Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Một số biện pháp quản lý phát triển văn hoá nhà trường, trường THPT a hải hậu năm học 2014 2015”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.27 KB, 40 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ
NHÀ TRƯỜNG, TRƯỜNG THPT A HẢI HẬU NĂM HỌC 2014 - 2015
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lý giáo dục
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 5 năm
2015
4. Tác giả:
Họ và tên: Lê Văn Trường
Năm sinh: 1972
Nơi thường trú: Tổ DP số 4 – TT Yên Định – huyện Hải Hậu – tỉnh Nam
Định
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm, chuyên ngành Hoá học
Trình độ quản lý: Thạc sỹ Quản lý Giáo dục
Chức vụ công tác: Phó Hiệu trưởng
Nơi làm việc: Trường THPT A Hải Hậu
Địa chỉ liên hệ: Trường THPT A Hải Hậu
Điện thoại: 0984930916
5. Đồng tác giả: Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT A Hải Hậu
Địa chỉ: Tổ DP số 6 – TT Yên Định – huyện Hải Hậu – tỉnh Nam Định
Điện thoại: 03503877089
1


I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Từ năm 2012 đến năm 2014, tôi được UBND tỉnh Nam Định, Sở GD&ĐT
Nam Định cho phép đi học lớp Cao học Quản lý Giáo dục khoá 12, tại Đại học
Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội (sau khi đã thi đỗ). Trong chương trình của
khoá học, một trong những môn học tôi nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan


trọng và cảm thấy rất tâm đắc là môn “Quản lý văn hoá nhà trường”. Văn hoá nhà
trường có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định đến sự phát triển của một nhà
trường, bởi lẽ:
+ Văn hoá là một trong những tài sản lớn nhất của nhà trường;
+ Văn hoá nhà trường tạo động lực làm việc cho cán bộ, giáo viên, nhân viên;
tạo động lực học tập cho học sinh;
+ Văn hoá nhà trường hỗ trợ điều phối và kiểm soát hành vi của các thành
viên trong nhà trường;
+ Văn hoá nhà trường nâng cao chất lượng các hoạt động của nhà trường;
+ Văn hóa nhà trường hạn chế tiêu cực và xung đột.
Vận dụng kiến thức được học vào công tác quản lý văn hoá nhà trường, năm
học 2014 – 2015 tôi cùng với Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức quản lý văn hoá
nhà trường trên cơ sở lý luận được trang bị, đã xây dựng được nền văn hoá tích cực
cho nhà trường, góp phần tiếp tục đưa nhà trường vững bước đi lên, đạt được nhiều
thành tích rực rỡ.
II. Thực trạng
Trường THPT A Hải Hậu được thành lập năm 1960, trường nằm ở thị trấn
Yên Định, huyện Hải Hậu. Hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã
đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong công tác giáo dục và đào tạo, nhà trường
được nhận nhiều phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên trong
những năm gần đây, dưới tác động của cơ chế thị trường, nhà trường gặp một số

2


khó khăn trong công tác quản lý chỉ đạo, như: việc dạy thêm tràn lan ở bên ngoài
nhà trường ảnh hưởng tới công tác dạy và học trong nhà trường, sự bảo thủ, ngại
thay đổi, chậm tiếp nhận sự đổi mới phương pháp giảng dạy ở một số giáo viên,
thái độ bàng quan, an phận thủ thường vẫn còn tồn tại, mâu thuẫn xung đột cá nhân
vẫn xảy ra làm ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường.

Do đó tôi đưa ra sáng kiến “Một số biện pháp quản lý phát triển văn hoá
nhà trường, trường THPT A Hải Hậu năm học 2014 - 2015” nhằm mục đích
khắc phục những yếu kém còn tồn tại trong nhà trường, tạo nên sự đồng thuận cao
hơn trong tập thể sư phạm nhà trường, tạo đà phát triển tốt hơn cho nhà trường
trong năm học 2014 – 2015 và các năm tiếp theo.
III. Các giải pháp
3.1. Giải pháp 1: Phổ biến, tuyên truyền trong cán bộ, giáo viên, nhân
viên nhà trường khái niệm văn hoá nhà trường và vai trò của văn hoá nhà
trường
3.1.1. Khái niệm văn hoá nhà trường
a) Văn hoá
Giáo dục gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của loài người. Đối với
nhân loại, giáo dục là phương thức bảo tồn và bảo vệ kho tàng tri thức văn hoá xã
hội. Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có loài người, có xã
hội. Văn hoá tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong nó. Nếu môi
trường tự nhiên là cái nôi đầu tiên nuôi sống con người, để loài người hình thành và
sinh tồn thì văn hóa là cái nôi thứ hai giúp con người trở thành “người” theo đúng
nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát vọng vươn tới chân - thiện mỹ.
Văn hoá là những gì gắn với con người, thuộc về con người và đời sống của

3


con người; do đó, tất cả những gì mang bản chất tự nhiên đều không phải là văn
hoá. Một trong những quan niệm được thừa nhận rộng rãi là: “Văn hóa là tất cả
những giá trị vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra trên nền thế giới tự
nhiên”.
b) Văn hoá tổ chức
Mỗi khi bước vào trụ sở của một tổ chức (một cơ quan, công sở, doanh
nghiệp…), người ta thường cảm nhận được bầu không khí đặc trưng của tổ chức đó

qua hàng loạt các dấu hiệu hiển hiện dễ thấy, hoặc ngầm định khó thấy. Mỗi tổ
chức đều tự mình biểu lộ ra bên ngoài một hình ảnh tốt đẹp hoặc tầm thường nào
đó. Hình ảnh này được tạo nên bởi các nhân viên trong tổ chức, người quản lý tổ
chức, sản phẩm hoạt động của tổ chức, các hoạt động xã hội của tổ chức. Mỗi một
tổ chức đều có đặc trưng riêng, phân biệt với tổ chức khác. Hay nói một cách khác,
mỗi một tổ chức có một văn hoá riêng. Văn hoá tổ chức khác với văn hoá cộng
đồng và không đơn giản chỉ là văn hoá giao tiếp, văn hoá ứng xử như lâu nay
chúng ta thường quan niệm. Có rất nhiều quan niệm về văn hoá tổ chức, một trong
các quan niệm hay được dùng là: “Văn hoá của tổ chức là tập hợp các giá trị, niềm
tin, hành vi, trí tuệ của một tổ chức, tạo nên sự khác biệt giữa thành viên của tổ
chức này với thành viên của tổ chức khác”.
c) Văn hoá nhà trường
Xét về bản chất, mỗi nhà trường là một tổ chức hành chính - sư phạm. Đó là
một thế giới thu nhỏ với những cơ cấu, chuẩn mực, quy tắc hoạt động, những giá
trị, niềm tin, điểm mạnh và điểm yếu riêng do những con người cụ thể thuộc mọi
thế hệ tạo lập. Với tư cách là một tổ chức, mỗi nhà trường đều tồn tại, dù ít hay
nhiều, một nền văn hoá nhất định. Nhiều nhà nghiên cứu về văn hoá đã định nghĩa
văn hoá nhà trường là: “Văn hoá của một nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị,
chuẩn mực, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của
nhà trường, được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được

4


thể hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho
mỗi nhà trường”. Căn cứ theo hình thức biểu hiện thì văn hóa nhà trường gồm phần
nổi có thể nhìn thấy như: không gian cảnh quan nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, hành
vi giao tiếp... và phần chìm không quan sát được như: niềm tin, cảm xúc, thái độ,
kỳ vọng…
Nhà trường là nơi bảo tồn và lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại. Nhà

trường là nơi đào luyện những lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và sáng tạo văn hoá
cho tương lai. Nhà trường là nơi con người với con người (người dạy và người học)
cùng hoạt động để chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá, theo những cách thức văn hoá,
dựa trên những phương tiện văn hoá, trong môi trường văn hoá đại diện cho mỗi
vùng, miền, địa phương. Hơn bất cứ tổ chức nào khác trong xã hội, Nhà trường
phải là tổ chức có “hàm lượng” văn hoá cao nhất, là nơi hội tụ, kết tinh văn hoá để
đào tạo ra những chuẩn mực văn hoá cho xã hội. Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà
trường được coi là một yếu tố cơ bản, tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp
cho nhà trường thích nghi với môi trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường
bên trong. Một tổ chức có nền văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã
hội. Văn hóa mạnh của nhà trường sẽ giúp cho nhà trường thực sự trở thành một
trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong
xã hội, góp phần quan trọng tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện. Đối với đội ngũ
cán bộ, giáo viên nhà trường, văn hóa nhà trường thúc đẩy sự sáng tạo cá nhân, tạo
nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên và đảm bảo cho sự hợp tác vì
mục tiêu chung. Thầy cô giáo là người trực tiếp tham gia hoạt động dạy học, hơn ai
hết, chính nhân cách của các thầy cô giáo ảnh hưởng trực tiếp tới nhân cách học
trò. Vì vậy, chúng ta rất cần những nhà giáo ngoài kiến thức chuyên môn, phải hiểu
biết rộng về cuộc sống, có kiến thức sâu sắc về văn hóa xã hội. Đối với học sinh,
văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò điều chỉnh hành vi. Khi được giáo dục
trong một môi trường văn hóa và thấm nhuần hệ giá trị văn hóa, học trò không

5


những hình thành được những hành vi chuẩn mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa
trong tiềm thức các em là niềm tin nội tâm sâu sắc vào những điều tốt đẹp, từ đó,
khao khát cuộc sống hướng thiện và sống có lý tưởng. Văn hóa nhà trường còn
giúp các em về khả năng thích nghi với xã hội. Một con người có văn hóa thì trong
con người đó luôn hội tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính

khiêm tốn, lễ độ, thương yêu con người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã
hội... Do vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát sinh, dù là những tình huống
mà các em chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết hành
vi một cách hài hòa, các em có thể tự điều chỉnh mình phù hợp với hoàn cảnh, ứng
xử hợp lẽ, hợp với lòng người và cuộc sống xung quanh.
d) Những biểu hiện của nhà trường có văn hoá
- Nuôi dưỡng bầu không khí cởi mở, dân chủ, hợp tác, tin cậy và tôn trọng lẫn
nhau;
- Mỗi cán bộ, giáo viên đều biết rõ công việc mình phải làm, hiểu rõ trách
nhiệm, luôn có ý thức chia sẻ trách nhiệm, tích cực tham gia vào việc ra các quyết
định dạy và học;
- Coi trọng con người, cổ vũ sự nỗ lực hoàn thành công việc và công nhận sự
thành công của mỗi người;
- Nhà trường có những chuẩn mực để luôn luôn cải tiến, vươn tới;
- Nhà trường luôn sáng tạo và đổi mới;
- Khuyến khích giáo viên cải tiến phương pháp nâng cao chất lượng dạy và
học; giáo viên được khuyến khích tham gia đóng góp ý kiến trong mọi hoạt động
của nhà trường;
- Khuyến khích đối thoại và hợp tác, làm việc nhóm;
- Chia sẻ kinh nghiệm và trao đổi chuyên môn;
- Chia sẻ quyền lực, trao quyền, khuyến khích tính tự chịu trách nhiệm;
- Chia sẻ tầm nhìn;

6


- Nhà trường thể hiện sự quan tâm, có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, lôi kéo
cộng đồng cùng tham gia giải quyết những vấn đề của giáo dục.
e) Những biểu hiện tiêu cực, không lành mạnh (không văn hoá) trong nhà
trường

- Sự buộc tội, đổ lỗi cho nhau;
- Sự kiểm soát quá chặt chẽ đánh mất quyền tự do và tự chủ của cá nhân;
- Quan liêu, nguyên tắc một cách máy móc;
- Trách mắng học sinh vì các em không có sự tiến bộ;
- Thiếu sự động viên khuyến khích;
- Thiếu sự cởi mở, thiếu sự tin cậy;
- Thiếu sự hợp tác, thiếu sự chia sẻ học hỏi lẫn nhau;
- Mâu thuẫn xung đột nội bộ không được giải quyết kịp thời.
3.1.2. Những hình thái và cấp độ thể hiện của văn hoá nhà trường
a) Phần nổi có thể nhìn thấy
- Đó là những thực thể hữu hình như khung cảnh, cơ sở vật chất trường lớp,
cách bài trí lớp học, bàn ghế, thiết bị dạy học và sinh hoạt chung, logo, khẩu hiệu,
bảng hiệu;
- Đó là những thực thể vô hình như tầm nhìn, chính sách, mục đích, mục tiêu,
các triết lý, nguyên tắc, phương pháp giải quyết vấn đề và tiến hành các hoạt động
giáo dục, các thủ tục, chương trình công tác…;
- Các chuẩn mực hành vi: Nghi thức tập thể, cách tổ chức các lễ nghi, cách tổ
chức thăm viếng, các hoạt động văn hoá, học tập trong tập thể giáo viên, học sinh;
- Các hình thức sử dụng ngôn ngữ: Khẩu hiệu hành động, ngôn ngữ xưng hô
giao tiếp giữa thầy và thầy, thâỳ và trò, trò và trò…
b) Các giá trị được thể hiện
Giá trị được coi như là thước đo đúng và sai, xác định những gì nên làm và

7


không nên làm trong cách hành xử chung và riêng của con người trong một tổ
chức. Có nhà trường đề cao các giá trị nhân văn, tình yêu thương giữa những con
người trong tập thể; có nhà trường đề cao tính cộng đồng trách nhiệm và sự sáng
tạo trong công việc; lại có nhà trường đề cao các giá trị như sự trung thực, tính thực

chất hoặc khả năng đổi mới thường xuyên để nâng cao chất lượng các hoạt động
dạy học, giáo dục…
Giá trị trong tổ chức nhà trường được phân chia thành 2 loại: Loại thứ nhất là
các giá trị mà nhà trường đã hình thành và vun đắp trong cả quá trình xây dựng và
trưởng thành; Loại thứ hai là những giá trị mới mà cán bộ quản lý hoặc tập thể giáo
viên, học sinh mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng bước nhằm đem
đến sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.
c) Các ngầm định nền tảng
Các ngầm định nền tảng bao gồm niềm tin, niềm tự hào, những suy nghĩ và
trạng thái xúc cảm tình cảm đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi cá nhân và tạo thành nét
chung trong tập thể nhà trường. Những ngầm định khó thấy này được coi là những
quy ước có tính bất thành văn, có tính đương nhiên và tạo nên một mạch ngầm tinh
thần kết nối các thành viên trong nhà trường và làm nền tảng cho các giá trị và suy
nghĩ, hành động của họ.
d) Phong cách ứng xử hàng ngày
Đó là cách thể hiện của mỗi thành viên nhà trường trong ứng xử hàng ngày.
Tuỳ theo hệ giá trị được thừa nhận và những ngầm định nền tảng của mỗi tổ chức
nhà trường mà có những loại hình phong cách ứng xử được chọn lựa phù hợp.
Chẳng hạn, mỗi tập thể giáo viên có một phong cách ứng xử khác nhau: niềm nở,
thân mật hay giữ khoảng cách, nghiêm túc; xuề xoà, vui nhộn hay công thức, trang
trọng; nơi nhiệt tình, quan tâm nhưng có nơi lạnh nhạt, bàng quan, …
e) Phong cách làm việc
Mỗi tổ chức nhà trường, dù có ý thức hay vô thức, đều hình thành nên một

8


phong cách làm việc riêng. Cùng là người giáo viên với công việc dạy học nhưng
có tập thể giáo viên làm việc vì tinh thần trách nhiệm, lại có tập thể làm việc vì
những mục tiêu, lợi ích trước mắt; có nơi cán bộ giáo viên tận dụng mọi thời gian

để làm việc say mê, sáng tạo, lại có nơi làm việc kiểu công chức hành chính; có đội
ngũ giáo viên làm việc với tinh thần đồng đội cao, hợp tác và chia sẻ, bên cạnh
những tập thể làm việc trong sự ganh đua, cá nhân, “đèn nhà ai nhà ấy rạng”.
g) Phương pháp ra quyết định
Việc ra quyết định cho mỗi chủ trương, phương hướng, kế hoạch, chính sách
phát triển của nhà trường – một đặc trưng của hoạt động quản lý nhà trường, cũng
thể hiện rất rõ tính chất và mức độ văn hoá của một nhà trường. Có thể nêu 3 khía
cạnh biểu hiện sau đây:
Sự tham gia của con người khi ra quyết định: Nếu đó là quyết định độc đoán
của cá nhân người quản lý nhà trường sẽ khác biệt rất cơ bản về văn hoá so với việc
ra quyết định tập thể dựa trên sự tham gia bàn bạc dân chủ của mọi thành viên
trong tổ chức nhà trường.
Thái độ của con người khi ra quyết định quản lý cũng bộc lộ rõ văn hoá,
chẳng hạn một thái độ mạnh dạn đổi mới, dám nghĩ dám làm sẽ khác hẳn thái độ
được chăng hay chớ, né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm…
Phương pháp ra quyết định: Việc ra quyết định có các công cụ hỗ trợ bài bản
như hệ thống thông tin, sự phân tích chiến lược, các cơ sở khoa học, pháp lý …
cũng tạo ra sự khác biệt văn hoá so với cách ra quyết định dựa trên cảm tính, kinh
nghiệm hoặc rất tuỳ tiện, ngẫu hứng của chủ thể quản lý…
h) Phương pháp truyền thông
Việc truyền bá, phổ biến thông tin trong nội bộ tổ chức hay từ tổ chức ra bên
ngoài và ngược lại là một trong những dấu hiệu nhận biết quan trọng về văn hoá ở
một tổ chức nhà trường. Trước hết là sự chia sẻ thông tin trong nội bộ tổ chức có
được phổ biến rộng khắp tới mọi thành viên, ai cần cũng được cung cấp hay chỉ

9


một bộ phận cán bộ quản lý tự coi đó là một thứ “đặc quyền”, quản lý các thông tin
rất khắt khe, không muốn cho người khác biết sẽ có nhiều bất lợi cho địa vị của

mình. Cách thức truyền thông cũng là nét văn hoá tổ chức bởi đó là cách thức giao
tiếp người – người: ý kiến được truyền đạt trực tiếp hay gián tiếp, theo hướng một
chiều độc đoán “truyền lệnh” hay hai chiều dân chủ đối thoại, thông qua phương
tiện truyền thống hay hiện đại…
3.1.3. Vai trò của văn hoá nhà trường
a) Văn hoá là một thứ tài sản lớn của nhà trường
- Văn hoá có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với nhà trường, bởi lẽ,
tính văn hoá là một tính chất đặc thù của nhà trường, hơn bất kỳ một tổ chức nào.
Điều này được xác định dựa trên những căn cứ sau:
+ Nhà trường là nơi bảo tồn vào lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại;
+ Nhà trường là nơi đào luyện những lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và
sáng tạo văn hoá cho tương lai;
+ Nhà trường là nơi con người với con người (người dạy với người học) cùng
hoạt động để chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá, theo những cách thức văn hoá, dựa
trên những phương tiện văn hoá, trong môi trường văn hoá đại diện cho mỗi vùng,
miền, địa phương.
b) Văn hóa nhà trường là một chương trình đào tạo ẩn
Chương trình đào tạo ẩn bao gồm những vấn đề mà học sinh học được thông
qua mọi hoạt động trong nhà trường chứ không phải những gì được trình bày trong
mục tiêu đào tạo của trường. Chẳng hạn khi một nhà trường có cơ sở vật chất về
trường, lớp, bàn ghế, thiết bị, đồ dùng …đẹp và tốt; hàng ngày học sinh được học
tập và rèn luyện trong môi trường ấy, học sinh sẽ dần hình thành được cho mình
quan điểm về thẩm mỹ hướng tới cái đẹp, cái hoàn thiện. Học sinh được học trong
môi trường nhà trường xanh - sạch - đẹp, sẽ thích, sẽ yêu môi trường đó, dần tạo

10


nên cho mình ý thức phải xây dựng môi trường sống có nhiều cây xanh, có quy
hoạch đẹp, được vệ sinh sạch sẽ thường xuyên; khi đó học sinh tự thấy được trách

nhiệm của bản thân với môi trường và sẽ tự giác tích cực xây dựng và bảo vệ môi
trường. Học sinh được học trong môi trường nhà trường có nề nếp nghiêm túc, kỷ
cương thì một cách rất tự nhiên các em cũng sẽ xây dựng cho mình tinh thần kỷ
luật, luôn chấp hành tốt nội quy nề nếp của nhà trường. Học sinh được học các thầy
cô giáo say mê nghề nghiệp, say mê khoa học, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết
thì bản thân các em cũng sẽ noi gương các thầy cô mà say mê học tập, say mê khoa
học, tìm tòi đào sâu kiến thức, có ý thức trách nhiệm với tập thể lớp, với bản thân.
Như vậy với một nhà trường có một nền văn hóa tốt thì tự bản thân các thành
tố văn hóa tốt đẹp của nhà trường đã có tác dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh,
giúp cho học sinh tự nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện bản thân mà không cần
bất kỳ một bài giảng nào trên lớp.
c) Văn hoá nhà trường tạo động lực làm việc cho các thành viên trong nhà
trường
Động lực sư phạm được tạo nên bởi nhiều yếu tố, trong đó văn hoá là một
động lực vô hình nhưng có sức mạnh kích cầu hơn cả các biện pháp kinh tế.
Cụ thể là:
- Văn hoá nhà trường giúp cho các thành viên trong nhà trường thấy rõ mục
tiêu, định hướng và bản chất công việc mình làm, khuyến khích mối quan hệ hợp
tác, chia sẻ kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau giữa các giáo viên;
- Văn hoá nhà trường phù hợp, tích cực tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp giữa
các các cán bộ, giáo viên, nhân viên trong tập thể sư phạm, giữa giáo viên và học
sinh; đồng thời tạo ra một môi trường làm việc thoải mái, vui vẻ, lành mạnh. Đó là
nền tảng tinh thần cho sự sáng tạo - điều vô cùng quan trọng đối với hoạt động sư
phạm mà đối tượng là tri thức và con người;
- Văn hoá nhà trường tích cực giúp cho người dạy, người học và mỗi người

11


trong lực lượng xã hội xung quanh có cảm giác tự hào, hãnh diện vì được là thành

viên của nhà trường, được làm việc vì những mục tiêu cao cả của nhà trường;
Muốn tạo động lực cần khơi dậy nhu cầu và đáp ứng nhu cầu chính đáng của
mọi người. Khi khả năng đáp ứng nhu cầu thấp, động lực với người lao động sư
phạm là đồng lương, thu nhập và những giá trị vật chất. Khi thu nhập đạt đến một
mức nào đó, nhu cầu vật chất thoả mãn một mức độ nào đó, người lao động nói
chung, nhà sư phạm nói riêng sẵn sàng đánh đổi, chọn mức thu nhập thấp hơn để
được làm việc ở một môi trường hoà đồng, thân thiện, thoải mái, được cống hiến,
sáng tạo và được thừa nhận và tôn trọng.
d) Văn hoá nhà trường là con đường không chính thức kiểm soát, điều
chỉnh hành vi
Văn hóa nhà trường hỗ trợ điều phối và kiểm soát hành vi của các cá nhân
bằng các chuẩn mực, thủ tục, quy trình, quy tắc và bằng dư luận, truyền thống tốt
đẹp do những thế hệ con người trong tổ chức nhà trường xây dựng lên.
Khi nhà trường phải đối mặt với một vấn đề phức tạp, chính văn hóa nhà
trường là điểm tựa tinh thần, giúp các nhà quản lý trường học và đội ngũ giáo viên
hợp tác, phát huy trí lực để có những quyết định và sự lựa chọn đúng đắn.
Do đó chính văn hóa nhà trường giúp ngăn chặn, loại bỏ các hành vi không
phù hợp của các thành viên trong nhà trường; giúp nhà trường nhanh chóng giải
quyết được các vấn đề phức tạp nảy sinh, gạt bỏ các vấn đề phân tán không đáng có
để nhà trường cũng như các thành viên tập trung vào nhiệm vụ dạy và học, nâng
cao chất lượng hoạt động dạy và học.
e) Văn hóa nhà trường hạn chế tiêu cực và xung đột
Văn hóa nhà trường giúp các cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh thống
nhất về cách nhận thức vấn đề, cách đánh giá, lựa chọn, định hướng và hành động.
Văn hóa nhà trường tựa như chất keo gắn kết các thành viên lại thành một khối, tạo
ra những dư luận tích cực hạn chế những biểu hiện tiêu cực trái với quy tắc, chuẩn

12



mực thông thường của nhà trường, nó hạn chế những nguy cơ mâu thuẫn và xung
đột, và khi xung đột là không thể tránh khỏi thì văn hóa nhà trường tạo ra hành lang
pháp lý, đạo lý phù hợp để góp phần khắc phục, giải quyết xung đột trên nguyên
tắc không để phá vỡ tính chỉnh thể của nhà trường.
Khi các tiêu cực trong nhà trường được hạn chế, các xung đột được nhanh
chóng hóa giải, thì các thành viên trong nhà trường không bị chi phối, không bị
phân tán bởi các yếu tố ngoài chuyên môn, sẽ tập trung hơn vào công tác chuyên
môn của bản thân, từ đó sẽ tăng chất lượng hoạt động chuyên môn - chất lượng
hoạt động dạy và học.
g) Nâng cao chất lượng các hoạt động của nhà trường
Tổng hợp tất cả các yếu tố trên, từ sự gắn kết, tạo động lực, điều phối kiểm
soát và hạn chế những nguy cơ làm giảm sức mạnh của tổ chức, rõ ràng là văn hóa
tổ chức đã làm tăng hiệu quả các hoạt động trong nhà trường, trên cơ sở đó mà dần
dần tạo nên những phẩm chất đặc trưng khác biệt cho tổ chức trường học. Đó là cơ
sở nâng cao uy tín, “thương hiệu” của nhà trường, tạo đà cho các bước phát triển
tốt hơn.
3.2. Giải pháp 2: Biện pháp quản lý phát triển văn hoá nhà trường
3.2.1. Đặc điểm nhà trường năm học 2014 - 2015
Trường THPT A Hải Hậu nằm ở trung tâm huyện Hải Hậu. Trường được
thành lập năm 1960. Năm học 2014 – 2015 trường có 41 lớp với 1732 học sinh
(khối 10 có 13 lớp, khối 11và 12 có 14 lớp); Trường có 105 cán bộ, giáo viên,
nhân viên, trong đó có một Hiệu trưởng và ba Phó Hiệu trưởng. Chi bộ đảng của
nhà trường có 45 đảng viên, Ban chi uỷ có 7 đồng chí, Hiệu trưởng nhà trường
kiêm Bí thư chi bộ. Trường có 7 tổ chuyên môn: Toán - Tin, Vật lí - Công nghệ
Công nghiệp, Hoá - Sinh - Công nghệ Nông nghiệp, Ngữ văn, Sử - Địa - GDCD,

13


Ngoại ngữ, Thể dục – Quốc phòng an ninh và một tổ văn phòng. Ngoài ra nhà

trường có đầy đủ các tổ chức đoàn thể như công đoàn, đoàn thanh niên...
3.2.2. Biện pháp quản lý phát triển yếu tố văn hoá hữu hình/vật thể
3.2.2.1. Biện pháp quản lý phát triển các chuẩn mực hình thức
a) Khuân viên nhà trường
Trường nằm ở trung tâm thị trấn Yên Định của huyện Hải Hậu, khuân viên
nhà trường có diện tích 19930 m2, với mật độ 11,51 m2/1 học sinh, đảm bảo định
mức quy định của trường Chuẩn quốc gia ở vùng nông thôn với mật độ diện tích tối
thiểu 10 m2/1 học sinh; trường có tường rào bao quanh, có cổng trường đẹp, biển
trường, vườn trường, có nhiều cây cảnh và cây bóng mát. Sân trước của trường
diện tích khoảng 3000 m2 là nơi tập trung sinh hoạt đầu tuần của học sinh toàn
trường, nơi tổ chức các buổi Lễ Khai giảng, Sơ kết, Tổng kết năm học có hệ thống
các bảng thông tin của đoàn thanh niên nhà trường, có hệ thống cây cảnh đẹp, hệ
thống cây bóng mát đa dạng, xanh tốt quanh năm che mát cho sân trường. Khu sân
chơi bãi tập phía sau của nhà trường có diện tích khoảng 9000 m 2 cũng được quy
hoạch hệ thống cây bóng mát đẹp và xanh tốt, có hệ thống ghế đá dưới gốc cây; sân
có đầy đủ các hạng mục công trình phục vụ cho việc học tập môn Giáo dục thể chất
hay sự vui chơi của học sinh, như: sân bóng đá, sân bóng chuyền, nhảy cao, nhảy
xa, đường chạy 100 m được quy hoạch đẹp mắt và khoa học, đảm bảo yêu cầu
giảng dạy.
Nhà trường tổ chức quản lý chặt chẽ công tác xây dựng, sử dụng, giữ gìn, bảo
vệ khuân viên như giao các bồn hoa thảm cỏ cho các lớp quản lý, chăm sóc, giao
đoàn thanh niên nhà trường theo dõi đánh giá xếp loại thi đua hàng tuần đối với các
lớp được phân công. Mỗi tuần, nhà trường phân công một lớp thực hiện nhiệm vụ
quét dọn vệ sinh toàn bộ khuân viên nhà trường tất cả các ngày trong tuần. Việc vệ

14


sinh khuân viên nhà trường được thực hiện hàng tuần, hàng tháng, kể cả trong thời
gian nghỉ hè nên khuân viên nhà trường luôn luôn sạch sẽ. Nhà trường phân công

một đồng chí nhân viên văn phòng hàng ngày kiểm tra công tác vệ sinh của lớp
trực tuần, hàng tuần đánh giá xếp loại kết quả thực hiện nhiệm vụ trực tuần của các
lớp và lấy kết quả để đánh giá xếp loại thi đua về công tác đoàn của các lớp cuối
học kỳ và cuối năm học. Nhà trường xây dựng quy định công tác lao động trực
tuần, phổ biến đến từng học sinh, quy định về việc sử dụng các hạng mục cơ sở vật
chất, chế tài xử lý vi phạm làm hỏng hóc cơ sở vật chất hay làm mất vệ sinh môi
trường và tổ chức thực hiện nghiêm túc các quy định đã đặt ra.
Nhà trường thành lập một ban phụ trách về cơ sở vật chất, vệ sinh môi trường,
đồng chí Hiệu trưởng làm trưởng ban, phân công một đồng chí Phó hiệu trưởng
làm phó trưởng ban thường trực có nhiệm vụ hàng tuần kiểm tra cơ sở vật chất, vệ
sinh môi trường, xây dựng kế hoạch tổ chức lao động vệ sinh, kế hoạch duy tu bảo
dưỡng các hạng mục công trình, thường xuyên tham mưu với ban giám hiệu kế
hoạch bổ sung nâng cấp cơ sở vật chất, trồng cây.
Nhờ tổ chức tốt công tác quản lý, bảo vệ khuân viên nhà trường, nên nhà
trường luôn duy trì được khuân viên đẹp, môi trường xanh - sạch - đẹp, tạo nên môi
trường học tập và rèn luyện tốt cho học sinh.
b) Hệ thống các phòng chức năng
Nhà trường đã xây dựng đủ các phòng chức năng như Hội trường lớn, phòng
họp nhỏ, các phòng làm việc của Ban Giám hiệu, Chủ tịch công đoàn, Bí thư đoàn
thanh niên, Văn phòng đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, phòng điều hành,
phòng kế toán, phòng văn thư, phòng y tế học đường, thư viện điện tử, thư viện
sách giáo khoa và tài liệu tham khảo…
Các phòng chức năng của nhà trường được bài trí một cách khoa học, đảm
bảo yếu tố thẩm mỹ, phù hợp với mục đích sử dụng của chúng. Các phòng đều
được trang bị nội thất phù hợp với yêu cầu công việc, sắp xếp ngăn nắp, trang

15


trọng, tạo nên một khung cảnh làm việc nghiêm túc.

Các phòng chức năng được giao cho các đồng chí nhân viên văn phòng nhà
trường, cùng các đồng chí cán bộ, giáo viên được sắp xếp làm việc trong đó quản
lý, chịu trách nhiệm về tài sản trong phòng, vệ sinh phòng luôn sạch sẽ gọn gàng.
Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên kiểm tra việc bài trí, vệ sinh các phòng, tổ
chức định kỳ hàng năm kiểm kê tài sản của các phòng, do đó hệ thống các phòng
chức năng của nhà trường luôn đảm bảo ngăn nắp, sạch đẹp, có tác dụng giáo dục.
Nhà trường đẩy mạnh công tác xã hội hoá, tranh thủ sự giúp đỡ của phụ
huynh học sinh, của các thế hệ cựu học sinh để đầu tư trang bị cơ sở vật chất cho
nhà trường, trang bị các đồ dùng phù hợp hơn, mới hơn, đẹp hơn cho các phòng
chức năng.
c) Hệ thống lớp học
Nhà trường có hệ thống lớp học gồm 3 dãy nhà ba tầng liên thông với 42
phòng học. Các lớp học được bài trí khoa học, đẹp. 100% các lớp học có ảnh Bác,
nội quy nhà trường, khẩu hiệu dạy tốt - học tốt, khăn trải bàn, lọ hoa, bảng theo dõi
thi đua học sinh hàng ngày, tuần, tháng; nhiều lớp học có thêm các thiết bị dạy học
như máy tính, máy chiếu projector, thiết bị âm thanh. Hệ thống bàn ghế được
chuyển dần từ 4 chỗ sang hai chỗ phù hợp cho việc đổi mới phương pháp dạy học
(năm học 2014-2015, 50% số lớp học của nhà trường đã sử dụng bàn ghế 2 chỗ
ngồi), được sơn bóng đẹp, được giữ gìn sạch sẽ, không bị viết vẽ lên mặt bàn. Nhà
trường có quy định cụ thể về việc sắp xếp, trang trí lớp, vệ sinh lớp học. Đầu năm
học nhà trường bàn giao tài sản lớp cho học sinh quản lý, bảo quản, sử dụng; cuối
năm học, học sinh bàn giao lại tài sản lớp học cho nhà trường. Học sinh phải tự bồi
hoàn hoặc sửa chữa những hư hỏng tài sản lớp do việc quản lý, bảo vệ không tốt
gây ra. Hàng ngày nhân viên quản sinh nhà trường kiểm tra đánh giá vệ sinh các
lớp học, lấy kết quả xếp loại thi đua của lớp hàng tuần, hàng tháng và học kì.

16


- Định kỳ đầu năm học và đầu học kỳ 2, nhà trường tổ chức đoàn kiểm tra,

kiểm tra việc trang trí lớp, trật tự vệ sinh của lớp, lấy kết quả xếp loại thi đua; ngoài
ra nhà trường tổ chức các đợt kiểm tra đột xuất để đôn đốc, nhắc nhở uốn nắn kịp
thời các lớp làm chưa tốt.
- Nhà trường còn quan tâm và làm tốt công tác xã hội hoá, tranh thủ được sự
giúp đỡ kinh phí của phụ huynh học sinh để định kỳ bảo dưỡng, quét vôi các lớp
học, giữ cho các lớp luôn mới, sáng sủa, đẹp đẽ. Bên cạnh đó nhà trường quan tâm
và làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền học sinh giữ gìn lớp học sạch sẽ, không
viết vẽ bậy lên tường lớp, bàn ghế, giao các khu vực công cộng cho các lớp quản
lý, bảo vệ…
Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp quản lý trong năm học mà hệ thống
lớp học của nhà trường luôn đẹp, sạch sẽ, ngăn nắp, tạo nên môi trường học tập, rèn
luyện tốt cho học sinh.
d) Hệ thống phòng học bộ môn
Nhà trường còn có khu nhà học bộ môn với 9 phòng học, nhà giáo dục thể
chất đa năng hai tầng với tổng diện tích 2000 m2.
Hệ thống các phòng học bộ môn của các môn học Vật lí, Hoá học, Sinh học,
các phòng máy vi tính, được xây dựng theo quy chuẩn về kích thước của Bộ Giáo
dục. Trong các phòng có nội quy quy định về việc sử dụng, bảo quản, hoạt động
của phòng và trách nhiệm của người phụ trách, của giáo viên, của học sinh khi làm
việc, học tập tại phòng bộ môn; trong phòng còn có ảnh chân dung của các bác học,
các nhà khoa học nổi tiếng hàng đầu của môn học được treo ở các vị trí trang trọng.
Nhà trường trang bị đầy đủ bàn ghế phù hợp cho các phòng bộ môn, trang bị khá
đầy đủ các thiết bị dạy học theo yêu cầu của môn học, trang bị thiết bị công nghệ
thông tin phục vụ công tác giảng dạy tại phòng. Các phòng bộ môn được giao cho
các đồng chí nhân viên văn phòng chuyên trách về công tác thiết bị phụ trách,
quản lý, giao cho các tổ chuyên môn khai thác sử dụng.

17



Nhà trường định kỳ kiểm tra đánh giá việc bài trí, xếp đặt, vệ sinh các phòng
học bộ môn 4 lần trong năm học (giữa học kỳ 1, cuối học kỳ 1, giữa học kỳ 2, cuối
học kỳ 2), lấy kết quả để xếp loại thi đua đối với đồng chí nhân viên phụ trách
phòng. Định kỳ 2 lần trong năm học (vào thời gian nghỉ hè trước năm học mới và
cuối năm dương lịch), nhà trường tổ chức kiểm kê tài sản, thiết bị trong phòng, tổ
chức mua sắm bổ sung kịp thời các dụng cụ, thiết bị cần thiết cho việc giảng dạy và
học tập của học sinh.
Hệ thống phòng học bộ môn của nhà trường được quản lý tốt, khai thác sử
dụng với tần xuất cao, cùng với hệ thống lớp học, tạo nên môi trường học tập tốt
cho học sinh, giúp các em tăng thêm hứng thú đối với các môn học, có điều kiện đi
sâu, nâng cao kiến thức, kỹ năng đối với các môn học.
e) Trang phục
Nhà trường thực hiện đúng quy định của Chính phủ về trang phục của viên
chức Nhà nước; quy định của Luật giáo dục và Điều lệ trường phổ thông của Bộ về
trang phục của cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh khi thực hiện các hoạt động
giáo dục trong nhà trường; trong đó yêu cầu cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh
ăn mặc gọn gàng, lịch sự, phù hợp với hoạt động giáo dục. Nhà trường quy định
học sinh mặc đồng phục (quần sẫm màu, áo sơmi trắng hoặc áo khoác có in logo
nhà trường trên ngực áo) trong tất cả các ngày trong tuần khi điều kiện thời tiết cho
phép. Vào các ngày lễ, cán bộ, giáo viên nữ mặc áo dài hoặc váy công sở, cán bộ,
giáo viên nam mặc comple, thắt cà vạt, học sinh mặc quần áo đồng phục, từ đó toát
lên tính nghiêm túc, sự hoà đồng trong tập thể nhà trường.
Nhà trường quy định, đồng thời cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường
nghiêm túc thực hiện việc không mặc quần áo “Bò”, quần áo quá “bó”, áo “quá
ngắn” hay quá mỏng khi thực hiện các hoạt động giáo dục học sinh trong nhà
trường.
Nhà trường quy định học sinh nhà trường không mặc quần “Bò” khi tham

18



gia các hoạt động học tập, rèn luyện ở trường, quy định học sinh mặc áo đồng
phục, sơ vin gọn gàng, không đi dép lê, phải đi dép có quai hậu đồng thời luôn phải
cài quai hậu; nhà trường không cho phép học sinh các lớp tự may áo đồng phục
riêng của lớp
Để giúp cho học sinh thực hiện tốt nội quy nề nếp nhà trường, đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhà trường đã thành lập đội thanh niên xung kích để
hàng ngày kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nội quy của học sinh, tuyên dương kịp
thời các tập thể, học sinh thực hiện tốt, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời những học sinh
thực hiện chưa tốt. Với quy định thực hiện nghiêm túc việc mặc đồng phục của học
sinh trong năm học, tạo nên hình ảnh nghiêm túc, chuẩn mực của học sinh nhà
trường, góp phần tạo nên môi trường giáo dục tốt đẹp trong nhà trường.
f) Lô gô
Nhà trường đã có lôgô với biểu tưởng trang sách mở rộng và cây bút được
cách điệu thành ngọn đuốc tri thức soi đường cho thế hệ trẻ; đồng thời cũng gợi lên
hình ảnh con thuyền và cánh buồm đang căng gió vươn tới chân trời tri thức. Lôgô
được sơn màu vàng là màu của thương hiệu, của chất lượng. Đầu năm học, trong
các buổi học tập về nội quy, truyền thống nhà trường, học sinh được giới thiệu về
Lôgô nhà trường. Lôgô nhà trường là biểu tượng cho truyền thống dạy tốt, học tốt,
chất lượng và thương hiệu nhà trường do đó có ý nghĩa giáo dục rất lớn với học
sinh. Lôgô được đặt chính giữa ngôi nhà học chính đối diện với cổng trường, khi
học sinh bước vào cổng trường các em sẽ nhìn thấy ngay Lôgô, các em sẽ được
nhắc nhở về truyền thống nhà trường mà có ý thức rèn luyện, học tập tốt hơn.
g) Khâủ hiệu, phương châm làm việc
Khẩu hiệu ngay cổng trường (quay mặt vào sân trường), hàng ngày hàng giờ
cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh nhà trường đều nhìn thấy là: “Phát huy
truyền thống đơn vị Anh hùng, trường THPT A Hải Hậu thi đua dạy tốt học tốt”.
Khẩu hiệu trong Hội trường, trong phòng điều hành của nhà trường là: “Mỗi thầy

19



giáo, cô giáo là một tấm gương sáng về đạo đức, tự học và sáng tạo”. Khẩu hiệu
trên các lớp học là “Dạy tốt – Học tốt”. Các khẩu hiệu trên, là phương châm làm
việc của nhà trường, hàng ngày, hàng giờ nhắc nhở cán bộ, giáo viên, nhân viên,
học sinh nhà trường luôn luôn cố gắng nâng cao chất lượng công tác, học tập để
góp phần duy trì, phát huy truyền thống tốt đẹp của nhà trường.
h) Bài trí nơi làm việc
Kiến trúc trụ sở làm việc và cách thức bày trí nơi làm việc phản ánh các giá
trị và niềm tin của tổ chức, thể hiện văn hoá tổ chức, do đó nhà trường rất coi trọng
kiến trúc và bài trí nơi làm việc.
Các phòng chức năng của nhà trường được bài trí một cách khoa học, đảm
bảo yếu tố thẩm mỹ, phù hợp với mục đích sử dụng. Các phòng đều được trang bị
nội thất phù hợp với yêu cầu công việc, sắp xếp ngăn nắp, trang trọng, tạo nên một
khung cảnh làm việc nghiêm túc, uy nghiêm. Tổ văn phòng của nhà trường được
giao nhiệm vụ quản lý các phòng chức năng, và đảm bảo các phòng chức năng
luôn được bày trí trang trọng, vệ sinh sạch sẽ. Ban lao động - vệ sinh môi trường
của nhà trường, đứng đầu là một đồng chí Phó Hiệu trưởng phân công thành viên
thường xuyên kiểm tra, định kỳ 4 lần trong năm học (giữa học kỳ 1, cuối học kỳ 1,
giữa học kỳ 2, cuối học kỳ 2) tổ chức đoàn kiểm tra việc bài trí hệ thống các phòng
chức năng, chấn chỉnh kịp thời các sai lệch, đồng thời lấy kết quả kiểm tra để đánh
giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, xếp loại thi đua đối với nhân viên và tổ văn
phòng.
3.2.2.2. Quản lý phát triển các chuẩn mực về nội dung
a) Sứ mạng, mục đích của nhà trường
Ban giám hiệu nhà trường tổ chức, chỉ đạo các tổ chức, đoàn thể, hội đồng
nhà trường nghiên cứu xây dựng kế hoạch chiến lược nhà trường giai đoạn 2015 –
2020, tầm nhìn 2030, trong đó tuyên bố sứ mạng, giá trị, kỳ vọng của nhà trường:

20



- Sứ mạng của nhà trường:
Duy trì, phát triển môi trường học tập có chất lượng giáo dục cao. Học sinh có
động cơ học tập, tu dưỡng đúng đắn với khát vọng vươn lên; có kĩ năng sống, phẩm
chất đạo đức tốt; có năng lực nhận thức, sáng tạo, khả năng phát triển toàn diện và
năng lực học tập suốt đời.
- Giá trị: Hệ thống giá trị cơ bản của nhà trường là
+ Tình đoàn kết
+ Tinh thần trách nhiệm
+ Tính sáng tạo
+ Sự hiệu quả
+ Sự hợp tác
+ Khát vọng vươn lên
+ Lòng tự trọng
+ Tính trung thực
+ Lòng nhân ái
- Kỳ vọng: Là trường THPT hàng đầu của tỉnh Nam Định, thu hút học sinh
lựa chọn để học tập và rèn luyện, nơi giáo viên và học sinh luôn có khát vọng vươn
lên và được trang bị tốt cho tương lai.
Sứ mạng, giá trị, kỳ vọng của nhà trường được tuyên bố công khai trong Hội
đồng nhà trường, trước học sinh toàn trường, nhắc nhở toàn bộ cán bộ, giáo viên,
nhân viên, học sinh luôn ghi nhớ về nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân đối với việc
duy trì, phát huy truyền thống dạy tốt học tốt của nhà trường, là động lực thúc đẩy
toàn trường nỗ lực không ngừng trong công tác, giảng dạy, học tập để nâng cao giá
trị bản thân, nâng cao thành tích, chất lượng, thương hiệu của nhà trường.
b) Quy trình, thủ tục làm việc
Nhà trường xây dựng và duy trì một nền nếp làm việc khoa học và chuyên
nghiệp bắt đầu từ việc xây dựng quy chế làm việc và hệ thống các quy định, nội


21


quy về các mặt hoạt động của nhà trường như: “Quy định về thực hiện nền nếp
công tác chuyên môn”, “Nội quy nhà trường”, ‘Quy tắc ứng xử”, “Quy định nếp
sống văn hoá”, “Quy định xin nghỉ, đổi giờ, dạy thay”... Việc xây dựng nội quy,
quy chế được giao cho các nhóm công tác trong nhà trường mà đứng đầu là các
đồng chí trong ban giám hiệu, trưởng các đoàn thể, đại diện giáo viên giỏi thực
hiện. Căn cứ để xây dựng nội quy, quy chế là Luật giáo dục, Điều lệ trường phổ
thông, các quy định của Bộ Giáo dục, của Sở Giáo dục, của các cấp chính quyền
địa phương và thực tiễn nhà trường. Các nội quy, quy định sau khi xây dựng xong,
được lấy ý kiến góp ý của tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường. Khi toàn
bộ thành viên nhà trường bổ sung, góp ý, nhất trí thông qua thì các nội quy, quy
chế được chính thức đưa vào thực hiện.
Một số quy trình, thủ tục làm việc như:
+ Việc tuyển dụng giáo viên, nhân viên cho nhà trường được thực hiện một
cách công khai, minh bạch. Giáo viên xin về trường được ban giám hiệu nhà trường
nghiên cứu kỹ hồ sơ, xem xét một cách toàn diện từ năng lực chuyên môn nghiệp
vụ, lịch sử quá trình học tập, công tác đến đạo đức, tác phong, lối sống, điều kiện
hoàn cảnh gia đình, được phỏng vấn. Khi giáo viên đã vượt qua được vòng sơ loại,
thì được nhà trường tổ chức cho dạy thử để tổ nhóm chuyên môn dự giờ, nếu được
tổ nhóm chuyên môn thừa nhận là có chuyên môn tốt, đáp ứng được yêu cầu của
nhà trường và đề nghị nhà trường tiếp nhận, thì Ban giám hiệu mới tiếp nhận đơn
và đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo điều chuyển giáo viên về trường công tác.
+ Việc bổ nhiệm cán bộ cho nhà trường luôn được thực hiện đúng theo quy
định của Đảng, nhà nước đảm bảo đúng người có uy tín, năng lực, phù hợp với yêu
cầu công việc, công khai, minh bạch. Trong việc bổ nhiệm thì, công tác quy hoạch
cán bộ được thực hiện hết sức nghiêm túc, thận trọng, luôn bổ nhiệm người trong
quy hoạch.
+ Công tác thi đua khen thưởng được thực hiện đúng theo quy định của Sở


22


Giáo dục, đúng quy trình: Trên cơ sở đăng ký thi đua của cán bộ, giáo viên từ đầu
năm học, căn cứ vào chất lượng công tác vào kết quả thực hiện nội quy nền nếp của
từng cá nhân, tổ chuyên môn tổ chức cho giáo viên nghiên cứu bình bầu, xếp loại
thi đua cho từng cán bộ, giáo viên trong tổ trong từng học kỳ và cả năm học. Nhà
trường tổ chức Hội nghị Liên tịch mở rộng nghiên cứu, xem xét kết quả giới thiệu
của các tổ chuyên môn, các đoàn thể, quyết định đề xuất với cấp trên về mức khen
thưởng cho từng thành viên trong nhà trường, các trường hợp có nhiều ý kiến trái
chiều thì được quyết định bằng bỏ phiếu kín. Trong năm học, công tác thi đua khen
thưởng được thực hiện công khai, minh bạch, chu đáo, luôn khen đúng người, đúng
thành tích, là biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh phong trào thi đua trong nhà trường.
+ Công tác tổ chức, xây dựng kế hoạch công tác trong năm học: Đầu năm học
nhà trường tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên học tập Luật giáo dục, Điều lệ
trường phổ thông, Chỉ thị nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục và Sở Giáo dục,
Hướng dẫn giảng dạy các môn học của Sở, Hướng dẫn thực hiện nề nếp công tác,
quy chế chuyên môn… Nhà trường tổ chức cho học sinh học truyền thống của
huyện, truyền thống nhà trường, nội quy quy định của nhà trường đối với học sinh.
Nhà trường tổ chức các hội nghị, kiện toàn các tổ chức đoàn thể theo quy định,
thông qua các quy chế như quy chế dân chủ, quy chế chi tiêu nội bộ, quy định thực
hiện nhiệm vụ công tác chuyên môn… Nhà trường tổ chức cho các đoàn thể, các cá
nhân cán bộ, giáo viên, nhân viên xây dựng kế hoạch công tác trong năm học,
tháng, tuần; phân công duyệt kế hoạch: Hiệu trưởng duyệt kế hoạch của các Phó
Hiệu trưởng, Ban giám hiệu duyệt kế hoạch của các tổ chuyên môn, công đoàn,
đoàn thanh niên, Tổ trưởng chuyên môn duyệt kế hoạch của các giáo viên, Tổ
trưởng văn phòng duyệt kế hoạch của các nhân viên văn phòng. Sau khi kế hoạch
được phê duyệt, các tổ chức, đoàn thể, cá nhân trong nhà trường chủ động thực
hiện nhiệm vụ theo kế hoạch.


23


+ Nền nếp hội họp: Thứ bảy hàng tuần Ban Chi uỷ, Ban Giám hiệu, Chủ tịch
công đoàn, Bí thư đoàn trường (ban Liên tịch) họp giao ban rà soát việc thực hiện
nhiệm vụ công tác trong tuần và lên kế hoạch công tác cho tuần sau, trong đó lần
lượt từng đồng chí báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ của nhà trường ở nội dung
mình được phân công phụ trách, đánh giá mức độ hoàn thành, đề xuất kế hoạch cho
tuần sau. Căn cứ vào kết quả đạt được, Hiệu trưởng kết luận đánh giá chung, và
thống nhất kế hoạch công tác cho tuần học sau và các tuần học kế tiếp sau đó (với
các công việc phải thực hiện trong khoảng thời gian dài). Cũng vào thứ bảy hàng
tuần, sau khi họp Ban liên tịch, Ban giám hiệu họp với giáo viên chủ nhiệm các lớp
trong toàn trường, nghe phản ánh của giáo viên chủ nhiệm về tình hình học tập và
thực hiện nội quy nền nếp của học sinh, đánh giá việc thực hiện nền nếp học tập
của học sinh toàn trường và thống nhất nội dung công tác giáo dục học sinh trong
tuần học sau. Thời gian còn lại của buổi họp chủ nhiệm được dành cho việc tư vấn,
trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ công tác chủ nhiệm cho giáo viên, phổ biến kinh
nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm thường xảy ra, qua đó bồi dưỡng năng
lực công tác chủ nhiệm cho giáo viên.
Định kỳ 2 tuần một lần vào sáng thứ 2, nhà trường tổ chức họp Liên tịch mở
rộng gồm Ban liên tịch cùng với các đồng chí tổ trưởng chuyên môn, văn phòng,
trưởng ban thanh tra nhân dân. Trong cuộc họp, các đồng chí tổ trưởng chuyên môn
báo cáo việc thực hiện kế hoạch công tác của tổ trong thời gian qua, báo cáo việc
thực hiện kế hoạch dạy học của giáo viên trong tổ, so sánh với kế hoạch năm để
đánh giá mức độ thực hiện kế hoạch của tổ; các đồng chí Phó Hiệu trưởng, trưởng
các đoàn thể báo cáo đánh giá việc thực hiện kế hoạch của các mảng công việc
được phân công phụ trách; đồng chí Hiệu trưởng kết luận, đánh giá chung và quán
triệt việc thực hiện nhiệm vụ trong thời gian tới.
Hàng tháng nhà trường tổ chức họp Hội đồng nhà trường 1 lần, đánh giá việc

thực hiện nhiệm vụ của toàn trường trong tháng, biểu dương các tập thể, cá nhân

24


hoàn thành tốt nhiệm vụ, rút kinh nghiệm các tập thể cá nhân chưa hoàn thành tốt
nhiệm vụ, triển khai công tác của tháng tới.
Các tổ chuyên môn sinh hoạt định kỳ 2 tuần 1 lần, nội dung sinh hoạt đi sâu
vào công tác chuyên môn trao đổi phổ biến kinh nghiệm về chuyên môn nghiệp vụ,
sinh hoạt chuyên đề nghiên cứu bài học, sinh hoạt chuyên đề ôn thi đại học, hạn
chế tối đa kiểu sinh hoạt thuần tuý hành chính nhắc việc kém hiệu quả. Tổ văn
phòng, các đoàn thể trong nhà trường cũng thực hiện nghiêm túc nền nếp hội họp
theo quy định, có kế hoạch khoa học, đảm bảo chất lượng, hiệu quả.
+ Nền nếp giờ giấc ra vào lớp: Giáo viên nhà trường thống nhất cao với ban
giám hiệu việc thực hiện tốt quy định về nền nếp giờ giấc ra vào lớp trong các tiết
dạy, trong các hoạt động giáo dục học sinh là một nét văn hoá quan trọng, có tác
dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh, do đó nhà trường hết sức quan tâm và tổ
chức quản lý tốt việc thực hiện nền nếp giờ giấc của giáo viên. Từ việc quy định
thời gian chuẩn bị cho tiết học, thời gian bắt đầu vào học, thời gian giải lao giữa
tiết, chỉnh giờ chính xác cho đồng hồ theo dõi, đến việc phân công nhân viên văn
phòng, giáo vụ, giám hiệu trực theo dõi nền nếp ra vào lớp của giáo viên đều được
nhà trường thực hiện một cách hết sức nghiêm túc. Giáo viên đi muộn được nhắc
nhở, rút kinh nghiệm kịp thời trên các bảng tin, trong các cuộc họp, thông tin đi
muộn được đưa vào đánh giá xếp loại thi đua giáo viên trong năm học. Với cách
làm trên, trong năm học, số lượt giáo viên nhà trường ra vào lớp muộn rất hạn chế,
nếu có thường do nguyên nhân khách quan.
+ Thực hiện tiết giảng trên lớp, ngoài những quy định truyền thống về nội
dung, phương pháp, các bước lên lớp, nhà trường thống nhất quy định mục tiêu cao
nhất về sự thành công của tiết dạy là thực hiện được sự đổi mới phương pháp giảng
dạy, trong đó thể hiện rõ vai trò của giáo viên là tổ chức, hướng dẫn, trọng tài, kiểm

tra đánh giá, vai trò của học sinh là tích cực, chủ động thi công xây dựng bài. Giáo
viên luôn sáng tạo trong phương pháp giảng dạy của bản thân, luôn làm mới bài

25


×