trợ đầy đủ của các chủ thể cung cấp dữ
liệu và người tiêu dùng.
Cụ thể hơn, một hệ thống thông tin tín dụng có hiệu quả sẽ có
thể:
• Hỗ trợ các tổ chức tài chính và các nhà cung cấp tín dụng
khác đánh giá chính xác các rủi ro gắn với các quyết định cấp tín
dụng và duy trì danh mục cho vay tốt.
• Tạo điều kiện mở rộng bền vững tín dụng trong nền kinh tế
một cách có trách nhiệm và hiệu quả.
• Hỗ trợ các cơ quan quản lý tài chính có thẩm quyền (NHTW,
cơ quan giám sát tài chính…) trong việc giám sát các đối tượng
quản lý để đảm bảo các tổ chức này hoạt động vẫn an toàn và lành
mạnh, giảm thiểu rủi ro hệ thống.
• Tạo điều kiện tiếp cận công bằng và không thiên vị với các
loại hình sản phẩm tín dụng theo các điều khoản cạnh tranh.
• Giáo dục và khuyến khích cho các cá nhân và các doanh
nghiệp để quản lý tài chính có trách nhiệm, khen thưởng hành vi có
trách nhiệm và hạn chế các vấn đề vay quá mức.
• Quan tâm lợi ích của người tiêu dùng
1.2.1.2. Các Nguyên tắc

Nguyên tắc 1: Hệ thống thông tin tín dụng cần có dữ liệu
chính xác, kịp thời và đầy đủ.

Tính chính xác của dữ liệu


24

- Số liệu thu thập và cung cấp không có sai sót, trung thực, đầy
đủ và cập nhật đến mức có thể;
- Để đảm bảo tính chính xác của dữ liệu được thực hiện trên cơ
sở liên tục, các thành viên của hệ thống thông tin tín dụng nên áp
dụng các quy tắc, thủ tục cung cấp dữ liệu tục phù hợp với tất cả các
nhà cung cấp dữ liệu với các đặc tính tương tự.
Tính kịp thời của dữ liệu
- Các nhà cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng và các nhà cung
cấp dữ liệu cần áp dụng các quy định rõ ràng và chi tiết cho việc cập
nhật thông tin. Những quy định này phải đảm bảo rằng việc cập
nhật thông tin được thực hiện trên cơ sở lịch trình được xác định
trước và hoặc các sự kiện kích hoạt cụ thể. Ở mức tối thiểu, điều
này bao gồm các hành động kịp thời trong trường hợp điều chỉnh sai
sót và trong trường hợp có những thay đổi liên quan đến rủi ro tín
dụng, nợ quá hạn, gian lận, vợ nợ và phá sản.
- Dữ liệu nên có sẵn cho người dùng của hệ thống thông tino tín
dụng một cách nhanh chóng để họ có thể thực hiện chức năng của
mình mà không có sự chậm trễ không cần thiết.
Tính đầy đủ dữ liệu
- Các nhà cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng có thể thu thập và
xử lý tất cả các thông tin liên quan cần thiết để thực hiện các mục
đích hợp pháp của họ. Thông tin liên quan bao gồm cả dữ liệu tiêu
cực và tích cực, cũng như bất kỳ các thông tin khác được coi là



25

thích hợp đối với hệ thống thông tin tín dụng, phù hợp với những
yếu tố được đề cậptrong các nguyên tắc chung khác.
- Các nhà cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng cần thiết lập các
quy tắc rõ ràng về dữ liệu đầu vào tối thiểu và các dữ liệu đầu vào
Các nhà cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng. Ở mức tối thiểu, các
yếu tố dữ liệu được thu thập bao gồm, thông tin nhận dạng, thông
tin về tín dụng bao gồm cả số tiền ban đầu, ngày khởi xướng, ngày
đến hạn, số tiền còn nợ, hình thức vay, thông tin vỡ nợ, dữ liệu nợ
quá hạn. Lý tưởng nhất là bao gồm các công cụ giảm thiểu rủi ro tín
dụng như bảo lãnh, thế chấp và ước tính giá trị của chúng.
Thu thập dữ liệu trên cơ sở hệ thống từ tất cả các nguồn có liên
quan và có sẵn
-

Các nhà cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng có thể thu thập thông
tin từ tất cả các nhà cung cấp dữ liệu có liên quan, trong giới hạn

quy định theo luật.
- Các nhà cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng có thể truy cập nguồn
dữ liệu khác có liên quan, trong giới hạn quy định theo luật.
Lưu trữ dữ liệu
- Số liệu thu thập bởi các hệ thống thông tin tín dụng nên có sẵn
cho người sử dụng trong một khoảng thời gian phù hợp với mục
đích sử dụng của dữ liệu.
- Có các quy định rõ ràng liên quan đến phương pháp xác định
ngày hoặc sự kiện cụ thể khi việc cung cấp dữ liệu chấm dứt.



×